TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ BÁCH KHOA HÀ NỘI
Tiểu luận môn Chính Trị
Đề Tài: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ ĐẠI
ĐOÀN KẾT DÂN TỘC. Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC
HỌC TẬP VÀ RÈN LUYỆN CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
CÁN BỘ GIẢNG DẠY:
Hà Giáng Hương
SINH VIÊN THỰC HIỆN:
1. Trương Thế Diệu – Lớp 18
2. Lê Hữu Tuân – Lớp 18
3. Võ Quốc Dương – Lớp 18
4. Nguyễn Văn Huân – Lớp 18
Hà Nội, tháng 12-2015
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU………………………………………………………………..…1
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN
TỘC……………………………………………………………………..…3
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc….….. 3
2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc…..6
CHƯƠNG II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KẾT HỢP SỨC
MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI…………………....10
1. Quá trình nhận thức của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại………………………………………….…10
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại…………………………………………………………..…12
CHƯƠNG III. PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC,
KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI
TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY………………………………...16
CHƯƠNG IV. Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN
ĐỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC ĐỐI VỚI VIỆC HỌC TẬP VÀ RÈN
LUYỆN CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY………………………………..18
KẾT LUẬN……………………………………………………………..19
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………..20
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong mọi thời đại muốn chiến thắng kẻ thù xâm lược xây
dựng đất nước thì chính sách quan trọng nhất chính là tạo một
khối đoàn kết trong nhân dân. Quả thật nếu trong một đất nước
không có sự đoàn kết chắc chắn đất nước sẽ suy đồi, vì thế khi
sinh thời Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến chính sách đại đoàn kết
dân tộc, vì theo Người muốn giải phóng đất nước thì phải giải
phóng dân tộc trước, tức là phải tạo một khối đoàn kết giữa các
dân tộc với nhau. Chính vì chính sách này mà cách mạng ta đã
thành công và ngày nay tiếp bước tư tưởng của Bác, Đảng và nhà
nước ta không ngừng phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Để
hiểu rõ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh vể vần đề này, nhóm chúng
em đã chọn đề tài “ Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Vấn Đề Đại
Đoàn Kết Dân Tộc. Ý Nghĩa Của Nó Đối Với Việc Học Tập Và
Rèn Luyện Của Sinh Viên Hiện Nay ” làm tiểu luận môn học.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Như Hồ Chí Minh đã nói:
“ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công.”
Đoàn kết là sức mạnh mà không một kẻ thù nào có thể đánh
thắng được. Có đoàn kết sẽ có thành công, có đại đoàn kết sẽ có
đại thành công, vì thế mà Hồ Chí Minh không ngừng kêu gọi sự
đoàn kết trong toàn dân, dù họ là ai, thuộc tầng lớp hay tôn giáo
nào. Có thể nói Bác chính là ngọn cờ đầu khơi lên tinh thần đoàn
kết dân tộc mở ra một chiến lựơc giải phóng, xây dựng đất nước.
Khi chọn đề tài này làm tiểu luận mục đích của nhóm chúng em
là hiểu và nắm bắt được tầm quan trọng của việc đoàn kết giữa
các dân tộc, đồng thời trang bị cho mình một kiến thức về tư
tưởng của Bác trong việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc.
3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Bài tiểu luận này được chúng em viết dựa trên phương pháp chọn
lọc, sưu tầm, tổng hợp, đối chiếu.
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết hợp tài liệu tham khảo, nội dung đề
tài bao gồm 4 chương và 7 tiết.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN
KẾT DÂN TỘC
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc
1.1.Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần đoàn kết cộng
đồng của dân tộc Viện Nam.
Dân tộc ta hình thành, tồn tại và phát triển suốt bốn nghìn năm
lịch sử, gắn liền với yếu tố đoàn kết cộng đồng dựng nước và giữ
nước. Để tồn tại và phát triển, dân ta phải chống lại thiên tai
thường xuyên và liên tục, trị thủy các con sông lớn, cải tạo xây
dựng đồng ruộng, trồng lúa nước. Với nền văn minh nông nghiệp
trồng lúa nước chính là văn hóa tạo ra yếu tố đoàn kết cộng đồng,
của những người cùng sống trên một dải đất, có chung một kiểu
sinh hoạt và kinh tế.
Mặt khác dân tộc ta phải thường xuyên đối đầu với các thế lực
ngoại bang hung bạo. Để chiến thắng dân ta phải xiết chặt muôn
người như một chống xâm lược tạo nên truyền thống yêu nước
quý báu của dân tộc. Yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết đã trở
thành một tình cảm tự nhiên, in đậm dấu ấn trong cấu trúc xã hội
truyền thống, tạo thành quan hệ ba tầng chặt chẽ : gia đình – làng
xã – quốc gia. Từ đời này sang đời khác, tổ tiên ta đã có rất nhiều
những câu ca dao, chuyện cổ tích, ngạn ngữ ca ngợi truyền thống
dân tộc.
Hồ Chí Minh đã sớm hấp thụ và nhận thức được vai trò của
truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc.
Người khẳng định: “ dân ta có một lòng nòng nàn yêu nước. Đó
là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi quốc gia
bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng
vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết cộng đồng của dân
tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
1.2.Người trăn trở về vấn đề đoàn kết lực lượng chống Pháp và
cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới
Hồ Chí Minh thấy các phong trào chống Pháp của dân ta tuy
rầm rộ nhưng đều thất bại, do không quy tụ được sức mạnh của
dân tộc. Người thấy được những hạn chế trong việc tập hợp lực
lượng yêu nước của các nhà yêu nước tiền bối. Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học… đều yêu nước thương dân,
nhưng về tập hợp lực lượng thì các bậc tiền bối này đều có vấn
đề, cho nên tập hợp không được rộng rãi, không đầy đủ vì thế tất
cả các cuộc khởi nghĩa đều thất bại. Như cụ Phan Bội Châu chủ
chương tập hợp 10 hạng người chống Pháp: Phú hào, Quý tộc,
Nhi nữ, Anh sĩ, Du đồ, Hôi đảng, Thông ngôn, Ký lục, Bồi bếp,
tín đồ Thiên Chúa giáo nhưng lại không có công nhân và nông
dân.
Người đã đi khắp các thuộc địa và nhiều nước đế quốc, nhưng
vẫn chưa thấy dân tộc nào làm giải phóng thành công, do thiếu sự
lãnh đạo đúng đắn, chưa biết tổ chức đoàn kết lực lượng. Nghiên
cứu Cách mạng Tháng 10 Nga, Người thấy nổi bậc bài học về
đoàn kết tập hợp lực lượng công nông để làm cách mạng giành
chính quyền và bảo vệ chính quyền non trẻ, đánh tan sự tấn công
của 14 nước đế quốc và bọn Bạch vệ, xây dựng đất nước theo con
đường Xã Hội Chủ Nghĩa.
1.3.Tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về đoàn kết
lực lượng trong cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, giai cấp vô sản
muốn thực hiện vai trò lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân
tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn
của cách mạng.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin là vì chủ nghĩa
Mác-Lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải
phóng. Khi Người đọc được tác phẩm của V.I.Lênin: sở khảo lần
thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa,
Người đã vui đến phát khóc. Lênin cho rằng, sự liên minh giai
cấp, trước hết liên minh công nông là hết sức cần thiết bảo đảm
cho thắng lợi của cách mạng vô sản, nếu không có sự đồng tình
và ủng hộ của nhân dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó,
tức giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện
được.
Như vậy chủ nghĩa Mác-Lênin có ý nghĩa rất to lớn, không
những đã chỉ ra vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử mà
còn chỉ ra vị trí của khối liên minh công nông trong cách mạng vô
sản. Đó còn là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ
Chí Minh có cơ sở khoa học trong đánh giá chính xác yếu tố tích
cực cũng như những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong
tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối, các nhà
cách mạng lớn trên thế giới và từ đó hình thành nên tư tưởng của
Người về đại đoàn kết dân tộc.
1.4.Tổng kết kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong
trào cách mạng thế giới
Trong quá trình đi tìm đường cứu nước cũng như sau này, Hồ
Chí Minh đã luôn chú ý nghiên cứu, tổng kết những bài học kinh
nghiệm của phong trào yêu nước Việt Nam và phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Đặc biệt, Hồ Chí Minh
nghiên cứu những bài học của cách mạng Tháng 10 Nga. Là bài
học về huy động, tập hợp lực lượng quần chúng công nông đông
đảo để giành chính quyền cách mạng, để xây dựng chế độ Xã Hội
Chủ Nghĩa đã giúp Hồ Chí Minh thấy rõ tầm quan trọng của việc
đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng, trước hết là công nông.
Những kinh nghiệm rút ra từ thành công hay thất bại của phong
trào dân tộc dân chủ, nhất là kinh nghiệm thắng lợi của cách
mạng Tháng 10 Nga là cơ sở thực tiễn cần thiết cho việc hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc
2.1.Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành
công của cách mạng
Hồ Chí Minh đã nói:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công.”
Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân
ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX bị thất bại có một nguyên nhân
sâu xa là cả nước đã không đoàn kết được thành một khối thống
nhất. Người thấy rằng, muốn đưa cách mạng đến thành công phải
có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây
dựng thành công xã hội mới, muốn có được lực lượng cách mạng
đủ mạnh phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng cách
mạng thành một khối vững chắc. Do đó đoàn kết trở thành vấn đề
chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân tố bảo đảm cho sự
thắng lợi của cách mạng.
Hồ Chí Minh đi đến kết luận: muốn giải phóng các dân tộc bị
áp bức và nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu
tranh cách mạng. Người đã vận dụng những quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản vào thực tiễn Việt Nam,
xây dựng lý luận cách mạng thuộc địa, trong đó người quan tâm
nhiều đến vấn đề lực lượng cách mạng và phương pháp cách
mạng.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm
nhuần quan điểm coi sức mạnh của cách mạng là sức mạnh của
nhân dân: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân
liệu cũng xong”[4.tr45]. Đồng thời, người lưu ý rằng, nhân dân
bao gồm nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp, nhiều tầng lớp, giai cấp,
nhiều dân tộc, tôn giáo, do đó phải đoàn kết nhân dân vào trong
Mặt trận dân tộc thống nhất. Để làm được việc đó, Người yêu cầu
Đảng, nhà nước phải có chủ trương, chính sách đúng đắn, phù
hợp với giai cấp, tầng lớp, trên cơ sở lấy lợi ích chung của Tổ
quốc và những quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động, “làm
mẫu chung” cho sự đoàn kết.
2.2.Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng
Đối với Hồ Chí Minh, yêu nước phải thực hiện thành thương
dân, không thương dân thì không thể có tinh thần yêu nước. Dân
ở đây là số đông, phải làm cho số đông đó ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành, sống tự do, hạnh phúc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, chúng ta
không chỉ thấy rõ việc Người nhấn mạnh vai trò to lớn của dân
mà còn coi đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu của cách mạng. Do
đó, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi
đường lối, chủ chương, chính sách của Đảng. Trong lời kết thúc
buổi ra mắt của Đảng lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí
Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc mục đích
của Đảng lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết
toàn dân, phụng sự tổ quốc.
Xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng nên Hồ Chí Minh
vấn đề đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh là
vấn đề cơ bản của cách mạng. Hồ Chí Minh còn cho rằng, đại
đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu nhiệm vụ hàng đầu của
Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc.
2.3.Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm dân dùng để chỉ “ mọi
con dân đất Việt ” , mỗi một người đều là “ con rồng cháu tiên ”,
không phân biệt “ già, trẻ, trai, gái, giàu, nghèo, quý tiện ”. Đại
đoàn kết dân tộc có nghĩa là phải tập hợp được mọi người dân vào
một khối trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nêu rõ:
“Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc;
ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có
sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn
kết với họ”.
Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, Người đã đưa ra những
nguyên tắc sau:
2.3.1. Phải thừa kế truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân
nghĩa của dân tộc, phải có tấm lòng khoang dung, độ lượng với
con người. Hồ Chí Minh cho rằng, ngay cả đối với những người
lầm đường, lạc lối nhưng đã biết hối cải, chúng ta vẫn kéo họ về
phía dân tộc, vẫn đoàn kết với họ.
2.3.2. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất,
có tổ chức là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là để tạo nên lực lượng cách
mạng, để làm cách mạng xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới.
Do đó, đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ dừng lại ở quan niệm,
ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi, mà phải trở thành một chiến lược
cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn
dân ta. Nó phải trở thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật
chất có tổ chức và tổ chức đó là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Từ khi tìm thấy được con đường và sức mạnh để giải phóng
dân tộc, Hồ Chí Minh đã chú ý đến việc đưa quần chúng nhân
dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai cấp, tầng
lớp, từng giới, từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tôn giáo. Đó
là các trưởng bản, các hội ái hữu, tương trợ, công hội, nông hội,
đoàn thanh niên, hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng, hội Phật
giáo cứu quốc, Công giáo yêu nước, v.v., bao trùm nhất là Mặt
trận dân tộc thống nhất. Mặt trận chính là nơi quy tụ mọi tổ chức
và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân nước Việt, không chỉ
ở trong nước mà cả những người định cư ở nước ngoài, dù ở bất
cứ phương trời nào nếu có tấm lòng hướng về đất nước, về Tổ
quốc.
Để Mặt trận dân tộc thống nhất trở thành một tổ chức cách
mạng to lớn, theo Hồ Chí Minh, nó cần được xây dựng theo
nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất: Đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân,
trên cơ sở yêu nước, thương dân, chống áp bức bóc lột, nghèo nàn
lạc hậu.
Hồ Chí Minh cho rằng, nước độc lập mà dân không được
hưởng tự do, hạnh phúc, thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì. Sự đoàn
kết phải lấy lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích căn bản của nhân
dân lao động làm mục tiêu phấn đấu.
Thứ hai: Đại đoàn kết dân tộc phải được xây dựng trên nền
tảng liên minh công – nông – lao động trí óc.
Phải trên cơ sở của khối liên minh cơ bản đó mà mở rộng Mặt
trận, làm cho Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân tộc, tập hợp
được toàn dân, kết thành một khối vững chắc.
Thứ ba: Hoạt động của Mặt trận theo nguyên tắc hiệp thương
dân chủ.
Khi có những lợi ích riêng biệt, Mặt trân sẽ giải quyết bằng
việc nêu cao lợi ích chung của dân tộc, bằng sự vận động hiệp
thương dân chủ, tạo ra nhận thức ngày càng đúng đắn hơn cho
mỗi người, mỗi bộ phận về lợi ích chung và lợi ích riêng.
Thứ tư: Khối đoàn kết trong Mặt trận là lâu dài, chặt chẽ, đoàn
kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Giữa các thành viên của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh
những điểm tương đồng vẫn có những điểm khác nhau cần bàn
bạc để đi đến nhất trí, bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có
những nhân tố tiêu cực cần phải khắc phục. Để giải quyết vấn đề
này, một mặt Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng
tồn dị”, lấy cái chung để hạn chế cái riêng. Mặt còn lại, Người
nêu rõ: “ Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng
cường đoàn kết”. Người thường xuyên căn dặn phải khắc phục
tình trạng đoàn kết xuôi chiều, phải nêu cao tinh thần tự phê bình
và phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt, củng
cố đoàn kết nội bộ.
CHƯƠNG II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KẾT HỢP
SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI
1. Quá trình nhận thức của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Nhân dân ta có lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước.
Trong đấu tranh chống kẻ thù xâm lược cũng như trong lao động
sản xuất nhân dân Việt Nam đã thể hiện tinh thần chiến đấu ngoan
cường, sự thông minh sáng tạo, ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự
cường. Trong truyền thống dân tộc ấy Hồ Chí Minh nhìn thấy nổi
bật lên sức mạnh của lòng yêu nước. Tinh thần yêu nước của
nhân dân Việt Nam có những đặc điểm riêng biệt, đặc sắc, vì phải
luôn luôn đối đầu với nhiều khó khăn của tự nhiên và chiến tranh
xâm lược, sự đô hộ của kẻ thù từ nhiều phương kéo đến. Lòng
yêu nước Việt Nam đã trở thành sức mạnh, một thứ đạo lý, một lẽ
sống của mỗi người dân, cũng là một tiêu chí cao nhất để đánh
giá con người trong xã hội ta.
Hồ Chí Minh xác định con đường cứu nước đúng đắn để giải
phóng dân tộc đã phát huy lòng yêu nước truyền thống và nâng
thành lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa. Tinh thần, ý chí độc lập, tự
chủ, tự cường và lòng yêu nước phát huy được sức mạnh to lớn,
tạo nên truyền thống đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân. Hồ Chí
Minh đã làm nổi bật sức mạnh của con người Việt Nam, đó là sức
mạnh thể lực và trí tuệ, sức mạnh của bề dày lịch sử và trong
cuộc đấu tranh hiện tại, sức mạnh của sự thông minh và dũng
cảm, của lòng tin chân chính không gì lay chuyển. Sức mạnh ấy
bền vững và được nhân lên nhiều lần dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam.
Thời đại của chúng ta mở đầu bằng Cách mạng tháng Mười
Nga 1917. Cuộc cách mạng này đã mở ra con đường giải phóng
cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu thời đại mới trong lịch
sử. Theo Hồ Chí Minh sức mạnh thời đại là sức mạnh của giai
cấp vô sản thế giới, của nhân dân lao động thế giới. Trong quá
trình nhận thức và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào
hoàn cảnh cụ thể của Vịêt Nam, Hồ Chí Minh nhận thấy phải dựa
vào sức mạnh của dân tộc là chủ yếu, đồng thời phải khai thác
sức mạnh của thời đại. Những nội dung, nguyên tắc về kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một bộ phận quan
trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thời đại ngày nay, đặc biệt là giai đoạn hiện nay đang diễn ra
một cuộc đấu tranh gay gắt trên mặt trận tư tưởng cũng như về
hoạt động thực tiễn mà chúng ta cần nhận thức đúng đắn để tiến
hành những hoạt động quốc tế phù hợp phục vụ sự nghiệp xây
dựng Chủ Nghĩa Xã Hội và bảo vệ Tổ quốc Xã Hội Chủ Nghĩa.
Do vậy phải giáo dục cho nhân dân có được niềm tin về lý tưởng
Xã Hội Chủ Nghĩa trong điều kiện thế giới có nhiều biến đổi. Cần
phải xử lý nghiêm minh, công bằng đối với những hành vi vi
phạm pháp luật làm suy thoái tư tưởng, băng hoại đạo đức xã hội.
Hội nhập quốc tế mà không được chệch hướng Xã Hội Chủ
Nghĩa, bảo đảm mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng
vào cách mạng thế giới.
Không ngừng bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống
của dân tộc, làm cho bản sắc văn hoá được giữ vững và phát triển.
Giữ vững tinh thần độc lập tự chủ trong tiếp thu sức mạnh bên
ngoài, kết hợp sức mạnh trong nước. Việc giáo dục tinh thần yêu
nước, lòng tự hào dân tộc chính đáng, ý thức bảo vệ văn hoá dân
tộc, tiếp thu có chọn lọc văn hoá nước ngoài là những yêu cầu cấp
thiết được đặt ra đối với việc “mở cửa”. Công tác đối ngoại được
xác định có vai trò quan trọng đối với việc kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh của thời đại.
Tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là
một nội dung lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó được
vận dụng và phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Nội dung của tư tưởng này rất phong phú,
sâu sắc về thời đại, về sự kết hợp các sức mạnh này trong thực
tiễn đấu tranh. Tư tưởng của Người còn thấm đượm chủ nghĩa
nhân văn sâu sắc, tính cách mạng triệt để tạo nên ảnh hưởng to
lớn đến cuộc đấu tranh lâu dài cho nhân dân các nước vì sự
nghiệp “Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con
người”.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại
Đặt cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong sự gắn bó
với cách mạng vô sản thế giới
Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động là thời đại đã
chấm dứt sự tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra mối quan hệ
quốc tế ngày càng lớn giữa các dân tộc.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX không phải vì nhân dân ta thiếu anh dũng,
các lãnh tụ phong trào kém nhiệt huyết mà do nhiều nguyên nhân,
trong đó nguyên nhân thiếu đường lối cách mạng đúng đắn,
phương pháp cách mạng không phù hợp với xu thế thời đại.
Do nhận thức sự biến chuyển của thời đại, Hồ Chí Minh đã
sớm đến được với cách mạng Pháp, gặp được luận cương của
V.I.Lênin, tán thành Quốc tế III, tìm thấy con đường giải phóng
dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản. Người viết:
“ Thời đại của Chủ Nghĩa Tư Bản lũng đoạn cũng là thời đại một
nhóm nước do bọn tư bản tài chính cầm đầu thống trị các nước
thuộc địa và nửa thuộc địa, bởi vậy công cuộc giải phóng các
nước và các dân tộc bị áp bức là một bộ phận khắn khít của cách
mạng vô sản. Do đó mà trước hết nảy ra khả năng và sự cần thiết
phải có liên minh chiến đấu chặc chẽ giữa các dân tộc thuộc địa
với giai cấp vô sản của các nước đế quốc để thắng kẻ thù chung”.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh chủ nghĩa yêu nước chân chính phải
gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Tinh thần vị
quốc chân chính đối lập với tinh thần vị quốc của bọn phản động
cầm đầu các nước tư bản, đế quốc. Trong kháng chiến chống,
Pháp, Mỹ, người luôn giáo dục cho nhân dân ta phân biệt rõ
người Pháp-Mỹ chân chính với những người Pháp-Mỹ thực dân,
đế quốc; những người lao động yêu hòa bình công lý ở các nước
tư bản, đế quốc, với những người Pháp-Mỹ hiếu chiến, xâm lược.
Hồ Chí Minh đã chứng kiến sự thối nát của chủ nghĩa thực dân
khi còn ở trong nước cũng như khi đi tìm đường cứu nước, song
người cũng đã chứng kiến về sự chan hòa giữa các dân tộc. Người
rất phấn khởi nhìn thấy ở trường đại học phương Đông hình ảnh
đoàn kết giữa các dân tộc đủ màu da.
Hồ Chí Minh là người đã đóng góp lớn vào lý luận Mác-Lênin
về kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc
tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đề cao sự
giúp đỡ quốc tế với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng
đồng thời nhấn mạnh trách nhiệm của cách mạng Việt Nam với
cách mạng thế giới. Khi phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế bị chia rẽ, Đảng ta và Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt
mỏi để mong góp phần khôi phục sự đoàn kết quốc tế.
Như vậy theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là
đoàn kết dân tộc trong nước mà còn phải đoàn kết quốc tế, đại
đoàn kết dân tộc đúng đắn là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết
quốc tế trong sáng. Đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân
tố đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đoàn kết
quốc tế là một nhân tố hết sức quan trọng giúp cho cách mạng
Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn của sự nghiệp giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước, đưa nước ta quá độ lên Chủ Nghĩa
Xã Hội.
Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản đòi
hỏi phải đấu tranh chống lại mọi biểu hiện chủ nghĩa dân tộc vị
kỷ, chúng ta chiến đấu không chỉ vì tự do cho nước mình mà còn
vì độc lập, tự do cho nước khác, không chỉ vì bảo lợi ích sống còn
của dân tộc mình mà còn vì lợi ích của tất cả các dân tộc bị áp
bức trên thế giới.
Ta không nhận sự giúp đỡ một chiều của bạn bè quốc tế, mà
phải bằng thành quả của cách mạng nước ta để góp phần tăng
cường sức mạnh cách mạng thế giới, theo tinh thần giúp bạn là tự
giúp mình. Hồ Chí Minh đã khằng định: trong đấu tranh cách
mạng ta phải “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”.
Người còn viết: “muốn người giúp thì trước tiên mình phải tự
giúp lấy mình đã”, “một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ
ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc
lập”. Và trong lời kêu gọi gửi tới những người anh em ở các nước
thuộc địa, Người viết: Anh em làm thế nào để được giải phóng?
Vận dụng công thức của Các-Mác, chúng tôi xin nói với anh em
rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được
bằng nỗ lực của bản thân anh em.
Mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng làm bạn với các
nước dân chủ:
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa, phong
kiến lạc hậu, phải bôn ba tìm đường cứu nước cho dân tộc Người
thấu hiểu sâu sắc nỗi nhục mất nước của các dân tộc và sự thống
khổ của nhân dân lao động trên thế giới. Vì vậy, trong suốt cuộc
đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn luôn chăm lo, xây
dựng tình hữu nghị, hợp tác đoàn kết giữa dân tộc Việt Nam và
các dân tộc trên thế giới, nhằm tạo nên sức mạnh to lớn cho sự
nghiệp cách mạng của các dân tộc.
Những năm bôn ba Hồ Chí Minh đã đặt cơ sở đầu tiên cho tình
hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân nhiều nước trên
thế giới. Sau khi giành được độc lập Người đã tuyên bố: “Chính
- Xem thêm -