Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng hồ chí minh về đoàn kết lương giáo và sự vận dụng của đảng cộng sản việ...

Tài liệu Tư tưởng hồ chí minh về đoàn kết lương giáo và sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam trong giai đoạn hiện nay (từ năm 1991 đến nay)

.PDF
95
2
53

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------------------------------- VŨ MẠNH HÙNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT LƯƠNG GIÁO VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY (TỪ NĂM 1991 ĐẾN NAY) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Tôn giáo học Hà Nội - 2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------------- VŨ MẠNH HÙNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT LƯƠNG GIÁO VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY (TỪ NĂM 1991 ĐẾN NAY) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Tôn giáo học Mã số: 60.22.90 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Đức Lữ Hà Nội - 2012 2 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 2 Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT LƯƠNG GIÁO 10 1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh về đoàn kết lương giáo 10 1.2. Hồ Chí Minh về đối tượng và mục tiêu của đoàn kết lương giáo 21 1.3. Hồ Chí Minh về nội dung của đoàn kết lương giáo 31 1.4. Hồ Chí Minh về phương pháp thực hiện đoàn kết lương giáo 36 Chương 2: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐOÀN KẾT LƯƠNG GIÁO CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ 51 MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 2.1. 2.2. 2.3. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng đoàn kết lương giáo của chủ tịch Hồ Chí Minh trong các Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng đoàn kết lương giáo của chủ tịch Hồ Chí Minh trong thực tiễn Phương hướng và giải pháp tăng cường đoàn kết lương giáo theo tư tưởng của Hồ Chí Minh ở Việt Nam hiện nay 51 55 76 KẾT LUẬN 82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 84 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử - xã hội tồn tại từ hàng vạn năm cùng với xã hội loài người. Từ khi xuất hiện, tôn giáo luôn là yếu tố tham gia vào các quá trình xã hội, ảnh hưởng đến nhiều mặt đời sống con người. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra nguồn gốc, bản chất, chức năng và tính chất của tôn giáo trong xã hội loài người, đồng thời cũng chỉ rõ vai trò tác động trở lại của tôn giáo đối với xã hội. Có nhiều ý kiến lưu tâm, nhấn mạnh và cảnh báo về hiện tượng “xâm lăng văn hóa” qua “xuất khẩu” tín ngưỡng, tôn giáo. Chiêu bài “tôn giáo”, “dân tộc” là hai trong những vấn đề thường được các thế lực thù địch sử dụng để chống phá cách mạng Việt Nam. Vì vậy, việc nhận thức đúng vấn đề này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay; đồng thời tránh được những vấn đề đáng tiếc có thể xảy ra mà các thế lực thù địch có thể lợi dụng. Việt Nam là một quốc gia có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo. Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối, chính sách đối với tôn giáo, tín ngưỡng một cách đúng đắn và nhất quán nên đã vận động được đông đảo quần chúng có tôn giáo tham gia vào sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc, đồng bào có tôn giáo đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc cũng như xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đương thời, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn đề cao vai trò của quần chúng nhân dân bởi quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội và quần chúng nhân dân có vai trò to lớn, không thể thay thế trong sản xuất tinh thần. 4 Tiếp thu tư tưởng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đề cao vai trò của quần chúng nhân dân, trong đó có quần chúng có tín ngưỡng, tôn giáo trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan, đời sống của mọi tầng lớp nhân dân từng bước được nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần. Trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay, các thế lực phản động, thù địch với nước ta và với chủ nghĩa xã hội dùng mọi thủ đoạn, trong đó có âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình”, lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam. Âm mưu của chúng là chia rẽ giữa những người theo tôn giáo và những người không theo tôn giáo, giữa những người theo các tôn giáo khác nhau. Từ đó dẫn đến nguy cơ chia rẽ dân tộc qua chia rẽ tôn giáo. Vì vậy, muốn đoàn kết toàn dân thì phải đoàn kết lương giáo. Đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó có đoàn kết lương - giáo là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật quan trọng, thể hiện những quan điểm đổi mới, khoa học về tín ngưỡng, tôn giáo, đã từng bước đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng, bình thường của quần chúng tín đồ và chức sắc tôn giáo, làm cho họ phấn khởi tin tưởng vào chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng, Nhà nước, tích cực góp phần vào phát triển kinh tế, xã hội. Song tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta những năm qua diễn biến khá phức tạp. Đặc biệt nghiêm trọng là một số phần tử chống phá cách mạng đã đưa ra những yêu sách chính trị phản động, gây nên những hậu quả nhất định, làm tổn hại khối đoàn kết toàn dân, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự xã 5 hội ở một số địa phương, tạo điều kiện cho các thế lực phản động bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của ta. Đứng trước tình hình đó, việc tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới; tôn trọng những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo; động viên chức sắc, tín đồ, các tổ chức tôn giáo sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là yêu cầu cấp thiết từ thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trong di sản tư tưởng của Hồ Chủ tịch, đoàn kết lương giáo chiếm một vị trí quan trọng. Theo Người, chỉ có “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” thì mới có “thành công, thành công, đại thành công” được. Trong quá trình tìm tòi lý luận để phục vụ thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn xác định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động và cũng nhờ đó mà Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân tộc vượt qua những thách thức, nguy cơ để tận dụng tốt nhất những thời cơ, đưa nước ta sánh vai với các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì lý do đó, học viên chọn vấn đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương giáo và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” (từ năm 1991 đến nay) làm đề tài luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Đại đoàn kết dân tộc nói chung, đoàn kết lương giáo nói riêng trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một vấn đề lớn đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm nghiên cứu một cách có hệ thống. Có thể kể đến các công trình, bài viết sau: Thứ nhất, các đề tài, các sách đã được xuất bản và luận văn, luận án. - Lê Hữu Nghĩa - Nguyễn Đức Lữ (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. Đây là cuốn sách có ý 6 nghĩa rất lớn đối với luận văn của Học viên. Cuốn sách đã trình bày rõ cơ sở hình thành, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và phương pháp giải quyết vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo. - Nguyễn Đức Lữ (2009), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay, Nxb. CT - HC, Hà Nội. Đây là cuốn sách có ý nghĩa rất lớn đối với luận văn của Học viên. Cuốn sách đã nêu lên cơ sở hình thành, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương giáo và việc vận dụng tư tưởng này của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các giai đoạn, những vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay. - Nguyễn Đức Lữ (Chủ biên) (2007), Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. Cuốn sách đã nêu lên những vấn đề lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam; đó là những vấn đề được tổng kết từ thực tiễn Việt Nam qua các thời kỳ; những vấn đề đặt ra hiện nay. - Quan điểm Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo, Luận án Tiến sĩ Triết học, năm 2007 của tác giả Phạm Hữu Xuyên. Trong Luận án, tác giả đã làm rõ được khái niệm tín ngưỡng, tôn giáo; những yếu tố ảnh hưởng đến quan điểm tín ngưỡng, tôn giáo của Hồ Chí Minh; nêu được quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. - Đỗ Quang Hưng (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc, tôn giáo, đại đoàn kết trong cách mạng Việt Nam, Nxb QĐND. Cuốn sách đề cập trực tiếp tới nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến quan điểm đoàn kết với đồng bào Công giáo của Hồ Chí Minh… - Nguyễn Đức Lữ (2009), Tôn giáo - Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay, Nxb. CT - HC, Hà Nội. Cuốn sách nêu lên những vấn đề cơ bản về quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay và những vấn đề cấp bách đang đặt ra. 7 - Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX 02 - 07 “Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh” do PGS.TS. Phùng Hữu Phú chủ biên, xuất bản năm 1995. Đây là công trình nghiên cứu về chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh một cách hệ thống, sâu sắc từ quá trình hình thành đến nội dung, nguyên tắc, phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong các giai đoạn, thời kỳ cách mạng Việt Nam. - Đoàn kết với đồng bào Công giáo ở tỉnh Ninh Bình hiện nay theo quan điểm của Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ khoa học Chính trị, năm 2011 của tác giả Lê Thị Sáu. Trong Luận văn, tác giả đã hệ thống hóa và làm rõ nội dung cơ bản quan điểm của Hồ Chí Minh về đoàn kết với đông bào Công giáo; làm rõ thực trạng đoàn kết với đồng bào Công giáo ở tỉnh Ninh Bình hiện nay; tìm ra một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường đoàn kết với đồng bào Công giáo theo quan điểm của Hồ Chí Minh ở tỉnh Ninh Bình. Thứ hai, các bài viết công bố trên các báo, tạp chí. - Nguyễn Đức Lữ (1995), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương giáo, Tạp chí Lịch sử Đảng, Số 3. Trong bài viết này, tác giả đã nêu lên mục tiêu đoàn kết lương giáo, đối tượng, nội dung và phương pháp thực hiện đoàn kết lương giáo. - Nguyễn Đức Lữ (2002), Ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, Tạp chí Lịch sử Đảng, Số 9. Trong bài viết, tác giả đã nêu ra giá trị lí luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo trong kho tàng lí luận Mác Lênin, trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Ngoài ra còn có các bài viết của các tác giả như: - Đỗ Quang Hưng (2007), Đổi mới nhận thức và chính sách về tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tạp chí Lịch sử Đảng, Số 5. - Nguyễn Đức Lữ (2007), Về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật quốc tế và luật pháp Việt Nam, Tạp chí Quản lý Nhà nước, Số 142. 8 - Hồ Trọng Hoài (2003), Hồ Chí Minh và sự khoan dung tôn giáo, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, Số 1. - Nguyễn Đức Lữ (1992), Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với tôn giáo, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, Số 8. Trên đây là những công trình quan trọng, có đóng góp rất lớn trong việc nghiên cứu tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam cũng như trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Các công trình nghiên cứu, những luận văn, luận án, các bài viết đăng trên các báo, tạp chí ở các cách tiếp cận khác nhau đã phần nào làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về đoàn kết lương giáo, ý nghĩa của quan điểm này trong chiến lược đoàn kết dân tộc nói chung, đoàn kết lương giáo nói riêng ở Việt Nam hiện nay. Đó là nguồn tài liệu quý cho học viên trong quá trình hoàn thành luận văn của mình. Đây là thuận lợi vô cùng to lớn. Tuy nhiên, thực tiễn xã hội luôn vận động và phát triển không ngừng; bản thân các tôn giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội cũng luôn vận động. Trong những năm gần đây, tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng trở thành vấn đề cần phải quan tâm đặc biệt. Do đó, việc nghiên cứu những di sản tư tưởng của quá khứ, nhất là tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương giáo, việc tổng kết thực tiễnViệt Nam và đề ra những chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp là rất quan trọng. Đây là một thử thách lớn đối với học viên. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: + Tìm hiểu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết lương giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. + Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng đoàn kết lương giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay như thế nào. - Nhiệm vụ nghiên cứu: 9 + Phân tích cơ sở hình thành tư tưởng đoàn kết lương - giáo ở Hồ Chí Minh. + Hệ thống hóa và phân tích những nội dung tư tưởng cơ bản về đối tượng, mục tiêu, nội dung và phương pháp của đoàn kết lương giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh. + Phân tích và đánh giá sự vận dụng tư tưởng đoàn kết lương giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý, những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo và chính sách tôn giáo hiện nay. Trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật, luận văn đã kết hợp sử dụng một số phương pháp cụ thể sau: Phương pháp Lôgic lịch sử, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh và hệ thống hóa… nhằm tái hiện một cách chân thực những quan điểm về đoàn kết lương giáo trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 5. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu - Phạm vi: Luận văn chỉ tập trung tìm hiểu những quan điểm cơ bản về đoàn kết lương giáo trong tư tưởng của Hồ Chí Minh. Nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng đó của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các Văn kiện Đại hội Đảng, các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng từ năm 1991 đến nay. - Đối tượng: Tư tưởng đoàn kết lương giáo của Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn góp phần vào tìm hiểu, kế thừa, hệ thống hóa và làm sâu sắc thêm nhận thức về tư tưởng đoàn kết lương giáo của Hồ Chí Minh. Tìm hiểu và đánh giá sự vận dụng tư tưởng đó của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai 10 đoạn hiện nay. Từ đó, luận văn cung cấp thêm cứ liệu để làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành: 2 chương và 7 tiết. 11 Chương 1 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT LƯƠNG GIÁO 1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh về đoàn kết lương giáo Theo tác giả Nguyễn Như Ý thì: “Tư tưởng là quan điểm và ý nghĩ chung của con người đối với thế giới tự nhiên và xã hội” [124, tr. 1704]. “Đoàn kết là kết thành một khối, thống nhất ý chí, không mâu thuẫn, chống đối nhau” [124, tr. 534]. Theo PGS.TS Nguyễn Đức Lữ: “Khái niệm lương - giáo xuất hiện từ thời nhà Nguyễn. Theo đó, Lương chỉ những người Việt Nam không theo đạo Thiên Chúa. Như vậy, ta có thể hiểu rằng, tất cả những người không theo Công giáo, những người theo Phật giáo, Đạo giáo… thuộc bên Lương; Người theo Công giáo được gọi là Giáo. Tuy nhiên, khái niệm này có sự phát triển qua các thời kỳ. Sau này, Lương là khái niệm để chỉ những người không theo tôn giáo; còn Giáo là chỉ những người có tôn giáo. Hồ Chí Minh sử dụng khái niệm Lương - Giáo ở nghĩa như trên khi Người nói: “Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo…” [95, tr. 606]. Ngày nay, khái niệm Lương - Giáo ít được sử dụng mà thay vào đó là cụm từ những người có tôn giáo, tín ngưỡng và những người không có tôn giáo, tín ngưỡng” [67, tr. 30]. Tư tưởng Hồ Chí Minh là đỉnh cao của văn hóa Việt Nam, là kết tinh của những truyền thống tốt đẹp của văn hóa Việt Nam qua mấy nghìn năn lịch sử. Tín ngưỡng, tôn giáo là một bộ phận của văn hóa, góp phần tạo nên truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc. Đúng như đã từng có ý kiến nhận xét: “Hình ảnh của Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh với sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của Mác, thiên tài cách mạng của Lênin và tình cảm của một người chủ gia tộc, tất cả bao bọc trong một dáng dấp rất tự nhiên” [32, tr. 27]. 12 Tín ngưỡng, tôn giáo đã và đang tồn tại ở mọi quốc gia. Tuy thịnh, suy từng lúc có khác nhau; vai trò và ảnh hưởng đối với đời sống xã hội không hoàn toàn như nhau nhưng nhìn chung tôn giáo vẫn tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại. Việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, gắn đạo với đời, tôn giáo với dân tộc để cho “nước vinh, đạo sáng” luôn là nguyện vọng chân chính, thiết tha của mọi người dân Việt Nam. Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh có những quan điểm rất rõ về đoàn kết lương giáo. Vấn đề đặt ra là những quan điểm đó được hình thành như thế nào? Những yếu tố nào ảnh hưởng đến những quan điểm đoàn kết lương giáo của Người? Tất nhiên, không thể tìm nguồn gốc tư tưởng, quan điểm đó ở bên ngoài môi trường sống và hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương giáo được hình thành trên sự kết hợp sâu sắc giữa những hiểu biết về truyền thống gia đình, xã hội Việt Nam, về tình hình, đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo nước ta và thế giới; chủ nghĩa Mác - Lênin, việc kế thừa những tư tưởng tiến bộ của nhân loại và sự tổng kết, khái quát thành lý luận thông qua hoạt động thực tiễn. Toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng về đoàn kết lương giáo nói riêng đều thấm nhuần tính nhân văn sâu sắc, một tình yêu bao la đối với con người, trước hết là con người Việt Nam, đó là những người dân lao động trong mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Những quan điểm về đoàn kết lương giáo của Người xét đến cùng là vì sự giải phóng con người, là xây dựng một xã hội mới để tiến tới một thiên đường nơi trần thế. 1.1.1. Cơ sở thực tiễn 1.1.1.1. Đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam Sinh ra và lớn lên trong một đất nước đa tôn giáo nên Hồ Chí Minh có được những tri thức quý báu về các tín ngưỡng, tôn giáo đó. Với tín ngưỡng dân gian của người Việt, Hồ Chí Minh cho rằng: “Việc cúng bái tổ tiên hoàn 13 toàn là một hiện tượng xã hội” [76, tr. 479]. Người luôn căn dặn cán bộ phải luôn chú ý đến những tục lệ của dân trong quá trình vận động xây dựng cuộc sống mới. Người nói: “tránh phạm đến phong tục tập quán, tín ngưỡng của dân” [74, tr. 122] và nên “tìm hiểu phong tục tập quán nghiêm túc chấp hành điều kiêng” [74, tr. 122]. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo. Những ảnh hưởng đó được bắt nguồn từ người cha kính yêu của Người. Những tư tưởng tiến bộ, nhân cách cao thượng của người cha đã để lại những dấu ấn rất sâu đậm trong tâm hồn Người. Những khái niệm cơ bản của Nho giáo như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cần, kiệm, liêm, chính, trung, hiếu… đều được Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng một cách sáng tạo; Người đã đưa vào đó những nội dung mới, nâng tầm trên nền khái niệm cũ để phù hợp với cuộc sống mới, thời đại mới. Người giải thích: “Ngày xưa trung là trung với Vua. Hiếu là hiếu với cha mẹ mình thôi. Ngày nay nước ta là nước dân chủ cộng hòa… Cũng như trung là trung với Tổ quốc, hiếu là hiếu với nhân dân, ta thương cha mẹ ta, mà còn phải thương cha mẹ người, phải làm cho mọi người đều biết thương cha mẹ” [85, tr. 640]. Hồ Chí Minh bên cạnh việc chỉ ra những ưu điểm của Nho giáo, còn chỉ ra những hạn chế của hệ tư tưởng này. Theo Người, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử “chỉ thích hợp với một xã hội bình yên không bao giờ thay đổi”, “Đạo đức của ông hoàn hảo, nhưng nó không thể dung hợp được với các trào lưu tư tưởng hiện đại” và “ông không phải là người cách mạng mà còn là vì ông tiến hành một cuộc tuyên truyền mạnh mẽ có lợi cho họ (giai cấp thống thị)” [78, tr. 453]. Từ đó, Hồ Chí Minh rút ra bài học: “Những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lênin” [78, tr. 454]. 14 Với Đạo giáo, Người cũng thể hiện sự hiểu biết sâu sắc của mình. Ở Hồ Chí Minh, chúng ta thấy phảng phất nét ung dung tự tại, thanh thản, nếp sống hiền hòa thanh đạm, những nét này rất gần với tư tưởng của Lão Tử. Trong chuyển đi Pháp, thăm nơi kỷ niệm Napôlêông, Hồ Chí Minh cho rằng, trong đời có nhiều người vì không tri túc mà thất bại! Nếu Napôlêông biết gạt bỏ tham muốn quá mức thì chắc nước Pháp không đến nỗi vì chiến tranh mà chết người hại của. Như vậy, Hồ Chí Minh đã vận dụng tư tưởng của Đạo giáo một cách hài hòa, Người đã tiếp thu cái đúng đắn đã được thực tiễn kiểm nghiệm để góp phần xây dựng nhân cách, lối sống của người dân yêu nước, người cách mạng. Những ảnh hưởng của Phật giáo đến Hồ Chí Minh có từ rất sớm. Người viết: “Tôn chỉ mục đích của đạo Phật nhằm xây dựng cuộc đời thuần mỹ, chí thiện, bình đẳng, yên vui mà no ấm”, “Đức Phật là đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn. Người phải hy sinh tranh đấu để diệt lũ ác ma” [76, tr. 197]. Trong những bài viết của mình, Hồ Chí Minh nhiều lần mượn khái niệm của nhà Phật; chẳng hạn, Người viết: “Tôi chắc đồng bào ta ai cũng sẵn lòng cứu khổ, cứu nạn, mà hăng hái hưởng ứng lời đề nghị trên” [93, tr. 290]. Khi tuyên bố với quốc dân, Hồ Chí Minh nói: “Không được báo thù báo oán. Đối với những kẻ đi lầm đường lạc lối, đồng bào ta cần phải dùng chính sách khoan hồng. Lấy lời khôn lẽ phải mà bày cho họ” [83, tr. 420]. Với Công giáo, Hồ Chí Minh đã có những am hiểu sâu sắc và nhìn nhận tôn giáo này như một di sản văn hóa nhân loại. Người đã nhìn thấy cái tinh túy nhất của giáo lý Công giáo, nhấn mạnh mục đích cao cả của Công giáo là giải phóng con người, vì hạnh phúc của con người. Người luôn có cách nhìn nhận khách quan và thái độ kính trọng khi nói về Chúa Giêsu: “Gần 20 thế kỷ trước, một vị thánh nhân đã ra đời. Cả đời Người chỉ lo cứu thế độ nhân, hy sinh cho tự do, bình đẳng” và “Đức Thiên Chúa đã giáng sinh để cứu với nhân loại. Đức 15 Thiên Chúa là một tấm gương hy sinh triệt để vì những người bị áp bức, vì những dân tộc bị đè nén, vì hòa bình, vì công lý” [83, tr. 490], “Suốt đời Ngài chỉ hy sinh phấn đấu cho tự do, cho dân chủ” [83, tr. 290]. Tuy nhiên, khi nói về Công giáo Việt Nam, Người cũng không quên nhắc việc các thế lực đế quốc đã lợi dụng tôn giáo này phục vụ cho mục đích chính trị của chúng. Bằng những hiểu biết của mình, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Người dân An Nam… không có tôn giáo, theo cách nghĩ của người châu Âu” [76, tr. 479]. Có thể nói, đặc điểm nổi bật của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam là tính khoan dung, không kỳ thị. Truyền thống văn hóa ứng xử của dân tộc Việt Nam mang đậm tư tưởng khoan dung. Truyền thống đó cũng thể hiện rõ trong tư tưởng về tín ngưỡng, tôn giáo. Dù là tôn giáo du nhập hay tôn giáo nội sinh đều tồn tại hòa bình, ở Việt Nam không có chiến tranh tôn giáo. Tuy ở những thời điểm nhất định, những “bất hòa” là không thể tránh khỏi; nhưng nó chủ yếu là do các thế lực thù địch âm mưu chia rẽ vì mục đích chính trị của chúng. Xét toàn diện thì tôn giáo Việt Nam có sự hòa hợp, cùng tồn tại, cùng phát triển. Hiện tượng “tam giáo đồng nguyên” là một thực tế lịch sử. Đúng như nhà nghiên cứu văn hóa Đào Duy Anh từng khẳng định: “Ở đời Lý và đời Trần triều đình lại đặt khoa thi Tam giáo (Nho, Phật, Lão), xem thế đủ biết không những Nho học và Phật học thịnh hành, mà Lão giáo cũng không bị bài xích” [1, tr. 282]. Như vậy, những yếu tố trên đã có tác động không nhỏ trong việc hình thành ở Hồ Chí Minh những quan điểm ban đầu về tín ngưỡng, tôn giáo; về những ưu điểm và nhược điểm của tín ngưỡng, tôn giáo để từ đó có thể phát huy ưu điểm, hạn chế nhược điểm nhằm phát huy tốt nhất sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân trong đó có đoàn kết tôn giáo. Với tất cả các tôn giáo, Hồ Chí Minh luôn có thái độ trân trọng; Người không đề cập 16 đến tôn giáo dưới góc độ triết học hay tôn giáo học thuần túy, mà đề cập đến nó dưới góc độ văn hóa, đạo đức và chính trị, Người luôn có thái độ khách quan trong việc nhìn nhận tôn giáo, không có một chút nào của sự kỳ thị tôn giáo; Hồ Chí Minh cũng là một mẫu mực của việc nắm vững và vận dụng sáng tạo phép biện chứng mácxít đối với những vấn đề về tôn giáo. 1.1.1.2. Kinh nghiệm giải quyết vấn đề tôn giáo trong cách mạng của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc Luận điểm có tính chất cương lĩnh đầu tiên của Đảng Bônsêvích Nga về tôn giáo được Lênin nêu ra trong tác phẩm nổi tiếng Chủ nghĩa xã hội và tôn giáo (1905) như sau: “Nhà nước không được dính đến tôn giáo, các đoàn thể tôn giáo không được dính đến chính quyền nhà nước. Bất kỳ ai cũng được tự do theo tôn giáo mình thích, hoặc không thừa nhận một tôn giáo nào, nghĩa là được làm người vô thần. Mọi sự phân biệt quyền lợi giữa những công dân có tín ngưỡng tôn giáo khác nhau đều hoàn toàn không thể dung thứ được… Nhà nước không được chi bất cứ một khoản phụ cấp nào cho quốc giáo, cũng như cho các đoàn thể giáo hội và các đoàn thể tôn giáo, những đoàn thể này phải là những hội của những công dân cùng theo một tôn giáo, những hội hoàn toàn tự do và độc lập với chính quyền” [55, tr. 171]. Tháng 2/1918, chính quyền Xô viết thông qua Sắc lệnh về việc tách giáo hội khỏi nhà nước, tách nhà thờ khỏi trường học. Sắc lệnh còn quy định vị trí bình đẳng giữa các tổ chức tôn giáo, đồng thời đảm bảo những điều kiện cần thiết cho hoạt động của các tổ chức tôn giáo. Năm 1919, Đảng Cộng sản Nga, tại Đại hội VIII đã đưa vào Cương lĩnh (Điểm thứ 13) nội dung cụ thể là: “Đảng mong muốn hoàn toàn xóa bỏ mối dây liên hệ với giai cấp bóc lột và tổ chức tuyên truyền tôn giáo để tác động đến sự giải phóng thực sự quần chúng lao động khỏi thành kiến tôn giáo và tổ chức công tác tuyên truyền khoa học bài trừ mê tín và chống tôn giáo rộng rãi nhất. Đồng 17 thời, cần phải tránh bất cứ sự xúc phạm nào đến tình cảm tôn giáo của người theo đạo” [Trích theo 48, tr. 39]. Năm 1936, một quan điểm mới về tôn giáo được ghi trong Điều 124, Hiếp pháp của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết như sau: “Để đảm bảo cho công dân có quyền tự do tín ngưỡng, nhà thờ ở Liên Xô tách khỏi nhà nước và nhà trường tách khỏi nhà thờ. Công nhận quyền tự do theo các tôn giáo và quyền tự do tuyên truyền thống tôn giáo cho mọi công dân” [Trích theo 48, tr. 32]. Có thể nói, những quan điểm, chính sách trên là tiến bộ và đã đạt được những thành tựu to lớn là đảm bảo thực hiện quyền tự do tín ngưỡng thực sự ở Liên Xô. Tuy vậy, việc thực hiện các chính sách ở một số địa phương của Liên Xô mắc sai lầm tả khuynh, nôn nóng muốn xóa bỏ ngay tôn giáo. Thời gian Hồ Chí Minh sống và hoạt động cách mạng ở Trung Quốc là thời kỳ ở đó đang tiến hành cuộc cách mạng dân chủ, những quan điểm về tôn giáo của Đảng Cộng sản Trung Quốc về cơ bản là theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngay từ năm 1927, Mao Trạch Đông trong Báo cáo khảo sát phong trào nông dân Hồ Nam có một đoạn văn thể hiện khá rõ quan điểm về tôn giáo: “Bụt là do nông dân dựng lên, đến một thời kỳ nào đó, nông dân sẽ dùng cả hai tay của họ mà vứt bỏ những ông Bụt này, chẳng cần người khác làm thay một cách quá sớm việc vứt bỏ ông Bụt” [101, tr. 51]. Sau khi cách mạng thành công, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập năm 1949, phong trào Tam tự của Công giáo và Tin lành ở Trung Quốc thực sự ra đời. Nó phản ánh chính sách độc lập và tự quản của hoạt động tôn giáo. Có thể nói, đây là một kinh nghiệm đặc sắc của Trung Quốc. Sau này, trong cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói đến sự độc lập của tôn giáo nói chung và của Giáo hội Công giáo Việt Nam nói riêng. 18 Chính sách về tôn giáo nêu trên mặc dù vẫn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và trên thực tế đã đạt được những thành tựu không thể phủ nhận, đó là việc vẫn đảm bảo được quyền tự do tín ngưỡng trong chế độ xã hội chủ nghĩa, không có xung đột tôn giáo… Nhưng cũng phải nhận thức một thực tế là các đảng cộng sản cầm quyền còn bị ảnh hưởng của tư tưởng tả khuynh về tôn giáo ở những mức độ khác nhau. Điển hình là quan điểm tự do tôn giáo đi liền với tự do tuyên truyền vô thần chống tôn giáo. Quan điểm này dễ dẫn tới thái độ tả khuynh trong bộ máy chính quyền khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Như vậy, qua thực tiễn kinh nghiệm ở Liên Xô và Trung Quốc đã cho Người nhiều bài học sâu sắc. Đó là không được dập khuôn, máy móc những tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin một cách thái quá, nếu không sẽ dẫn tới khuynh hướng tả khuynh khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Từ đó, chúng ta thấy được tầm vóc trí tuệ của chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã không rập khuôn, giáo điều, máy móc mà luôn vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Ở đó, người luôn luôn đề cao những giá trị nhân văn, đạo đức của các tôn giáo chân chính; Người cũng đã cố gắng hạn chế tối đa những tư tưởng tả khuynh về tôn giáo trong cách mạng Việt Nam, mặc dù đó là điều không hề dễ dàng trong bối cảnh quốc tế lấy đối đầu giữa các hệ tư tưởng đối lập là trục chính của các mối quan hệ. 1.1.2. Cơ sở lý luận 1.1.2.1. Việc kế thừa những giá trị truyền thống từ lịch sử dân tộc và của những nhà cách mạng tiền bối. Hồ Chí Minh đã biết kế thừa những giá trị tốt đẹp từ truyền thống của dân tộc qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Từ đó, Người đã đúc rút ra bài học: “Sử ta đã dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người 19 như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước người xâm lấn” [80, tr. 217] Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh các phong trào cách mạng phát triển sôi sục, Hồ Chí Minh đã biết kế thừa và phát triển những tư tưởng về đoàn kết dân tộc (trong đó có đoàn kết tôn giáo) của các nhà cách mạng tiền bối. Người đã phê phán con đường cứu nước của Phan Bội Châu, nhưng không có nghĩa là Người không nhận thấy yếu tố tiến bộ trong đó có quan điểm về tôn giáo, tín ngưỡng. Phan Bộ Châu nhận xét về tình hình tôn giáo, tín ngưỡng ở nước ta đầu thế kỷ XX: “Người Việt Nam mọi việc đều cầu ở thần, phần lễ thờ thần thật là trọng hậu, thật là cẩn thận. Nhưng trọng lắm thì đắm đuối nhiều, cẩn thận quá thì mê hoặc sâu… Thậm chí có khi đến cả những khối đá quái gở, gốc cây cổ thụ, rừng hoang mả vắng cũng liệt vào hạng thần cứu thế, được dân tôn sung, lạy lục, ngày ngày cầu ở thần, bước bước trông vào thần” [9, tr. 156]. Từ đó, Phan Bội Châu đã phê phán niềm tin mù quáng vào trời mà quên mất trách nhiệm và sức mạnh của con người. Theo ông, đã bị khống chế ở trời, ở thần thì tất phải có lòng trông mong. Trông mong mà được như nguyện thì không nói làm gì, nhưng đến khi hy vọng đã cùng rồi, do đó mà sinh ra phỉ báng, oán trách, trời đất tội gì quỷ thần tội gì, bỏ cái trách nhiệm của người sống mà đi cầu ở nơi mù mù mịt mịt, và theo ông thì đó thật là sai lầm. Tất nhiên, Phan Bội Châu và các sĩ phu yêu nước đầu thế kỷ XX không chỉ nhấn mạnh vào ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, tín ngưỡng đối với sự thức tỉnh của dân tộc trong phong trào chống Pháp mà còn vạch trần âm mưu của thực dân Pháp hòng lợi dụng tôn giáo để thống trị nhân dân ta. Phan Bộ Châu nêu rõ: “Chính phủ Pháp nhận thấy dùng vũ lực chinh phục không phải là thượng sách nên mới mượn tôn giáo, thờ di tượng Giêxucrit và cây 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan