Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng hồ chí minh về đào tạo cán bộ và vận dụng vào điều kiện hiện nay ...

Tài liệu Tư tưởng hồ chí minh về đào tạo cán bộ và vận dụng vào điều kiện hiện nay

.PDF
95
2
61

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------------------- ĐẶNG THỊ HÒA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐÀO TẠO CÁN BỘ VÀ VẬN DỤNG VÀO ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC HÀ NỘI – 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------- ĐẶNG THỊ HÒA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐÀO TẠO CÁN BỘ VÀ VẬN DỤNG VÀO ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC MÃ SỐ: 60 31 27 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS MẠCH QUANG THẮNG HÀ NỘI - 2009 2 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐÀO TẠO CÁN BỘ 11 1.1. Tầm quan trọng của công tác đào tạo cán bộ 11 1.1.1. Phạm vi "cán bộ" được trình bày trong luận văn 11 1.1.2. Vị trí, vai trò của công tác đào tạo cán bộ 12 1.2. Những quan điểm đào tạo cán bộ 15 1.2.1. Kết hợp đức - tài 16 1.2.2. Đào tạo - tự đào tạo (tự học) 27 1.2.3. Lý luận phải gắn với thực tiễn và phương pháp đào tạo 34 1.2.4. Đào tạo toàn diện - chuyên sâu 43 1.2.5 Tổ chức, quản lý công tác đào tạo cán bộ 48 Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 57 VỀ ĐÀO TẠO CÁN BỘ TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY 2.1. Thực trang công tác đào tạo cán bộ ở nước ta hiện nay 57 2.2 Một số phương hướng, giải pháp 72 2.2.1. Xây dựng chiến lược đào tạo cán bộ đáp ứng yêu cầu 72 thực tiễn 2.2.2. Đổi mới nội dung, chương trình, hình thức, 74 phương pháp đào tạo 2.2.3. Tổ chức tốt hệ thống các cơ sở đào tạo và cơ quan 77 quản lý đào tạo 2.2.4. Xây dựng đội ngũ giảng viên có trình độ cao và 79 tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ sở đào tạo 2.2.5. Có chính sách phủ hợp, khuyến khích các cán bộ đi học 81 KẾT LUẬN 84 TÀI LIỆU THAM KHẢO 86 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam, là danh nhân văn hoá thế giới. Cả cuộc đời Người đều phấn đấu cho độc lập dân tộc, hạnh phúc, ấm no cho nhân dân. Mặc dù Người đã đi xa, nhưng những giá trị tư tưởng mà Người để lại cho chúng ta mãi là một kho tàng lý luận vô giá, trong đó có tư tưởng về đào tạo cán bộ. Chúng ta đều biết, sự nghiệp giáo dục nói chung, cũng như công tác đào tạo cán bộ nói riêng, luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển đi lên của đất nước. Trong đó, công tác đào tạo cán bộ được xem là "xương sống" để xây dựng nên một mô hình Nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh và văn minh. Những người cán bộ chính là người lãnh đạo, người được Đảng và nhân dân trao giữ sứ mệnh cầm lái đất nước. Họ còn là những người đi tiên phong trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước kia cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Vậy công tác đào tạo cán bộ của nước ta đi theo đường hướng nào? Đó là đi theo con đuờng cách mạng vô sản, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ giúp ta nhìn nhận thấy rõ hơn tầm nhìn vĩ đại của Người trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam và công lao to lớn của Người để lại cho đời sau. Từ đó, chúng ta có thể vận dụng tư tưởng đó của Người một cách sáng tạo vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế thị trường phát triển, một số cán bộ, đảng viên đã tha hoá, đánh mất phẩm chất đạo đức cách mạng, lợi dụng chức quyền vi phạm pháp luật. Nó càng trở nên đáng quan tâm hơn khi những người vi phạm pháp luật, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với Nhà nước lại là một số cán bộ, đảng viên giữ những cương vị cao trong Đảng và Nhà nước... Vì vậy, tôi đã chọn đề tài "Tư tưởng Hồ Chí 4 Minh về đào tạo cán bộ và vận dụng vào điều kiện hiện nay" cho bản luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Cho đến nay, có nhiều công trình đã đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ ở nhiều cấp độ khác nhau. Trước hết phải kể đến tác phẩm Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ của tác giả Đức Vượng (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995). Tác phẩm đã khái quát quá trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ đó, tác giả trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo tạo cán bộ theo một quy trình nhất định, mà quy trình đạo tạo ấy, theo tác giả sẽ đi lần lượt: xuất phát từ phương hướng và phương pháp đào tạo cán bộ -> tìm nguồn nhân tài, nguồn cán bộ để đào tạo -> lựa chọn nhân tài, lựa chọn cán bộ để sử dụng -> đưa họ vào hoạt động thực tế để tiếp tục đào tạo nâng cao trình độ cán bộ -> kiểm tra, đánh giá khách quan, uốn nắn, giúp đỡ cán bộ. Sau khi nêu quan điểm của Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ, tác giả khẳng định những quan điểm về đào tạo cán bộ của Người vẫn được toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta tiếp tục phát huy, áp dụng vào công cuộc xây dựng đất nước với một số thành tựu của công tác đào tạo đội ngũ cán bộ từ 1969 đến 1995. Tuy nhiên, do trình bày quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ theo một quy trình như vậy nên tác phẩm nghiêng về hình thức tổ chức đào tạo cán bộ mà chưa nêu bật được nội dung chủ yếu trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ là gì. Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc tác phẩm này, chúng tôi sẽ đi vào trình bày những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ (gồm 5 điểm lớn sẽ trình bày cụ thể phần sau). Hơn nữa, tác giả Đức Vượng có nêu một số thành tựu của công tác đào tạo cán bộ của nước ta đến năm 1995. Nhưng trong bối cảnh đất nước ta hiện nay, nhất là từ khi đất nước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (từ 1996), những quan điểm, tư tưởng về đào tạo cán bộ của Hồ Chí Minh có còn 5 phù hợp không? Chúng ta áp dụng những tư tưởng ấy như thế nào, thành tựu đạt được cùng những hạn chế của việc áp dụng ấy và những hướng giải pháp ra sao? Trên cơ sở những suy nghĩ như thế, chúng tôi muốn triển khai vấn đề mình lựa chọn mà không sợ có sự trùng lặp với tác phẩm đã viết. Đây là một tác phẩm chúng tôi đánh giá cao và có giá trị tham khảo tốt. Tác phẩm Hồ Chí Minh với sự nghiệp đào tạo cán bộ quân sự, đào tạo cán bộ quân sự theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Đây là cuốn Kỷ yếu hội thảo khoa học do Trường Sỹ quan Lục quân 1 phối hợp với Viện Lịch sử quân sự Việt Nam tổ chức và in thành kỷ yếu (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội in năm 2005). Tác phẩm là tập hợp những bài viết của các vị tướng lĩnh, các đồng chí cựu chiến binh, các nhà khoa học trong và ngoài Quân đội nhằm nêu bật những tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác đào tạo cán bộ Quân đội, về chiến sĩ cách mạng cũng như các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đã phấn đấu làm theo lời Bác. Mặc dù các tham luận chỉ tập trung nêu quan điểm của Hồ Chủ tịch đối với cán bộ quân đội, song đây cũng là một tác phẩm được chúng tôi chú ý kế thừa, khai thác phục vụ đề tài của mình. Tác phẩm Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam (1921 - 1930) của tác giả Phạm Xanh (Nhà xuất bản Thông tin lý luận, 1990). Tác phẩm đã đi sâu vào phân tích hoạt động của Nguyễn Ái Quốc (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này) suốt từ năm 1919 đến 1930, trong đó có quan điểm và hoạt động của Người trong công tác đào tạo cán bộ cách mạng. Tác giả nêu rõ Nguyễn Ái Quốc muốn đào tạo một đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam mà chủ yếu đào tạo cho họ lý luận cách mạng (tức là phải thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin). Sau khi đào tạo, Người đưa họ về nước truyền bá con đường cứu nước, xây dựng cơ sở cách mạng; một số được đưa cử đi học ở nước ngoài nhằm chuẩn bị làm nòng cốt lực lượng cách mạng về sau. Tuy nhiên, đây chỉ là những quan điểm sơ khai đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc trong đào tạo cán bộ ở thời điểm những năm 20 khi Đảng Cộng sản 6 Việt Nam chưa ra đời. Mặc dù vậy, tác phẩm là tài tiệu có giá trị tham khảo tốt. Tác phẩm Xây dựng Đảng, rèn luyện đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân phát hành năm 2003. Cuốn sách đã tập hợp những tác phẩm, bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta cùng một số công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố trong những năm gần đây, trong đó có đề cập đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo theo quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh. Tác phẩm còn đề ra những phương hướng phấn đấu để cho mỗi đảng viên rèn luyện, tự hoàn thiện mình để góp phần xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng vững mạnh, đủ sức lãnh đạo nhân dân ta, đất nước ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức , xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là một tác phẩm có giá trị tham khảo tốt. Tác phẩm Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là cuốn Kỷ yếu hội thảo khoa học do Ban Tổ chức - cán bộ Chính phủ phối hợp cùng Viện Khoa học - Tổ chức Nhà nước thực hiện nhân kỷ niệm 50 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (với bút danh X.Y.Z) và in thành sách (do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 1998). Tác phẩm là sự tập hợp nhiều bài tham luận của các nhà khoa học khẳng định giá trị lý luận và thực tiễn của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, đặc biệt là đối với vấn đề cán bộ, huấn luyện cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó nhấn mạnh đến tiêu chuẩn, nội dung, yêu cầu học tập, rèn luyện về đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của cán bộ công chức hiện nay nhằm đáp ứng nhiệm vụ cải cách hành chính, góp phần xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tác phẩm có giá trị tham khảo tốt. Tác phẩm Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - Truyền thống dân tộc và nhân loại của Ban Nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh, do Nhà xuất bản Khoa 7 học - xã hội Hà Nội xuất bản năm 1993 (Giáo sư Vũ Khiêu chủ biên). Tác phẩm là tập hợp nhiều bài viết của các nhà khoa học tập trung nêu làm nổi bật vị trí, vai trò của đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Các bài viết đều thống nhất nhận định: “tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là phần kết tinh của tư tưởng Hồ Chí Minh, và đề tài tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức có quan hệ hữu cơ với tất cả các đề tài thuộc chương trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh, và ngược lại các đề tài thuộc chương trình này cũng cần quán triệt một cách đúng đắn tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” (tác phẩm, tr.5). Từ nội dung cơ bản đó của tác phẩm, chúng tôi có thể khai thác để phục vụ cho vấn đề mình tìm hiểu, đặc biệt dưới góc cạnh đạo đức cách mạng như là một nhân tố không thể thiếu, một nền tảng cơ sở, là phần “gốc‟ trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ. Tác phẩm Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam của tác giả Mạch Quang Thắng (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền của tác giả Trần Đình Huỳnh (Nhà xuất bản Hà Nội, 2004)... đã đi vào phân tích những quan điểm của Hồ Chí Minh về một đảng cầm quyền - Đảng Cộng sản như là một nhân tố quyết định dẫn đến mọi thắng lợi của cách mạng; đồng thời đi sâu phân tích nêu bật những yêu cầu đối với một đảng cầm quyền. Đảng muốn lãnh đạo được đất nước, lãnh đạo được cách mạng thì Đảng phải làm gì. Qua đó, mỗi cán bộ, đảng viên còn phải học tập, rèn luyện như thế nào để đứng trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng. Tác phẩm Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng sự nghiệp đổi mới của chúng ta của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tác phẩm Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường Đảng và nhân dân ta tiến vào thế kỉ 21 của Nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu. Đây là hai tác phẩm nhấn mạnh tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị to lớn đối với những thành công của cách mạng nước ta trước đây mà nó đóng vai trò như kim chỉ nam, chỉ đạo hoạt động của Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa 8 xã hội nước ta trong giai đoạn hiện nay, trong đó có đặt ra công tác đào tạo cán bộ đáp ứng với tình hình mới như là một trong những việc làm bức thiết.... Một số tác phẩm của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước (như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Thượng tướng Hoàng Cầm, Thủ tướng Phạm Văn Đồng...) được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp dìu dắt, rèn luyện đã phần nào phản ánh về những kỉ niệm không quên những ngày bên Bác, nhất là những lời căn dặn của Người đối với một chiến sĩ cách mạng, một cán bộ đảng viên. Qua đó, chúng tôi có thể có thêm những tư liệu quý về quan điểm của Hồ Chí Minh về cán bộ, đảng viên, trong đó có công tác đào tạo cán bộ. Những công trình trên là cơ sở quan trọng để chúng tôi tham khảo và kế thừa, đối chiếu và so sánh khi tiếp xúc các vần đề có liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ. Qua đó, chúng tôi có thể xử lí hiệu quả nguồn tài liệu để phục vụ cho việc nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, chúng tôi cũng ý thức được rằng, đó chỉ là những tài liệu tham khảo, phản ánh kết quả chủ quan của các tác giả trong quá trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh. Những tác phẩm, bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh được in trong Hồ Chí Minh toàn tập vẫn sẽ là những tư liệu gốc cơ bản để chúng tôi khai thác, là nền tảng cho kết quả nghiên cứu của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Thông qua việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ nhằm góp phần làm rõ vai trò to lớn của Hồ Chí Minh đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ nước ta; đồng thời, góp phần bổ sung vào kho tàng lý luận trong công tác cán bộ nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Nhiệm vụ nghiên cứu: 9 - Trình bày hoàn cảnh ra đời; nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ. - Nêu bật được vị trí, ý nghĩa to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ đối với cách mạng Việt Nam. - Trình bày những kết quả trong công tác đào tạo cán bộ nước ta trong thời gian qua; đưa ra một số phương hướng, giải pháp về đào tạo cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh vận dụng vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ. Phạm vi nghiên cứu: Toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ trong suốt cuộc đời hoạt động của Người (cụ thể là từ năm 1911 đến năm 1969). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: dựa vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của Đảng thông qua các văn kiện Đảng, Nghị quyết Hội nghị Trung ương và Nghị quyết, Chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng; các tác phẩm chủ nghĩa Mác - Lênin về công tác cán bộ, đảng viên; các công trình khoa học có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh và một số phương pháp khác. 6. Đóng góp của luận văn 10 - Trình bày có hệ thống quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ, thông qua đó đánh giá vị trí, ý nghĩa và vai trò của những quan điểm, tư tưởng ấy trong tiến trình cách mạng Việt Nam. - Nêu bật, khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay; đưa ra một số phương hướng, biện pháp trong đào tạo cán bộ theo quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn đặt ra trong công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam giai đoạn hiện nay. - Góp phần bổ sung thêm một tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Mục lục, Luận văn gồm 2 chương: Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ trong tình hình hiện nay 11 Chương 1 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐÀO TẠO CÁN BỘ 1.1. Tầm quan trọng của công tác đào tạo cán bộ 1.1.1. Phạm vi “cán bộ” được trình bày trong luận văn. Cán bộ là khái niệm tương đối mới mẻ, xuất hiện trong lịch sử cận hiện đại Việt Nam, đặc biệt là từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và chính quyền cách mạng được thành lập. Khái niệm cán bộ mà chúng ta thường dùng được hiểu là: Cán bộ: “1. Người làm việc trong cơ quan nhà nước: cán bộ nhà nước,: bố mẹ đều là cán bộ. 2. Người giữ chức vụ, phân biệt với người bình thường không giữ chức vụ trong các cơ quan tổ chức nhà nước: cán bộ tổ chức, cán bộ đại đội” [4; tr.249]. Hoặc có thể hiểu Cán bộ: “1. Người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước. Cán bộ nhà nước. Cán bộ khoa học. Cán bộ chính trị. 2. Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường, không có chức vụ. Đoàn kết giữa cán bộ và chiến 12 sĩ. Họp cán bộ và công nhân nhà máy. Làm cán bộ Đoàn thanh niên” [67; tr.105]. Trong cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh, Người có nhiều bài viết, bài nói đề cập đến cán bộ, có khi rất cụ thể, chi tiết (cán bộ quân đội, cán bộ thu thuế, cán bộ hành chính, cán bộ tỉnh, cán bộ huyện...), có khi rất khái quát. Trong bản luận văn này, khái niệm cán bộ được hiểu theo nội hàm khái quát đó. Trong bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hóa ngày 20-2-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Cán bộ là gì? Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được” [42; tr.54]. Trong thư gửi đồng bào, chiến sĩ và cán bộ toàn quốc, viết năm 1952, nói về kế hoạch thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm do Chính phủ đề ra, Hồ Chí Minh nói: “Tôi yêu cầu cán bộ các ngành, các đơn vị từ trung ương đến khu, đến xã phải nghiên cứu rất kỹ lưỡng”. Hay trong thư gửi các đại biểu Hội nghị cán bộ chính quyền toàn quốc lần thứ 5, viết năm 1952, Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Tổ chức những ban huấn luyện ít ngày làm cán bộ từ khu đến xã thấm nhuần chính sách sản xuất và tiết kiệm” [43; tr.446]. Như vậy, nội hàm cán bộ được đề cập trong luận văn theo quan điểm Hồ Chí Minh rất rộng, bao gồm những người nắm giữ cương vị, trọng trách khác nhau trong hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền (nhà nước), Quân đội thuộc mọi cấp (từ cấp trung ương đến cấp cơ sở). Với nội hàm như thế, chúng ta có thể nhận thức được rằng: đại đa số cán bộ là đảng viên (người trong Đảng) và một bộ phận cán bộ không phải là đảng viên (người ngoài Đảng). 1.1.2. Vị trí, vai trò của công tác đào tạo cán bộ 13 Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm và khẳng định tầm quan trọng của công tác đào tạo cán bộ. Bản thân Người là một người thầy vĩ đại, đã trực tiếp cùng với Đảng đào tạo và rèn luyện nên biết bao thế hệ cán bộ ưu tú, đặc biệt là trong những thời kỳ đầu của cách mạng Việt Nam. Nhiều người sau này đã trở thành những người giữ trọng trách cao trong Đảng, Nhà nước, Quân đội... như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyễn Giáp, Trường Chinh... Sở dĩ , Người đánh giá cao vai trò của công tác đào tạo cán bộ, vì theo Người: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”, “Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể. Có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn” [43; tr.46]. Người đã xuất phát từ việc nhận thức đúng vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ. Họ đứng ở vị trí đầu tầu, đi đầu trong mọi công việc, mọi lĩnh vực. Vì thế, “bất cứ công việc gì, nếu thiếu cán bộ, khó thực hiện được” [41; tr.260]. Cán bộ chính là những người đứng trong Đảng, làm trong Chính phủ, trong các ban, ngành, các tổ chức. Trí tuệ của họ chính là sản phẩm của những đường lối, chủ trương, quyết sách, là những kinh nghiệm được mang ra thực tiễn để chỉ đạo cách mạng Việt Nam, để hướng dẫn tập trung quần chúng đấu tranh, lao động và sản xuất. Đồng thời, họ cũng là người đưa những chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với quần chúng nhân dân: : “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng”[42; tr.269]. Họ là sợi dây nối liền Đảng với nhân dân. Vì vậy, theo Người, để đội ngũ cán bộ gánh vác được những trọng trách lớn lao, cao cả ấy, trước hết người cán bộ phải là người ưu tú, gương mẫu, có đạo đức cách mạng, có năng lực, có trình độ hiểu biết và làm việc, nắm được các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thì mới có thể “nói cho đồng bào ta rõ, làm cho đồng bào ta hiểu”. 14 Mặt khác, nhân dân ta có trình độ văn hóa thấp cũng chính là nguyên nhân Bác coi trọng công tác đào tạo cán bộ, vì cán bộ là từ nhân dân mà ra. Nhân dân và cán bộ đều có trình độ thấp, nếu nâng được trình độ văn hóa cho cán bộ lên thì trình độ văn hóa của nhân dân cũng sẽ được nâng lên theo. Trong điều kiện nước ta là một nước phong kiến nghèo nàn, lạc hậu, lại bị đế quốc thực dân thống trị trong một thời gian dài. Để phục vụ cho sự cai trị, bóc lột tàn bạo của mình, chúng thi hành chính sách văn hóa nô dịch, thực hiện nền giáo dục “ngu dân” khiến cho trình độ văn hóa của nước ta rất thấp, kinh tế nước ta rất nghèo nàn, lạc hậu. Điều đó được thể hiện rõ qua số lượng trí thức hạn chế, đại đa số là nông dân không biết chữ (chiếm hơn 90%). Những thói hư tật xấu (tính tự tư tự lợi, tham ô, hủ hóa...) vốn đã ăn sâu trong đời sống xã hội trước kia thì tiếp tục có điều kiện phát triển. Trong khi đó, muốn đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh cho rằng trước hết phải truyền bá tư tưởng đấu tranh tiến bộ (chủ nghĩa Mác - Lênin). Muốn vậy, cần phải đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ, có nhận thức nhất định. Do xuất phát điểm nhận thức của người dân nước ta thấp như vậy, nên công tác đào tạo cán bộ ở nước ta lại càng trở nên quan trọng, bức thiết và quả thực, nó đặt lên vai những người làm công tác đào tạo một trách nhiệm càng hết sức nặng nề. “Vì vậy ta phải đào tạo cán bộ, cán bộ phải có văn hóa làm gốc” [45; tr.224]. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Đảng viên và cán bộ cũng là người. Ai cũng có tính tốt và tính xấu” [42; tr.254], ai cũng có khuyết điểm và sai lầm. Trong Thư gửi các lớp chỉnh huấn cơ quan, viết tháng 6-1953, Hồ Chí Minh nói rõ: “Vì cán bộ ta lập trường chưa vững chắc, tư tưởng chưa thông suốt. Do đó mà mắc nhiều khuyết điểm như: - Chưa hiểu rõ đường lối cách mạng dân tôc dân chủ; chưa nắm được vững chính sách trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh; - Chưa phân biệt rõ ràng ai là thù ta, ai là bạn (trên thế giới, trong nước và trong bản thân mình); 15 Vì vậy mà mắc nhiều bệnh. Chủ nghĩa cá nhân đặt lợi ích riêng của mình, của gia đình mình lên trên, lên trước lợi ích chung của dân tộc. Đó là bệnh chính, bệnh mẹ, do đó mà sinh ra nhiều chứng bệnh khác như tự tư tự lợi, sợ khó sợ khổ, không yên tâm công tác. Ham địa vị danh tiếng; lãng phí, tham ô. Quan liêu, mệnh lệnh... [44; tr. 92]. Hơn nữa, theo Hồ Chí Minh, “tính xấu của một người thường chỉ hại cho người đó, còn tính xấu của một đảng viên, một cán bộ sẽ có hại đến Đảng, có hại đến nhân dân” [42; tr.254]. “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hặc kém. Đó là một chân lí nhất định” [42; tr.240]. Theo Bác, con người sinh ra đều mang tính thiện (“Nhân chi sơ, tính bản thiện”). Họ lớn lên tính cách tốt hay xấu phần lớn đều là nhờ giáo dục, nhờ rèn luyện. Quá trình rèn luyện ấy là quá trình rèn luyện phấn đấu suốt đời. Đội ngũ cán bộ cũng vậy. Muốn trở thành người cán bộ tốt, có lợi cho nước, có ích cho nhân dân thì người đó phải được đào tạo, phải được huấn luyện. Tùy từng hoàn cảnh, tùy từng đối tượng mà Hồ Chí Minh thường có nhiều cách diễn đạt khác nhau, khi thì Người nói “đào tạo”, “bồi dưỡng”, “rèn luyện”, “huấn luyện”, “giáo dục” cán bộ. Nhưng tựu chung lại, nội hàm của những khái niệm ấy chính là đào tạo cán bộ. Theo Hồ Chí Minh, đào tạo cán bộ không phải là đào tạo một lần là xong. Mà công tác đào tạo cán bộ phải tiến hành liên tục, không ngừng nghỉ, theo quy trình nhất định (lựa chọn đối tượng -> đào tạo cán bộ -> công tác thực tế -> đào tạo nâng cao -> công tác -> đào tạo...). Bởi theo Người: “Cán bộ có nhiều khuyết điểm, điều đó không có gì lạ. Nếu cán bộ hoàn toàn không có khuyết điểm mới là điều lạ”. Người giải thích rằng: “Vì đã lâu, chúng ta sinh trưởng dưới chế độ nô lệ của thực dân và phong kiến, bị văn hóa giáo dục thực dân phong kiến thấm vào đã sâu. Nó đã làm cho nhiều người tê mê quên cả nhân dân, quên cả Tổ quốc. Nó đã làm cho những bệnh thối nát hủ bại (như chủ nghĩa cá nhân, tự tư tự lợi, tham ô lãng phí...) ăn sâu vào con người như những bệnh kinh niên. Vì vậy, cán bộ ta trong xã hội ấy mà ra nên không khỏi nhiều hay ít có thói xấu ấy” [44; tr.84]. 16 Xuất phát từ những nhận thức trên, Hồ Chí Minh đi đến một khẳng định: “đào tạo cán bộ là công việc gốc của Đảng” [42; tr.269], “Chính phủ nên mở ở các tỉnh những lớp huấn luyện cán bộ” [41; tr.260]. Rõ ràng, công tác đào tạo cán bộ có ảnh hưởng quyết định đến sự thành bại của cách mạng, vận mệnh dân tộc. 1.2. Những quan điểm đào tạo cán bộ Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã có nhiều bài nói, bài viết về công tác đào tạo cán bộ và chính Người cũng tham gia trực tiếp vào giảng dạy để xây dựng biết bao thế hệ cán bộ ưu tú. Những bài nói, bài viết cùng những hoạt động thực tiễn của Người hợp lại đã tạo nên những quan điểm, luận điểm về công tác đào tạo cán bộ. Những quan điểm ấy được khái quát lại thành 5 luận điểm lớn. 1.2.1. Kết hợp đức - tài Đức và tài là hai phẩm chất cơ bản của con người nói chung. Khi nhìn nhận, đánh giá con người, ta cũng đều căn cứ trên hai mặt này. Đối với người cán bộ, điều đó là hết sức quan trọng. Theo Hồ Chí Minh, công tác đào tạo cán bộ phải làm sao cho ra “sản phẩm” là những người cán bộ có cả hai phẩm chất đức và tài, nếu thiếu một trong hai phẩm chất đó thì công tác đào tạo cán bộ xem như chưa hoàn thành được nhiệm vụ, chưa đạt được mục đích đề ra. Được trang bị chủ nghĩa Mác-Lênin - vũ khí lý luận sắc bén, tiên tiến và cách mạng của thời đại cùng với tư duy sáng tạo, nhạy bén... Hồ Chí Minh luôn xem xét và nhận thức sự vật, hiện tượng ở nhiều góc độ, nhiều chiều cạnh khác nhau và tìm ra mối liên hệ biện chứng giữa chúng. Tư duy Hồ Chí Minh là tư duy mở, tư duy biện chứng, do đó, khi xem xét mối quan hệ đức tài, Người đã thấy được mối liên hệ tất yếu và cần thiết giữa hai mặt: “ Có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô hủ hóa có hại cho nước. Có đức 17 không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai” [45; tr.184]. Trong mối quan hệ biện chứng ấy, đức và tài có tác động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau, đức được xem là gốc, là cội nguồn, nền tảng: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo” [42; tr.252]. Người cán bộ trước hết phải là người có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì nhân dân không tin yêu, không giúp đỡ và không ủng hộ. Đức là một phạm trù tương đối rộng. Mỗi một thời đại, mỗi một dân tộc, một nền văn hóa hay mỗi một con người lại có những quan niệm khác nhau về đức. Vậy chữ đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hiểu như thế nào? Theo Người, đức là đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên. Phẩm chất đạo đức ấy được Hồ Chí Minh diễn đạt theo nhiều cách hiểu khác nhau. Có khi người đưa ra tiêu chuẩn đào tạo người cán bộ cần phải có 5 đức tính tốt. Đó là Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm. Nhân là thật thà thương yêu hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Người có “nhân” vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân, sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ, không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ uy quyền. Những người đã không ham, không e, không sợ, thì việc gì là việc phải họ cũng làm được. Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc xấu, không có việc gì phải giấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng, không có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc Đảng giao cho việc, thì bất kỳ to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình người khác cũng luôn luôn đúng đắn. Trí, vì không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc luôn trong sạch, sáng suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng. Biết xem 18 người. Biết xét việc. Vì vậy mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc người tốt, đề phòng người gian. Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn có gan chịu đựng. Có gan chống lại những sự vinh hoa, phú quý, không chính đáng. Nếu cần thì có gan hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè nhút nhát. “Trong lúc khó khăn của dân tộc, khí tiết của người cán bộ là không sợ gì hết, không sợ kẻ địch, không sợ khó khăn gian khổ. cái gì khó khăn cực khổ, cán bộ phải xung phong làm trước” [44; tr.116]. Liêm là không tham lam địa vị, không tham tiền tài. Người thường lấy ví dụ cán bộ ta thường có khuyết điểm tự kiêu, tự mãn, từ đó sinh ra óc địa vị, ham địa vị, đang làm việc ở trung ương, ở khu mà tổ chức phân công nhiệm vụ về tỉnh, về huyện thì thì phàn nàn, chán nản, cho rằng như thế là không xứng đáng với tài của mình. Hồ Chí Minh dạy rằng: “Phải gột sạch đầu óc địa vị đi. Việc gì có lợi cho cách mạng, cho Đoàn thể là làm hết, không có việc gì sang, việc gì hèn cả” [43; tr.49]. Có lúc, Hồ Chí Minh đưa ra tiêu chuẩn đạo đức cách mạng là “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Cần, là chỉ sự lao động cần cù, chăm chỉ, có tổ chức, có kỷ luật, có kế hoạch, do đó mang lại hiệu quả cao. Nó đối lập với những thói hư tật xấu như bệnh lười lao động, ăn bám, làm ẩu, làm qua loa đối phó, tính vô tổ chức, vô kỷ luật, không phù hợp với đạo đức, phẩm chất người cán bộ cách mạng. Trong đời sống, Bác luôn luôn phê bình thói đạo đức giả, nói mà không làm, nói một đường làm một nẻo. Bác thường dạy cán bộ nên nói ít mà làm nhiều còn hơn nói nhiều mà làm ít, làm không hiệu quả, qua loa, đại khái sẽ làm giảm lòng tin của nhân dân đối với cán bộ, với Đảng. Là một người theo chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh chắc chắn đã hiểu hết ý nghĩa sâu sắc câu nói nổi tiếng của C. Mác: “Lao động đã sáng tạo ra xã hội con người”, để từ đó dăn dạy, chăm lo sự nghiệp đào tạo đội ngũ cán bộ luôn có tính chuyên cần, yêu lao động và sáng tạo trong lao động. 19 Kiệm, là phải biết tiết kiệm sức lao động, thời giờ, tiền của của nhân dân, của Nhà nước và của chính bản thân từ cái nhỏ đến cái lớn; không phô trương hình thức, xa xỉ, hoang phí, coi “tiết kiệm là quốc sách”. Tiết kiệm ở đây không được hiểu là bủn xỉn, keo kiệt mà là sự chi tiêu đúng mức, hợp lý mang lại hiệu quả cao nhất. Còn nhớ trong những tháng năm (1924 - 1927) tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ cách ở Quảng Châu (Trung Quốc), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã cho chúng ta thấy tấm gương sáng ngời về tinh thần tiết kiệm, sử dụng số tiền ít ỏi của mình để phục vụ việc huấn luyện cán bộ để mang lại hiệu quả cao nhất. Hay khi nước nhà mới giành được độc lập, “giặc đói” đã cướp đi biết bao sinh mạng đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ phát động phong trào lập “Hũ gạo tiết kiệm” để cứu đói dân nghèo. Nhờ đó, đất nước ta dần vượt qua khó khăn. Và không phải ngẫu nhiên, Hồ Chí Minh lại xếp chữ “kiệm” vào hàng “quốc sách”. Liêm, tức là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”; “không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”. Phải “trong sạch, không tham lam”. “Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa”. Đồng thời, Người cũng chỉ ra những hành vi trái với chữ Liêm như: “cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút hoặc trộm của công làm của tư”, “Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là trộm). Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc, nguy hiểm, không dám làm, là tham vật úy lạo. Gặp giặc mà rút ra, không tham dám đánh là tham sinh úy tử”. “Liêm” là sự phản ánh bản chất của chính quyền cách mạng, của người cán bộ cách mạng. Nó trái ngược hoàn toàn với chế độ thực dân phong kiến thối nát. Người cán bộ cách mạng mà đánh mất chữ “liêm” thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến lòng tin của quần chúng nhân dân. Để giáo dục cán bộ thực hiện nghiêm chữ “liêm”, trong những năm kháng chiến trường kỳ gian khổ, Hồ Chí Minh đã ký hiều sắc lệnh xét xử những cán bộ tham ô của công gây hậu quả 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan