VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THU TRANG
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ “DÂN” VÀ VAI TRÒ CỦA
NHÂN DÂN TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG
VIỆT NAM
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN NGUYÊN VIỆT
HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Trần Nguyên Việt. Các nguồn tài
liệu được dẫn trích trong luận văn là trung thực, chính xác và có nguồn gốc rõ
ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Tác giả
Nguyễn Thị Thu Trang
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn trân trọng và biết ơn sâu sắc tới PG.TS.
Trần Nguyên Việt – Người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành
luận văn Thạc sỹ này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa
Triết – Học viện Khoa học Xã hội đã giảng dạy, cung cấp cho tôi những kiến
thức cơ bản về triết học để tôi hoàn thành luận văn Thạc sỹ này trong điều
kiện tốt nhất.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... .1
Chƣơng 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ XÃ HỘI VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ
XX VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ CƠ BẢN CHO SỰ HÌNH THÀNH QUAN
NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VÀ VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN 9
1.1. Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX ..................................... 9
1.2. Những tiền đề cơ bản cho sự hình thành quan niệm Hồ Chí Minh về
“dân” và vai trò của nhân dân ........................................................................ .18
Tiểu kết chương 1........................................................................................... .41
Chƣơng 2: MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ “DÂN” VÀ VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG SỰ
NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM ........................................................ .43
2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về “dân” và vai trò của nhân dân trong sự
nghiệp cách mạng Việt Nam ........................................................................... 43
2.2. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về “dân” và vai trò của nhân dân
trong sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay .................................................. 63
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................... 73
KẾT LUẬN ................................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... .76
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người cộng sản vĩ đại, vị anh hùng giải phóng
dân tộc, chiến sĩ quốc tế lỗi lạc đã đấu tranh không mệt mỏi, hiến dâng cả đời
mình vì tổ quốc, vì nhân dân, vì độc lập tự do cho dân tộc, vì hoà bình và
công lý trên thế giới. Với tình cảm yêu nước thương dân vô hạn cả cuộc đời
mình Người chỉ có duy nhất một mong muốn: “Tôi chỉ có một sự ham muốn,
ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân tộc ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành” [36, tr. 187]. Nhân dân trong trái tim của Hồ Chí Minh giữ một vị trí vô
cùng quan trọng bởi dân là gốc của nước, là ngọn nguồn sức mạnh, là lực
lượng to lớn của Đảng, của cách mạng nếu không có sự ủng hộ của nhân dân
thì làm sao có thể làm nên sự nghiệp lớn lao.
Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên có tư tưởng hết sức đầy đủ và
đúng đắn về dân và vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cũng đã chứng minh: nhân dân là người
làm nên những thắng lợi lịch sử. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã
đánh đuổi hai tên đế quốc hùng mạnh nhất, sừng sỏ nhất để giành lại độc lập
tự do cho đất nước, và cũng chính nhân dân lại đem tất cả sức lực, tài năng trí
tuệ, của cải để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập và lãnh đạo Đảng, Người nhận
thấy được rằng sức mạnh của Đảng và nhà nước là dựa trên sức mạnh và sự
ủng hộ của nhân dân cho nên mọi công tác của Đảng đều phải dựa vào dân,
tin tưởng ở nhân dân, phải thu hút trí tuệ, sức sáng tạo của nhân dân, đồng
thời chịu sự giám sát của nhân dân. Dù ở đâu, làm gì Người nhắc nhở mọi
đảng viên đều phải nhớ nước phải lấy dân làm gốc bởi: “Gốc có vững, cây
mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” [44, tr. 502]. Và dù ở đâu,
1
trong ý thức cũng như hành động của mỗi cấp uỷ, tổ chức đảng, mỗi cán bộ,
đảng viên đều phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của quần
chúng nhân dân, phải phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân, đáp ứng
nhu cầu và lợi ích thiết thực của nhân dân, nhằm nâng cao đời sống vật chất
tinh thần của nhân dân, tạo cho nhân dân một cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Tuy nhiên, hiện nay có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên từ
trung ương đến địa phương có sự suy thoái và tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống với những biểu hiện khác nhau như sự phai nhạt về lý tưởng, sa vào chủ
nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan
liêu, cửa quyền... Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đưa ra
chưa thực sự hiệu quả, chưa xuất phát từ nguyện vọng và lợi ích thiết thực của
nhân dân. Từ đó, gây nên sự thiếu tin tưởng, mất dần lòng tin, sự ủng hộ của
nhân dân đối với Đảng và nhà nước cũng như mất đi sức mạnh của nhân dân
trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước dẫn đến nguy cơ đe doạ đến
sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Chính vì vậy, Đảng và nhà nước ta phải có
sự đánh giá lại, nhận thức sâu sắc hơn về vai trò của quần chúng nhân dân và
đặc biệt quan trọng là phải biết chăm lo cho cái gốc của mình là nhân dân,
bám rễ trong nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân.
Từ lí do trên, tôi chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về “dân” và vai
trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam” cho luận văn thạc sĩ
triết học với hy vọng góp phần nhỏ bé của mình vào việc làm sáng tỏ một số
phương diện lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ chí Minh về “dân” và vai trò của nhân dân trong sự
nghiệp cách mạng Việt Nam đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của các
nhà khoa học với nhiều khía cạnh khác nhau và những cách tiếp cận khác
nhau. Cho đến nay, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu vấn đề này.
2
Trong phạm vi của luận văn, tôi xin trình bày khái quát một số hướng nghiên
cứu sau đây:
Thứ nhất, nhóm các báo, tạp chí và sách chuyên khảo
Nguyễn Cương: “Triết lý “Lấy sức dân, của dân, tài dân, làm lợi cho
dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 814 (13/8/2010), tr. 38 - 41.
Bài viết đã phân tích một cách sâu sắc triết lý: “Lấy sức dân, của dân, tài dân,
làm lợi cho dân” cuả Hồ Chí Minh. Từ đó vận dụng triết lý ấy trong xây dựng
nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
PTS.Đàm Văn Thọ, PTS.Vũ Hùng: “Mối quan hệ giữa Đảng và dân
trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997. Trong
cuốn sách, các tác giả đã nêu lên khái niệm về dân, những quan điểm, thái độ
khác nhau về dân trong lịch sử phương Đông và phương Tây, cũng như trong
lịch sử Việt Nam. Khi phân tích quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai
trò của quần chúng nhân dân và của cá nhân kiệt xuất, các tác giả đã làm rõ
quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng và
nhân dân; những nội dung chủ yếu của mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân
trong tư tưởng Hồ Chí Minh; những luận điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về
Đảng cầm quyền trong mối quan hệ với dân.
GS.TS Hoàng Chí Bảo: “Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh” (tái
bản), Nxb Chính trị - Hành Chính, Hà Nội, 2011. Cuốn sách đã trình bày quan
điểm của tác giả khi nghiên cứu phương pháp Hồ Chí Minh, tác giả cho rằng
không thể tách rời tư tưởng, phong cách, đạo đức, lối sống với nhân cách của
Người. Công trình này gồm có mười nội dung chính, trong đó, ở nội dung thứ
sáu tác giả có đề cập đến quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của nhân
dân, đó là: Từ “Dân” đến “Dân chủ” và “Dân vận” trong tư tưởng, phương
pháp và phong cách Hồ Chí Minh.
3
PGS.TS Phạm Ngọc Anh: “Phát huy các nguồn lực của dân làm lợi cho
dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2012.
Trong công trình này, tác giả đã trình bày quan niệm của Hồ Chí Minh về nhu
cầu và lợi ích chính đáng của nhân dân; về các nguồn lực vốn có trong nhân
dân, từ đó đánh giá thực trạng các nguồn lực ấy và đề ra các giải pháp phát
huy tối đa các nguồn lực của nhân dân có thể làm lợi cho dân trong công cuộc
đổi mới đất nước.
PGS.TS. Phạm Hồng Chương, PGS.TS. Doãn Thị Chín: “Tư tưởng dân
chủ của Hồ Chí Minh”, Nxb Chính Trị Quốc gia, Hà Nội, 2016. Cuốn sách đã
khái quát lại nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng dân chủ,
phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh gồm:
khái niệm, vai trò, bản chất và đặc điểm dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh;
các hình thức dân chủ và điều kiện thực hành dân chủ, đồng thời phân tích
quá trình vận dụng tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay. Từ đó
cho chúng ta thấy Hồ Chí Minh không chỉ là nhà tư tưởng, người sáng lập nền
dân chủ mới, mà còn là tấm gương vĩ đại về phong cách dân chủ cho toàn
Đảng, toàn dân ta noi theo.
Thứ hai, nhóm các đề tài và công trình khoa học các cấp
PGS.TS Phạm Hồng Chương (chủ nhiệm) (2004) “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ và sự vận dụng trong sự nghiệp đổi mới hiện nay”. Trong
công trình này, tác giả đã nêu khái quát về tư tưởng dân chủ của Hồ Chí
Minh, phân tích làm sáng tỏ những nội dung của dân chủ qua các lĩnh vực cụ
thể, đồng thời làm rõ vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh với việc giáo dục ý
thức chính trị cho mọi người dân trong xã hội.
TS. Nguyễn Xuân Phong (chủ nhiệm đề tài) (2010) “Tư tưởng chính trị
“Dân là gốc” trong lịch sử dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta”. Công trình
này đã khái quát lại tư tưởng chính trị “Dân là gốc” trong lịch sử dân tộc,
phân tích và so sánh tư tưởng chính trị “Dân là gốc” qua các giai đoạn trong
4
lịch sử dân tộc. Phân tích và đánh giá việc vận dụng và phát huy tư tưởng
“Dân là gốc” của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực tiễn cách mạng, từ đó
rút ra ý nghĩa của tư tư tưởng ấy trong giai đoạn hiện nay nhằm đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ ba, các luận văn, luận án triết học
Luận án tiến sĩ: “Vận dụng tư tưởng và phương pháp dân chủ của Hồ
Chí Minh trong quá trình thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”,
của Phạm Văn Bính, Học viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, 2003. Luận
án này đã nghiên cứu hệ thống tư tưởng, phương pháp dân chủ của Hồ Chí
Minh và quá trình vận dụng vào thực tiễn Việt Nam để xây dựng hoàn thiện
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, luận án tiếp tục đưa ra phương
hướng vận dụng tư tưởng và phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh trong
công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Luận án tiến sĩ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng
nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh tổ quốc hiện nay”, Hà Trọng Thà,
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh), 2013. Luận án này đã trình bày cơ sở thực tiễn và tiền đề lý luận cho
sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân. Trên cơ sở phân
tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần
chúng nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh tổ quốc, luận án đã làm rõ
thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân trong sự
nghiệp bảo vệ an ninh tổ quốc ở Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ: “Sự phát triển từ tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi
đến tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh”, Cao Phan Giang, Đại học Cần Thơ,
2010. Luận văn đã làm rõ những nội dung tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi
và tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh; tập trung phân tích mối liên hệ và sự
phát triển từ tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi đến tư tưởng dân chủ của Hồ
Chí Minh.
5
Luận văn thạc sĩ: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân
vận ở Việt Nam hiện nay”, Mai Thị Bích Ngọc, Đại học Khoa Học Xã Hội và
Nhân Văn, 2013. Dựa trên cơ sở làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
dân vận, luận văn xác định được tầm quan trọng và tập trung đánh giá thực
trạng vận dụng tư tưởng đó phù hợp với bối cảnh hiện nay ở nước ta, từ đó đề
xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác dân vận.
Luận văn thạc sĩ: “Triết lý lấy dân làm gốc của Hồ Chí Minh và ý nghĩa
của nó đối với nước ta hiện nay”, Nguyễn Cương, Đại học Khoa Học Xã Hội
và Nhân Văn, Hà Nội, 2014. Luận văn đã đi vào phân tích nội dung và thực
chất của triết lý lấy dân làm gốc trong tư tưởng Hồ Chí Minh và phần nào đưa
ra được ý nghĩa của triết lý ấy trong sự nghiệp cách mạng nước ta.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu và bài viết trên, ở mức độ nhất
định, đã chỉ ra được những nội dung cơ bản xoay quanh vấn đề tư tưởng về
dân, tư tưởng về vai trò của nhân dân, tư tưởng về “lấy dân làm gốc” trong sự
nghiệp cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh…Tuy nhiên, các quan điểm
trên còn hết sức rời rạc chưa đưa ra được đầy đủ, chính xác tư tưởng của Hồ
Chí Minh về “dân”, và vai trò của nhân dân. Không chỉ ra được ý nghĩa to lớn
của tư tưởng “dân” và vai trò của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng nước
ta. Chính vì vậy, tôi lựa chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Tập trung phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng của Hồ Chí
Minh về “dân”, về vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam,
trên cơ sở đó làm rõ ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về “dân” và vai trò
của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
6
3.2. Nhiệm vụ
- Trình bày và phân tích bối cảnh xã hội và những tiền đề cơ bản cho sự
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về “dân” và vai trò của nhân dân trong sự
nghiệp cách mạng Việt Nam.
- Phân tích và làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về “dân” và vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
- Làm rõ ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh về “dân” và vai trò của nhân
dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận văn được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận là những nguyên
lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam về quần chúng nhân dân và vai trò của quần chúng nhân
dân trong lịch sử.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên việc vận dụng phương pháp luận nghiên
cứu của chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu
khoa học khác: kết hợp lịch sử với lôgic, so sánh, tổng hợp, khái quát hoá,
trừu tượng hoá…
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề tư tưởng “dân” và vai trò của
nhân dân trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí minh trên một số khía cạnh chủ yếu.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tư tưởng và ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí minh về
“dân” và vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Trên cơ sở phân tích một cách có hệ thống nội dung cốt lõi trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về “dân” và vai trò của nhân dân. Luận văn góp phần làm
rõ ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về “dân” và vai trò của nhân dân trong
sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác
nghiên cứu, học tập giảng dạy triết học, Hồ Chí Minh học.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương và 4 tiết.
8
Chƣơng 1
BỐI CẢNH LỊCH SỬ XÃ HỘI VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX
VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ CƠ BẢN CHO SỰ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM
CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHÂN DÂN VÀ VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN
1.1. Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX
1.1.1. Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, được chứng
kiến nhiều phong trào đấu tranh yêu nước anh dũng nhưng rút cục đều thất bại
của các bậc tiền bối. Bên cạnh đó là những biến động hết sức to lớn của tình
hình thế giới đã góp phần thúc đẩy tạo những tiền đề cho sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng về “dân” và vai trò của nhân dân
trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói riêng.
Giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương tây có sự chuyển biến mạnh
mẽ từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền. Nền kinh tế hàng
hoá phát triển mạnh đặt ra yêu cầu bức thiết về vấn đề thị trường, từ đó dẫn
tới những cuộc chiến tranh xâm lược của các nước đế quốc phương tây với
các quốc gia phương đông, nhằm biến các quốc gia này thành thị trường tiêu
thụ hàng hóa, khai thác tài nguyên thiên nhiên, sức lao động. Đất nước ta lúc
đó cũng không thoát khỏi ách xâm lược của chủ nghĩa đế quốc. Chiến tranh
thế giới lần thứ I (1914 - 1918) nổ ra do mâu thuẫn giữa các nước đế quốc về
vấn đề thuộc địa hết sức gay gắt. Các nước đế quốc, trong đó có thực dân
Pháp tìm mọi cách trút gánh nặng chiến tranh bằng cách tăng cường khai thác,
bóc lột, đàn áp nhân dân các nước thuộc địa, trong đó có nước ta.
Đầu thế kỷ XX, V. I Lênin sau khi đã nghiên cứu tìm hiểu kĩ học thuyết
Mác, ông đã bảo vệ và phát triển học thuyết ấy lên một trình độ cao hơn với
việc đưa ra lý luận về một chính đảng vô sản kiểu mới của giai cấp công
nhân, về cách mạng vô sản trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, về con đường và
9
cách thức đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi cách mạng vô sản giành thắng lợi.
Chính những tiền đề lý luận được V.I.Lênin phát triển đã đựợc Hồ Chí Minh
vận dụng và phát triển một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta
trong công cuộc đánh đuổi quân xâm lược và xây dựng đất nước sau khi giành
được độc lập.
Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vẫn là một xã hội
phong kiến đặc thù với những đặc điểm cơ bản: thứ nhất, nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu tự cung tự cấp chi phối toàn bộ hoạt động của nền kinh tế; thứ
hai, giai cấp thống trị trong xã hội lúc đó là vua quan và địa chủ phong kiến
(lực lượng chiếm hữu đại bộ phận ruộng đất), giai cấp nông dân chiếm số
đông nhưng đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, lầm than. Tuy nhiên, triều
đình nhà Nguyễn lại thi hành những chính sách đối nội, đối ngoại hết sức bảo
thủ phản động (chính sách “bế quan toả cảng”, “cấm đạo và sát đạo”…),
không mở ra cho nước ta cơ hội để tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của
thế giới bên ngoài. Từ đó không phát huy được những thế mạnh của cả dân
tộc và đất nước, không thể chống lại âm mưu thôn tính và nô dịch của chủ
nghĩa thực dân phương tây.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược nước ta. Triều
đình nhà Nguyễn hèn nhát, bạc nhược từng bước đầu hàng dâng nước ta cho
giặc, với việc kí kết Hiệp ước Ácmăng năm 1883 và Hiệp ước Patơnốt năm
1884 đã chính thức biến nước ta thành thuộc địa của Pháp.
Chính sách cai trị của thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã
làm Việt Nam biến đổi một cách sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực:
Về mặt kinh tế: do sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, tình hình kinh tế Việt Nam có sự biến đổi, quan hệ kinh tế nông thôn
(thuần nông, tự cung tự cấp) bị phá vỡ. Cơ cấu kinh tế có sự biến đổi, cụ thể
xuất hiện ngành kinh tế công nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải và các
hoạt động tài chính ngân hàng. Từ đó hình thành nên những đô thị mới,
10
những trung tâm kinh tế mới, những tụ điểm dân cư mới. Tuy nhiên, thực dân
Pháp không du nhập một cách hoàn chỉnh phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa vào nước ta, mà vẫn duy trì quan hệ sản xuất phong kiến. Chúng kết
hợp hai phương thức ấy với nhau nhằm mục đích thu lợi nhuận một cách tối
đa. Đó là sự cướp đoạt ruộng đất để lập ra các đồn điền, đầu tư vốn để khai
thác tài nguyên, xây dựng hệ thống bến cảng, đường bộ, đường thuỷ để phục
vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa. Chính vì những chính sách khai thác
thuộc địa như trên mà Việt Nam không thể phát triển lên tư bản chủ nghĩa
một cách bình thường, nền kinh tế bị kìm hãm trong vòng lạc hậu, phát triển
què quặt, phụ thuộc vào nền kinh tế chính quốc.
Về chính trị: thực dân Pháp tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với
bộ máy đàn áp nặng nề. Chúng tiếp tục củng cố bộ máy chuyên chế, tước bỏ
mọi quyền lực của triều đình phong kiến, tập trung vào tay người Pháp. Đồng
thời, chúng còn biến giai cấp phong kiến trở thành tay sai, công cụ đắc lực
phục vụ cho những mưu đồ chính trị của mình. Thực dân Pháp kìm hãm tự do
dân chủ, thẳng tay khủng bố, đàn áp, sẵn sàng dìm các phong trào đấu tranh
yêu nước của nhân dân ta trong biển máu. Chúng thi hành chính sách “chia để
trị” với âm mưu làm suy giảm sức mạnh, tình đoàn kết của dân tộc ta, ngăn
chặn sức mạnh đấu tranh của nhân dân ta. Việc chia nước ta ra làm ba kỳ, mỗi
kỳ lại đặt ra một chế độ cai trị riêng (chế độ nửa bảo hộ ở Bắc kỳ, chế độ bảo
hộ ở Trung kỳ, chế độ thuộc địa ở Nam kì) là hoàn toàn phù hợp với tâm địa
cai trị đó. Thực dân Pháp còn sử dụng những thủ đoạn thâm độc gây chia rẽ,
hận thù giữa ba kỳ Bắc, Trung, Nam, giữa các dân tộc, tôn giáo, các địa
phương.
Về mặt văn hoá: thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách “ngu dân”,
gây tâm lý tự ti, vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, nhằm
kìm chế nhân dân ta trong cảnh ngu dốt để dễ bề cai trị, bóc lột. Mọi phong
trào, hoạt động yêu nước đều bị cấm đoán, đàn áp thẳng tay. Thực dân Pháp
11
xây dựng nhà tù nhiều hơn trường học. Mặc dù chúng có lập ra những cơ sở
đào tạo nhưng cũng chỉ là đào tạo ra đội ngũ tay sai phục vụ cho chính quyền
thực dân, hay những công nhân lành nghề phục vụ cho chương trình khai thác
thuộc địa. Mặt khác chúng còn dung túng, bao che, thậm chí cổ vũ cho các tệ
nạn xã hội: mại dâm, cờ bạc, nghiện ngập…, reo giắc tư tưởng sùng bái nước
Pháp, coi Pháp là “mẫu quốc”, là người đi “khai hóa văn minh”. Chúng
thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hoá - thể thao để lôi cuốn nhân dân
ta, đặc biệt là tầng lớp thanh niên làm cho họ quên đi nỗi nhục mất nước và
làm suy nhược ý chí, lòng căm thù mà quên đi nhiệm vụ đấu tranh đánh đuổi
quân nô dịch cướp nước. Ngoài ra, chúng còn tìm mọi cách ngăn chặn ảnh
hưởng của nền văn hóa tiến bộ của thế giới vào Việt Nam.
Về mặt xã hội: Từ khi thực dân Pháp đặt ách đô hộ, Việt Nam từ một
nước phong kiến trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Xã hội Việt Nam
có sự phân hóa giai cấp một cách sâu sắc, các giai cấp cũ (địa chủ, nông dân)
có sự biến đổi. Giai cấp địa chủ một số trở thành đại địa chủ là tay sai đắc lực
của thực dân Pháp, còn lại trung, tiểu địa chủ là lực lượng cách mạng có tinh
thần yêu nước; giai cấp nông dân sống trong cảnh cực khổ, lầm than phải chịu
sự áp bức bóc lột của cả thực dân và giai cấp địa chủ phản động nên có lòng
căm thù giặc sâu sắc, là lực lượng hăng hái và đông đảo nhất của cách mạng
nhưng không có tổ chức vững chắc. Nếu có lực lượng tiên tiến dẫn dắt, lãnh
đạo thì sức mạnh của họ trong cách mạng giải phóng dân tộc sẽ được phát huy
mạnh mẽ. Bên cạnh sự biến đổi của các giai cấp cũ là sự xuất hiện của các
giai cấp mới (công nhân, tư sản và tiểu tư sản). Giai cấp công nhân ra đời
trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp nhưng với lực lượng
khiêm tốn, chiếm tỷ trọng rất thấp so với giai cấp nông dân. Ngoài những đặc
điểm chung của giai cấp công nhân thế giới như không có tư liệu sản xuất, bị
giai cấp tư sản bóc lột, có tinh thần cách mạng triệt để, giai cấp công nhân
nước ta thời đó còn có đặc điểm riêng là bị ba tầng áp bức, bóc lột của đế
12
quốc, phong kiến và tư sản người Việt, nhưng có quan hệ gắn bó tự nhiên với
nông dân, nếu được tổ chức, giáo dục, họ sẽ có ý thức tổ chức kỷ luật, kế thừa
truyền thống yêu nước của dân tộc, dễ tiếp thu ảnh hưởng của phong trào cách
mạng thế giới. Do ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và cách mạng tháng
Mười Nga nên giai cấp công nhân Việt Nam đã sớm trở thành một lực lượng
chính trị độc lập, có đủ điều kiện và năng lực để lãnh đạo cách mạng. Giai cấp
tư sản là con đẻ của chế độ thuộc địa, gồm hai bộ phận: tư sản mại bản và tư
sản dân tộc. Tư sản mại bản có quyền lợi gắn liền với chủ nghĩa đế quốc, là kẻ
thù của dân tộc và đối tượng của cách mạng. Tư sản dân tộc có khuynh hướng
kinh doanh độc lập, có tinh thần yêu nước, lực lượng kinh tế nhỏ yếu, lập
trường không kiên định dễ thoả hiệp cải lương khi đế quốc mạnh. Giai cấp
tiểu tư sản gồm nhà buôn nhỏ, chủ xưỏng nhỏ, viên chức, trí thức, học sinh,
sinh viên… bị thực dân Pháp bạc đãi, chèn ép, đời sống bấp bênh, có lòng yêu
nước, hăng hái đấu tranh, là một lực lượng quan trọng trong phong trào cách
mạng dân tộc, dân chủ ở nước ta.
Như vậy, đầu thế kỷ XX trong xã hội Việt Nam nổi lên hai mâu thuẫn
cơ bản là: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp, mâu
thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến. Từ đó, đối với bất kỳ phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc nào cũng đều hướng tới mục tiêu là giành độc
lập cho dân tộc và người cày có ruộng, nhiệm vụ độc lập dân tộc là cơ bản
nhất và chủ yếu nhất vì nó phản ánh nguyện vọng bức thiết nhất của cả dân
tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Với truyền thống yêu nước nồng nàn, ngay từ khi thực dân Pháp nổ
súng xâm lược, nhân dân ta đã anh dũng đứng lên chống lại quân cướp nước
và bè lũ tay sai bán nước. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã diễn ra các
phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng dân chủ tư
sản, tiêu biểu có phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi phát động (1885 1896), phong trào nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (1884 13
1913), phong trào Đông Du (1906 - 1908), phong trào Duy tân (1906 - 1908)
do Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh khởi xướng… Tuy nhiên, do phương
pháp cách mạng sai lầm mà các phong trào đó đã đi đến thất bại. Phan Bội
Châu là một chí sĩ đầy nhiệt huyết và tinh thần cách mạng sục sôi, song cuối
đời bị bắt và bị giam lỏng ở Huế; Phan Chu Trinh đi theo xu hướng cải lương
và mục tiêu của ông cũng không thành.
Hồ Chí Minh nhận thấy các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX đều thất bại do chưa có đường lối đúng đắn, chưa tập hợp được lực
lượng của đông đảo quần chúng nhân dân. Dù rất khâm phục tinh thần cứu
nước của các bậc tiền bối, nhưng không tán thành các con đường cứu nước
ấy, Hồ Chí Minh quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước mới. Sau nhiều năm
bôn ba tìm đường cứu nước nghiên cứu thực tiễn và kinh nghiệm của cách
mạng thế giới. Hồ Chí Minh đã tiếp thu những quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân, nhân dân là người sáng tạo ra
lịch sử, liên minh công nông là cơ sở vững chắc để xây dựng lực lượng cách
mạng… từ đó tìm ra con đường giải phóng dân tộc đó là: con đường cách
mạng vô sản với tinh thần dựa vào sức mình là chính.
Có thể nói, lịch sử hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung, tư tưởng về “dân” và vai trò của nhân dân nói riêng cho chúng ta thấy
tư tưởng của Người là một hệ thống lý luận gắn chặt với thực tiễn, có tác
dụng to lớn trong công cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam cũng như của
nhân loại tiến bộ chống lại mọi hình thức áp bức, nô dịch để giải phóng giai
cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
1.1.2. Khái quát cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung sinh ngày 19
tháng 5 năm 1890, tại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay
thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Xuất thân từ một gia đình
14
nhà nho yêu nước, lớn lên trên vùng quê nghèo lam lũ nhưng rất ham học và
có truyền thống yêu nước, đấu tranh kiên cường chống thực dân phong kiến
đã tác động sâu sắc thức tỉnh tinh thần yêu nước của người con đất Việt khi
quê hương bị giặc giày xéo, xâm lăng.
Với tấm lòng yêu nước thương dân, tư duy chính trị sắc bén, Hồ Chí
Minh đã suy ngẫm về nguyên nhân thất bại của những phong trào yêu nước
lúc bấy giờ và nung nấu quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước giành độc lập
cho dân tộc. Ngày 5 tháng 6 năm 1911, Hồ Chí Minh khi đó lấy tên là Văn Ba
đã rời bến cảng Nhà Rồng trên chiếc tàu Amiral Latuche Tréville với hành
trang là tình yêu quê hương đất nước, là khát vọng tìm hiểu, học hỏi, tiếp thu
nền văn minh các nước tiến bộ trên thế giới để quay về giúp nước, cứu dân.
Hồ Chí Minh đã đến Pháp và rất nhiều các nước ở Châu Á, Châu Âu, Châu
Phi, Châu Mỹ. Đi đến đâu Người cũng nhiệt tình tham gia vào phong trào
công nhân và nhân dân các nước thuộc địa, vừa lao động kiếm sống, vừa học
tập và hoạt động cách mạng, nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Năm
1917, với thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế
Cộng Sản đã đưa Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính từ đây
Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc là con
đường cách mạng vô sản.
Năm 1919, Hồ Chí Minh tham gia hoạt động trong phong trào công
nhân Pháp và gia nhập Đảng xã hội Pháp. Tháng 6 năm 1919, Hồ Chí Minh
thay mặt những người Việt Nam yêu nước gửi tới Hội nghị các nước đế quốc
thắng trận họp tại Versailes (Pháp) Bản yêu sách gồm 8 điểm yêu cầu các
nước tham gia hội nghị công nhận quyền tự do, dân chủ và bình đẳng cho dân
tộc Việt Nam. Tháng 7 năm 1920, Hồ Chí Minh đọc được bản “Sơ thảo lần
thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin.
Tác phẩm đã mở ra cánh cửa tương lai cho vận mệnh của dân tộc Việt Nam,
giúp Hồ Chí Minh tìm ra đường đi đúng đắn cho dân tộc đó là con đường
15
cách mạng vô sản. Tháng 12 năm 1920, tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp lần thứ
18 họp tại Tous, Hồ Chí Minh đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế
Cộng Sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện trên đã đánh
dấu bước chuyển biến quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ
Chí Minh từ một người yêu nước chân chính trở thành một người chiến sĩ
cộng sản. Năm 1921, Hồ Chí Minh tham gia Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc
địa, nhằm mục đích tuyên truyền cách mạng thúc đẩy phong trào đấu tranh
giành độc lập dân tộc ở các nước thuộc địa. Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn viết
rất nhiều bài cho các báo “Người cùng khổ”, “Đời sống thợ thuyền”…, đặc
biệt là tác phẩm “Bản án chế độ thực dân”, tố cáo tội ác của chế độ thực dân,
thức tỉnh lòng yêu nước, đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa. Tháng 6
năm 1923, Hồ Chí Minh rời Pháp sang Liên Xô. Tại đây Hồ Chí Minh vừa
hoạt động cách mạng, vừa học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác – Lênin và
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước Nga Xô Viết. Năm 1925, Hồ
Chí Minh đến Quảng Châu (Trung Quốc) tham gia thành lập Hội Liên hiệp
các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, lập ra Việt Nam Thanh niên Cách mạng
đồng chí Hội, chuẩn bị điều kiện cho sự ra đời của Đảng Cộng sản ở Việt
Nam. Ngày 3 tháng 2 năm 1930, tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc),
Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước thành
lập nên Đảng cộng sản Việt Nam. Từ năm 1930 đến năm 1940, tuy hoạt động
cách mạng ở nước ngoài, nhưng Hồ Chí Minh vẫn thường xuyên theo dõi, chỉ
đạo phong trào cách mạng ở nước nhà.
Năm 1941, Hồ Chí Minh trở về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách
mạng trong nước. Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ về lực lượng, sách lược chiến
đấu và nhận thấy thời cơ đã đến. Tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh triệu tập
Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Hội nghị đã thông
qua quyết định tổng khởi nghĩa, thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Ngày
16 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh chủ trì Đại hội Quốc dân tại Tân Trào
16
- Xem thêm -