Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại vấn đề lý luận và thực tiễn...

Tài liệu Trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại vấn đề lý luận và thực tiễn

.PDF
216
530
55

Mô tả:

BỘ TƯ PHÁP BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO TÀI SẢN GÂY THIỆT HẠI VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN MÃ SỐ: LH-08-05/ĐHL CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI: TS. TRẦN THỊ HUỆ KHOA LUẬT DÂN SỰ TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI HÀ NỘI 2009 1 BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT BCA Bộ Công an BLDS Bộ luật dân sự BTC Bộ Tài chính BTP Bộ Tư pháp BTTH Bồi thường thiệt hại CP Chính phủ GTVT Giao thông vận tải HN & GĐ Hôn nhân và gia đình NĐ Nghị định NQ Nghị quyết QĐ Quyết định TANDTC Toà án nhân dân tối cao TT Thông tư TTLT Thông tư liên tịch TW Trung ương VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao 2 MỤC LỤC NỘI DUNG STT TRANG MỞ ĐẦU 4 PHẦN THỨ NHẤT: TỔNG THUẬT NỘI DUNG CÁC CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU 9 PHẦN THỨ HAI: CÁC BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Khái niệm chung về Trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Ths. Nguyễn Minh Oanh. Ý nghĩa, đặc điểm và xác định chủ thể của trách nhiệm dân sự do tài sản gây ra PGS.TS. Đinh Văn Thanh Pháp luật dân sự Việt Nam và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới qui định về trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại gây ra. TS. Nguyễn Minh Tuấn Lược sử qui định của pháp luật về trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại TS. Phạm Kim Anh Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra TS. Vũ Thị Hải Yến Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây thiệt hại Ths. Nguyễn Hồng Hải Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác và cây cối gây ra. Ths. Vũ Thị Hồng Yến Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ, chồng gây thiệt hại. Ths. Bùi Thị Mừng Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồngcó yếu tố nước ngoài. TS. Nguyễn Hồng Bắc Một số vướng mắc trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về Trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại. TS. Nguyễn Văn Cường & Ths. Bùi Dung Huyền Một số vấn đề thủ tục giải quyết tranh chấp và vấn đề thi hành án về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra TS. Trần Anh Tuấn Những bất cập trong qui định của pháp luật về Trách nhiệm do tài sản gây thiệt hại và hướng hoàn thiện. TS. Trần Thị Huệ 3 63 63 75 89 102 120 134 142 151 163 173 186 204 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại của trách nhiệm dân sự được áp dụng khi có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật hoặc tài sản của một chủ thể nào đó đã gây ra trong thực tế một thiệt hại. Qui định của pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể có quyền lợi bị xâm phạm, đồng thời răn đe, phòng ngừa đối với những người có hành vi gây thiệt hại hoặc để tài sản gây thiệt hại . Bộ Luật Dân sự năm 2005 đã qui định khá chi tiết và hệ thống đối với loại trách nhiệm này. Trong đó, có những qui định về những thiệt hại do chính hành vi của con người gây nên và những qui định về thiệt hại do tài sản gây thiệt hại. Tuy nhiên, một bộ phận trong những qui định này, chưa chi tiết, chưa cụ thể vẫn còn những thiếu khuyết nhất định. Đặc biệt là một số khái niệm làm bình diện chung cho vấn đề nghiên cứu cũng như áp dụng thực tiễn; vấn đề xác định thiệt hại; vấn đề xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường, chủ thể được bồi thường; vấn đề xác định lỗi, mức độ lỗi; vấn đề xác định điều kiện phát sinh...… Bên cạnh đó do quá trình đô thị hoá, xây dựng mới các khu kinh tế, khu du lịch và các công trình hạ tầng cơ sở ngày càng nhiều. Các phương tiện giao thông cơ giới, các máy móc thiết bị ngày càng hiện đại hoạt động vói công suất lớn…mà đặc tính hoặc cấu tạo chứa đụng những nguy hiểm khách quan trong quá trình chiếm hữu, khai thác quản lý, vận chuyển dễ gây thiệt hại ngày càng lớn cho con người, làm phát sinh trách nhiệm bồi thường do tự thân các tài sản này gây thiệt hại, mà bản thân loại trách nhiệm này vốn đã phức tạp lại càng phức tạp hơn. Một yêu cầu khách quan là sự điều chỉnh của pháp luật phải phù hợp với thực tế cuộc sống và xã hội Việt Nam, đồng thời phải phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế và của nền kinh tế thị trưòng. Với những điểm còn thiếu vắng của chế định này làm cho cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền gặp nhiều khó khăn, vướng mắc khi áp dụng qui định của pháp luật để giải quyết đối với loại trách nhiệm này. Đây được xem là một "khoảng trống" cần được khắc phục kịp thời. Trong bối cảnh hội nhập, với thực trạng của nền kinh tế thị trường và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay thì vấn đề tài sản thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu, sử dụng, quản lý, vận chuyển ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng. Vì 4 thế, "Trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại - Vấn đề lý luận và thực tiễn" cũng đặt ra nhiều hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn cần giải quyết. Thông qua việc nghiên cứu đề tài sẽ có những phân tích, luận giải về vấn đề nghiên cứu, tìm ra những thiếu khuyết trong qui định đó, đưa ra hướng hoàn thiện pháp luật về chế định này nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật, đồng thời góp phần nâng cao tính trách nhiệm ứng xử của mỗi chủ thể. Trước tình hình đó,việc nghiên cứu, tìm hiểu các qui định của pháp luật về trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại là việc làm có ý nghĩa quan trọng và cũng là một trong các nhu cầu cấp bách đối với khoa học pháp lý dân sự ở Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trách nhiệm BTTH nói chung và trách nhiệm BTTH do tài sản gây thiệt hại là một nội dung rất quan trọng trong pháp luật Dân sự Việt Nam cũng như đa số quốc gia trên thế giới. Bởi, các quy định của pháp luật trong chế định này đã bảo đảm khả năng bồi thường cho người bị thiệt hại một cách kịp thời và hợp lý. Vì vậy, đây là một chủ đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học pháp lý cũng như các nhà thực tiễn áp dụng pháp luật. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về nội dung này hoặc liên quan đến trách nhiệm BTTH nói chung, được thể hiện ở các cấp độ khác nhau: 2.1. Các bài tạp chí Phùng Trung Tập - Lỗi và trách nhiệm ngoài hợp đồng. Tác giả bàn về các hình thức lỗi ý nghĩa của việc xác định lỗi trong trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Nguyễn Thanh Bình – Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng vài nét về thực tiễn xét xử và hướng hoàn thiện - Tạp chí Kiểm sát, số 5/2003, trang 14,15,16. Trần Thị Huệ- Cần sửa đổi, bổ sung chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng- Tạp chí Luật học- Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2005. Trần Ngọc Thành- Một số nguyên tắc đầy đủ trong dân sự- Tạp chí Toà án nhân dân tối cao, năm 2006. Đặng Văn Dũng - Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra - Đặc san Toà án nhân dân, năm 2006. Lê Phước Ngưỡng - Tìm hiểu về trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra- Tạp chí – VKSNDTC, năm 2005. 5 Trịnh Đình Thế - Những bản án không thể thi hành được về trách nhiệm bồi thường thiệt hại. (Dân chủ và Pháp luật, số 06/1999 - Bộ Tư pháp, 1999. – Tr.27 + 38). Nguyễn Thị Thuỷ - Một số vấn đề cơ bản về Luật Bồi thường thiệt hại của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Tạp chí Kiểm sát. số 05/2003, tr 53,54... 2.2. Luận án tiến sĩ, luận văn cao học  Lê Thị Mai Anh - Luận văn cao học - Những vấn đề cơ bản của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Luận văn nghiên cứu những vấn đề chung.  Lê Thị Bích Lan - Một số vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiêt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và uy tín.  Phạm Kim Anh - Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.  Trần Thu Hiền - Những nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.  Lê Thị Mai Anh - Luận án Tiến sỹ - Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra.  Phạm Kim Anh - Luận án Tiến sỹ - Trách nhiệm dân sự liên đới trong pháp luật dân sự Việt Nam. 2.3. Sách tham khảo, Chuyên đề và luận văn tốt nghiệp của sinh viên + Một trăm mười câu hỏi và trả lời về bồi thường thiệt hại - NXB Lao động - xã hội, năm 2006. + TS. Đinh Trung Tụng (chủ biên), Bình luận những nội dung mới của BLDS năm 2005, Nxb. Tư pháp 2005, Phần trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. + Bùi Văn Thấm Tìm hiểu về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Chính trị quốc gia, 2004.- 556t. Nxb + Ngô Quỳnh Hoa, Vũ Thu Hiền - Hỏi đáp pháp luật về bồi thường thiệt hại - Nxb Lao động - Xã hội.- 412 tr.; + Pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Tìm hiểu pháp luật Huyền Nga, Hương Lan, Châu Loan sưu tập và hệ thống hoá.- Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1992. + Một số luận văn tốt nghiệp của sinh viên tại các cơ sở đào tạo luật, (Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra - Phạm Hương Giang; Năng lực 6 chịu trách nhiệm BTTH trong BLDS - Nguyễn Thị Vinh, Các nguyên tắc BTTH Nguyễn Thị Loan,…) Các công trình nghiên cứu trên đây hoặc mới chỉ dừng lại ở bình diện chung nhất những qui định của pháp luật về trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc nghiên cứu từng loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp cụ thể. Chưa có công trình nào nghiên cứu hệ thống qui định của pháp luật về trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại. Đề tài “Trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại – Vấn đề lý luận và thực tiễn” là một đề tài mang tính mới và không trùng lặp với các đề tài được thực hiện và hoàn toàn độc lập. 3. Phạm vi và mục đích nghiên cứu 3.1. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ xoay quanh vấn đề trách nhiệm bồi thường do tài sản gây thiệt hại. Cụ thể, nghiên cứu các quy định của BLDS tại các điều 623, 625, 626, 627 và các văn bản hướng dẫn thi hành các quy định của BLDS về loại trách nhiệm này. 3.2. Mục đích nghiên cứu đề tài: Mục đích nghiên cứu đề tài là: - Làm rõ một số vấn đề về lý luận và thực tiễn của những quy định của pháp luật về loại trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra. - Tìm hiểu quy định của BLDS và các văn bản pháp luật liên quan về trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra, qua đó, đối chiếu, so sánh giữa quy định của pháp luật với thực tiễn về loại trách nhiệm này. Từ đó, đưa ra các kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra, góp phần bảo đảm việc nhận thức và áp dụng quy định của pháp luật được thống nhất trong thực tiễn. - Kết quả nghiên cứu làm tài liệu tham khảo cho sinh viên tại các cơ sở đào tạo luật, các đồng nghiệp và những người làm công tác thực tiễn. 4. Phương pháp nghiên cứu Dựa trên cơ sở lý luận của học thuyết Mác – Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhằm tìm ra mối liên hệ giữa các hiện tượng để đánh giá các vấn đề nghiên cứu một cách khoa học. Các phương pháp phân tích, 7 so sánh, diễn giải, quy nạp, tổng hợp, chứng minh... cũng được sử dụng hợp lý trong quá trình thực hiện đề tài. 5 .Nội dung của đề tài Đề tài tập trung giải quyết các vấn đề sau: - Làm rõ một số cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. - Tìm hiểu các quy định của pháp luật dân sự về trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra. - Đối chiếu các quy định của pháp luật với việc áp dụng trong thực tế để tìm ra những bất cập trong quy định của pháp luật về loại trách nhiệm này. - Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chế định này, đồng thời nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật, góp phần nâng cao tính trách nhiệm ứng xử của mỗi chủ thể trong "đời sống dân sự" tại Việt Nam. 8 PHẦN THỨ NHẤT TỔNG THUẬT NỘI DUNG CÁC CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU I. Những vấn đề lý luận cơ bản về Trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra 1. Khái niệm và đặc điểm Trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra. 1.1. Khái niệm trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra Theo quy định chung của pháp luật thì công dân và pháp nhân có quyền được bảo vệ tài sản, các lợi ích hợp pháp… Tại Điều 1, Sắc lệnh 97/SL ngày 22.5.1950 đã ghi nhận : "Những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành xử nó đúng với quyền lợi của nhân dân". Trong Hiến Pháp 1992 (Đạo luật cơ bản của Nhà nước) đối với tài sản của công dân đã ghi nhận cụ thể: "Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”. BLDS 2005 tại Điều 15 cũng ghi nhận cá nhân có quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền nhân thân không gắn với tài sản, quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản. Như vậy, khi tài sản của pháp nhân, của Nhà nước, hoặc tài sản, tính mạng, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm hại, Nhà nước sẽ áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhất định đối với người có hành vi xâm hại trái pháp luật nhằm mục đích khắc phục những hậu quả xấu về tài sản và tinh thần, khôi phục lại tình trạng vốn có ban đầu cho người bị thiệt hại. Việc khắc phục những tổn hại được áp dụng đối với người có hành vi vi phạm nghĩa vụ gây ra chính là trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Là một loại trách nhiệm pháp lý nên ngoài những đặc điểm của trách nhiệm pháp lý nói chung như do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng, áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật, luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng, được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước…. thì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng còn có những đặc điểm riêng sau đây: - Về cơ sở pháp lý: Trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm Dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Dân sự. Khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì họ phải bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại chính là một quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh và được quy định trong BLDS ở Điều 307 và Chương XXI và các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS. 9 - Về điều kiện phát sinh: trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng chỉ đặt ra khi thoả mãn các điều kiện nhất định đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi vi trái pháp luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại (không phải là điều kiện bắt buộc). Đây là những điều kiện chung nhất để xác định trách nhiệm của một người phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt trách nhiệm BTTH có thể phát sinh khi không có đủ các điều kiện trên. - Về hậu quả: trách nhiệm BTTH luôn mang đến một hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền hoặc phải được pháp luật quy định là một đại lượng vật chất nhất định nếu không sẽ không thể thực hiện được việc bồi thường. Do đó, những thiệt hại về tinh thần mặc dù không thể tính toán được nhưng cũng sẽ được xác định theo quy định của pháp luật để bù đắp lại tổn thất cho người bị thiệt hại. Và cũng chính vì vậy, thực hiện trách nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại. - Về chủ thể bị áp dụng trách nhiệm: Ngoài người trực tiếp có hành vi gây thiệt hại thì trách nhiệm BTTH còn được áp dụng cả đối với những chủ thể khác đó là cha, mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân gây ra thiệt hại, trường học, bệnh viện trong trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại hoặc tổ chức khác như cơ sở dạy nghề… Thông thường, thiệt hại xảy ra thường do con người gây ra. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, nhiều khi tài sản cũng có thể tự bản thân nó gây ra tổn hại cho người khác ví dụ như nhà, công trình xây dựng bị sụt; cây cối bị đổ, gẫy; súc vật cắn, húc người... Chính vì vậy, ngoài trách nhiệm BTTH do hành vi của con người gây ra thì pháp luật còn quy định về trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra. Trong BLDS 1995 cũng như 2005 không có quy định về khái niệm cũng như không có các quy định chung về trách nhiệm BTTH do tài sản gây mà chỉ quy định ở các trường hợp BTTH cụ thể. Qua khái niệm trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nói chung có thể hiểu trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi tài sản là nguyên nhân gây ra thiệt hại như hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, cây cối đổ gẫy gây ra thiệt hại, nhà công trình xây dựng bị sụt, đổ gây thiệt hại, gia súc gây thiệt hại... 1.2. Đặc điểm của Trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra 10 Là một loại trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nên trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra cũng mang những đặc điểm của trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nói chung. Tuy nhiên trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra nguyên nhân gây ra thiệt hại không phải là do hành vi của con người mà là do bản thân tài sản gây ra. Chính vì vậy, trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra còn có những nét đặc thù riêng: * Về điề u kiện phát sinh trá ch nhiê ̣m. Nếu như các điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nói chung bao gồm có 4 điều kiện là: (1) Có thiệt hại xảy ra; (2) Có hành vi trái pháp luật; (3) Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra; (4) Có lỗi của người gây thiệt hại thì các điều kiện xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ cần ba điều kiện sau đây: - Có thiệt hại thực tế xảy ra; - Có sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật; Có mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật và thiệt hại thực tế đã xảy ra. Sẽ là không hợp lý khi một đồ vật gây thiệt hại lại xét đến yếu tố hành vi. Thuật ngữ hành vi gây thiệt hại trái pháp luật chỉ đúng khi thiệt hại do con người – thực thể của quan hệ xã hội và là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự – gây ra. Vì vậy, trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do đồ vật gây ra chỉ cần xác định đúng sự kiện gây thiệt hại là nguyên nhân trực tiếp làm tổn thất tài sản thực tế, giữa chúng có mối quan hệ nhân – quả, thì chủ sở hữu tài sản phải là người chịu trách nhiệm bồi thường. Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do đồ vật gây ra , yếu tố lỗi dường như không được xem xét đến. Theo quan niệm truyền thống yếu tố lỗi chỉ được xem xét khi gắn với một chủ thể xác định. Vì vậy, người ta cho rằng gắn lỗi cho đồ vật khi chúng gây thiệt hại là không thể xảy ra. Tuy nhiên, theo nguyên tắc chung, lỗi trong dân sự là lỗi suy đoán cho nên trong trường hợp tài sản gây ra thiệt hại, chủ sở hữu tài sản luôn bị coi là có lỗi. Nếu chủ sở hữu chứng minh được mình không có lỗi cũng sẽ không phải chịu trách nhiệm BTTH ví dụ như trong trường hợp bất khả kháng. Lỗi của chủ sở hữu trong trường hợp này được hiểu là chủ sở hữu quản lý không tốt hoặc không đúng quy trình … để đồ vật gây thiệt hại. Trong trường hợp đặc biệt nếu pháp luật quy định phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi thì chủ sở hữu hoặc chủ thể khác chứng minh được mình không có lỗi vẫn phải BTTH do 11 tài sản gây ra như trong trường hợp BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Điều 623), BTTH do làm ô nhiễm môi trường (Điều 624)... * Về chủ thể chi ̣u trá ch nhiê ̣m dân sự do tài sản gây ra. Trong thực tế , nhiều trường hợp sự kiện gây thiê ̣t hại củ a đồ vật diễn ra trong một quá trình và có thể nói là không liên quan gì đến trạng thái tâm lý hay nhận thức của chủ sở hữ u. Nó i cá ch khá c sự kiê ̣n gây thiê ̣t ha ̣i của đồ vâ ̣t nằ m ngoà i mong muố n cũng như sự kiể m soá t củ a chủ sở hữ u. Để nâng cao trá ch nhiệm củ a chủ sở hữu trong chiếm hữu, sử dụng tà i sản và theo nguyên tắ c công bằ ng thông thường thì chủ sở hữu của tài sản phải chiu trá ch nhiệm bồ i thường thiê ̣t ha ̣i do tài sản thuộc ̣ sở hữ u hoă ̣c quyề n quả n lý củ a mình gây ra. Việc xác định chủ thể trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra cũng có những điểm khác biệt. Nếu xác định chính xác chủ sở hữu đối với tài sản, thì chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi thường là công bằng và hợp lý. Nhưng sẽ rất phức tạp nếu “người đó’ chỉ có quyền quản lý mà không phải là chủ sở hữu. Chẳng hạn, việc quản lý cây cối của công ty công viên và cây xanh. Thực tế đã có những thiệt hại loại này xảy ra, nhưng việc quy kết trách nhiệm cho chủ thể phải bồi thường là rất phức tạp. Không ít trường hợp có thiệt hại xảy ra nhưng không quy kết được trách nhiệm bồi thường cho ai! Trong những trường hợp này đương nhiên chủ thể bị thiệt hại phải chịu thiệt thòi. Vì vậy, để bảo đảm sự công bằng, cần xác định theo tiêu chí sau: - Tài sản đó xác định rõ chủ sở hữu và chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm hữu, thì chủ sở hữu phải bồi thường. - Nếu đồ vật được chủ sở hữu chuyển giao cho người khác quyền chiếm hữu, sử dụng (thông qua hợp đồng thuê tài sản, thuê khoán…) theo ý chí của chủ sở hữu cần xác định: Nếu có lỗi của người chiếm hữu, sử dụng, thì người chiếm hữu sử dụng có trách nhiệm bồi thường; nếu người chiếm hữu, sử dụng không có lỗi mà thiệt hại do chính đồ vật gây ra (mà người sử dụng không thể biết và luật cũng không buộc phải biết) như đổ nhà, sập trần, xe ô tô bị bất ngờ gẫy khung xe… thì chủ sở hữu phải bồi thường. - Chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu giao trách nhiệm quản lý, thì những người này có trách nhiệm bồi thường. Trong trường hợp này cần quy định là trách nhiệm liên đới để bảo đảm việc khắc phục được nhanh chóng, bảo đảm lợi ích cho người bị thiệt hại. 12 Cần lưu ý rằng, Điều 626 và Điều 627 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định hai trường hợp không phải bồi thường là: thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng. Đây cũng là một thực tế rất phức tạp, vì rằng nếu vì sự vô ý của chủ sở hữu hoặc của người được giao quản lý thì cũng rất khó quy kết trách nhiệm bồi thường. Ví dụ: cây bị mục rễ tự nhiên đổ không phải do bão, lụt (là những sự kiện bất khả kháng thông thường); hoặc có những công trình công cộng lâu năm mà sức bền vật liệu hoặc thời hạn sử dụng đã hết… tự nhiên đổ, thì cũng rất khó khăn khi xác định trách nhiệm. Nên chăng, cần có quy định về trách nhiệm kiểm tra tài sản định kỳ nhằm phòng tránh rủi ro cho những người xung quanh. Đối với trường hợp tài sản thuộc sở hữu Nhà nước như cây cối trong rừng, thú dữ, động vật khác gây thiệt hại thì lại có những đặc thù riêng. Do Nhà nước là một chủ thể đặc biệt có rất nhiều đặc quyền và có thể được miễn trừ trách nhiệm nên theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, Nhà nước mới chỉ chịu trách nhiệm BTTH do hành vi của cán bộ, công chức Nhà nước gây ra. Mặc dù Luật Bồi thường Nhà nước đang được xây dựng và sắp được Quốc hội thông qua nhưng trong phạm vi điều chỉnh của Luật này cũng loại trừ trách nhiệm của Nhà nước đối với trường hợp tài sản của Nhà nước gây ra thiệt hại. Do đó, trong trường hợp tài sản của Nhà nước gây ra thiệt hại thì Nhà nước chỉ hỗ trợ cho người bị thiệt hại mà không phát sinh trách nhiệm BTTH và người bị thiệt hại sẽ phải gánh chịu một rủi ro. *Về năng lực chịu trách nhiệm. Theo quy định tại Điều 606 BLDS về năng lực chịu trách nhiệm của cá nhân thì: Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường; Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình. 13 Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường. Theo quy định trên thì người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại thì có thể cha, mẹ hoặc người giám hộ phải chịu trách nhiệm BTTH. Tuy nhiên, quy định này chỉ có thể áp dụng đối với trường hợp thiệt hại là do hành vi của con người gây ra còn nếu thiệt hại là do tài sản gây ra thì nguyên tắc này không thể được áp dụng bởi lẽ cha mẹ chỉ có thể bị suy đoán là có lỗi trong việc giáo dục, quản lý con cái để con cái có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại cho người khác. Còn trong trường hợp tài sản gây ra thiệt hại, chủ sở hữu của tài sản vẫn là người chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi dân sự và cha mẹ không bị coi là có lỗi nếu tài sản đang do người khác quản lý. Hơn nữa, trách nhiệm dân sự là trách nhiệm về tài sản và người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Do đó chủ thể chịu trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra phải là chủ sở hữu của tài sản đó hoặc người đang chiếm hữu, quản lý tài sản chứ không thể là cha mẹ hoặc người giám hộ. Nếu cha, mẹ, người giám hộ cũng là người quản lý tài sản thì họ cũng có thể là người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Mặc dù người chưa thành niên và người mất năng lực hành vi dân sự không có năng lực tố tụng nhưng người đại diện của họ có thể tham gia còn trách nhiệm vẫn phải thuộc về những người này và họ phải bồi thường bằng tài sản của chính họ. Và nếu tài sản của họ không đủ để bồi thường thì cha, mẹ, người giám hộ cũng không phải thực hiện thay. + Về đối tượng bị xâm phạm. Nếu đối tượng bị xâm phạm trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung có thể là sức khoẻ, tính mạng, tài sản danh dự, nhân phẩm, uy tín, thì đối tượng bị xâm phạm trong trách nhiệm bồi thường do tài sản gây ra chỉ bao gồm thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe,còn thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín không thuộc phạm vi tác động gây thiệt hại của tài sản. Điều này được lý giải theo hướng, danh dự, nhân phẩm, uy tín là những giá trị nhân thân gắn liền với từng cá nhân và danh dự, uy tín gắn liền với từng tổ chức nhất định. Trong trường hợp bị xâm phạm đến các giá trị kể trên thường được thông qua hành vi của con người dưới dạng hành động ( như thông qua lời nói, chữ viết, hành vi cụ thể) trong sự tác động của quá trình nhận thức cũng như ý thức tôn 14 trọng các quyền tuyệt đối này và ý thức chấp hành pháp luật của con người. Tuy nhiên. việc xâm phạm các lợi ích này có thể dẫn đến tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại hay thân nhân của họ, nhưng điều này không đồng nghĩa với việc xác định đối tương bị xâm hại trong trường hợp tài sản gây thiệt hại lại là danh dự, nhân phẩm, uy tín 2. Lược sử qui định của pháp luật về trách nhiệm BTTH do tài sản gây thiệt hại. Sự phát triẻn của pháp luật dân sự nói chung và pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói riêng gắn liền với lịch sử truyèn thống đạo đức, gắn liền với nền văn hoá dân tộc và với quá trình phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của dân tộc Việt Nam. Qua sử liệu cho thấy, trước thời nhà Lê, xã hội Việt Nam đã trải qua các thời kì: nhà Đinh (967-1909); nhà Lý (1010-1225); nhà Trần (1226-1399); nhà Hồ (1400-1406). Việc nghiên cứu cũng như khảo cổ luật của Việt Nam gặp khó khăn trong việc tìm kiếm tài liệu, các bộ luật chẳng hạn như Bộ luật Hình thư của nhà Lý, Bộ luật Hình thư của nhà Trần cùng một số văn bản pháp luật quý báu khác bị thất lạc. Các tài liệu chính để nghiên cứu các vấn đề pháp luật nói chung và các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã bị mất. Từ thế kỉ thứ XV, để nghiên cứu về pháp luật ở các triều đại này, các nhà nghiên cứu đã phải sử dụng các tài liệu gián tiếp của các tác giả như Phan Huy Chú, Ngô Sỹ Liên, Lê Quý Đôn, Hoàng Xuân Hoãn...song những tài liệu này không đủ cơ sở để phân tích đánh giá cho một kết luận chính xác nào về một vấn đề cụ thể, trong đó có những quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại. 2.1. Trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra theo Luật Hồng Đức Trong Luật Hồng Đức tại chương tạp luật có các qui định về bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra, như trộm cắp, đánh người và các qui định về trách nhiệm bồi thường do tài sản gây ra. Điều 568 Luật Hồng Đức qui định: “Khi có việc xây dựng hoặc phá huỷ gì mà phòng bị không cẩn thận để đến lỗi xảy ra chết người thì bị xử biếm một tư và chịu tiền mai táng 5 quan, còn thợ thuyền, chủ ty thì hình quan sẽ xem xét lỗi vì ai xảy ra mà định tội.” Khi xây dựng nhà ở, công trình xây dựng thì chủ sở hữu phải chuẩn bị các điều kiện cần thiết đảm bảo an toàn trong xây dựng và có biện pháp đề phòng các trường hợp có thể gây thiệt hại cho tài sản, tính mạng sức khoẻ của người khác. Tuy 15 nhiên, nếu xây dựng hoặc phá huỷ công trình xây dựng mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu phải bồi thường. Trường hợp này có hai khả năng xảy ra, thứ nhất khi xây dựng hoặc phá huỷ công trình mà người trực tiếp làm công việc đó có lỗi để gây ra thiệt hại. Thứ hai, do người chủ không cẩn thận trong việc ngăn ngừa thiệt hại để cho công trình xây dựng gây thiệt hại đẫn đến chết người, trường hợp này lỗi của chủ sở hữu là gián tiếp cho nên chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại, đây là trách nhiệm do tài sản gây ra. Cơ sở của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp trên là lỗi vô ý của chủ sở hữu hoặc lỗi của người trực tiếp xây dựng, của người nhận thầu công trình và hậu quả là chết người. Mặc dù lỗi của ai nũa thì suy đoán cũng là lỗi của chủ sở hữu vì người xây dựng là người làm thuê hoặc làm giúp cho chủ sở hữu, cho nên công việc xây dựng hoặc phá dỡ là của chủ sở hữu, vì vậy chủ sở hữu công trình và phải bồi thường. Nếu chủ sở hữu có lỗi vô ý vì cẩu thả “không cẩn thận” sẽ bị xử tội biếm và phải bồi thường tiền mai táng cho nạn nhân là 5 quan tiền. Khi xây dựng, phá dỡ công trình, việc gây thiệt hại có thể do thợ xây hoặc người tháo dỡ công trình xây dựng bất cẩn để xảy ra thiệt hại, trước hết chủ sở hữu phải bồi thường. Nếu những người trực tiếp thực hiên việc xây dựng, phá dở có lỗi, thì tuỳ theo mức độ vi phạm sẽ bị hình phạt tương xứng. Ngoài các công trình xây dựng gây thiệt hại, pháp luật còn qui định các trường hợp do súc vật gây ra thiệt hại. Điều 581 Luật Hồng Đức qui định:“ Người thả trâu ngựa cho dày xéo, ăn lúa, dâu của người ta thì xử phạt 80 trượng và đền sự thiệt hại. Nếu cố ý thả cho dày xéo thì biếm một tư và đền gấp đôi sự thiệt hại. Nếu trâu ngựa lồng lên không kìm hãm được thì được miễn tội trượng”. Theo qui định trên, người trực tiếp quản lý trâu, ngựa mà vô ý như chăn dắt trâu ngựa trông coi không cẩn thận để trâu, ngựa phá hoại hoa mầu, mùa màng thì bị phạt 80 trượng và phải đền bù toàn bộ thiệt hại. Trường hợp cố ý cho trâu, ngựa phá hoại mùa màng, hoa mầu thường là những hành vi mang tính trả thù. Trường hợp này, việc phá hoại mùa màng không những vi phạm trật tự an ninh xã hội mà còn làm ảnh hưởng đến vấn đề an ninh lương thực của chủ sở hữu, cho nên pháp luật áp dụng các chế tài nghiêm khắc đối với người vi phạm. Nếu do bản tính hung dữ, trâu, ngưạ lồng lên mà người chăn dắt không kìm hãm được việc phá hoại của trâu, ngựa thì chủ sở hữu không có lỗi trong việc trông coi, cho nên không phải chịu trách nhiêm hình sự, tuy nhiên về trách nhiệm dân sự vẫn phải bồi thường thiệt hại. 16 Trâu, ngựa là loại súc vật to lớn giúp con người trong sản xuất kinh doanh, vì vậy người nông dân thường phải lựa chọn những con súc vật này có tính hiến lành, không hung dữ, như thế mới có thể điều khiển được chúng. Tuy nhiên, có những trường hợp trâu, ngựa phá hoại mùa màng là do hành vi bất cẩn của con người hoặc do hành vi cố ý sử dụng trâu, ngựa làm phương tiên, công cụ để phá hoại mùa màng của người khác, cho nên chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự. Trong thực tiễn phát triển chăn nuôi gia súc gia cầm, có trường hợp những con súc vật có tính hung ác luôn đe doạ gây thiệt hại, vì vậy chủ sở hữu phải có các biện pháp ngăn chặn không cho súc vật gây thiệt hại tài sản, tính mạng, sức khoẻ của người khác. Điều 582 Luật Hông Đức qui định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc hung dữ vật gây ra như sau: “ Súc vật và chó có tính hay húc, đã và cắn người mà làm hiệu buộc ròng không đúng phép (đúng phép là con vật hay húc người thì phải cắt hai sừng, đá người thì buộc hai chân, cắn người thì phải cắt hai tai) hay chó dại mà không giết thì đều xử phạt 60 trượng”. Đối với súc vật có tình hung ác, thì chủ sở hữu phải có các biện pháp trông giữ theo qui định của pháp luật như trâu, bò hay húc thì phải cắt hai sừng, vì sừng là “vũ khí” nguy hiểm đẻ tấn công con người hay súc vật khác, nếu cắt bỏ thì khả năng gây thiệt hại không còn. Nếu ngựa hay đá người thì phải buộc rằng hai chân trước và sau sao cho có thể đi lại được bình thường nhưng không thể co chân đá người khác và có nghĩa là nếu co hai chân sau lên cùng đá thì con ngựa sẽ bị ngã, cho nên không thể gây ra thiệt hại. Đối với chó hay cắn người thì cắt hai tai, đây là biện pháp trừng phạt theo cách thức dân gian có hiệu quả. Chó phát hiện ra con người từ hướng nào và chuẩn bị tấn công người hướng đó là do thính giác, vì thế chó bị cắt hai tai sẽ không phát hiện ra tiếng động từ phía nào, cho nên nó không chủ động tấn công con người. Đối với chó dại là nguồn nguy hiểm cho bất cứ ai, nếu không giết ngay sẽ gây nguy hiểm về tính mạng cho người khác, vì thế chủ sở hữu phải giết chó dại ngăn ngừa chó căn người, nhưng chủ sở hữu không thực hiện việc phòng ngừa đó, cho nên phải chịu hình phạt là 60 trượng. Súc vật không những gây thiệt hại về tài sản, tính mạng sức khoẻ cho con người, mà còn gây thiệt hại cho những con súc vật cùng loại khác như trâu bò đánh 17 nhau. Đặc biệt trâu mộng là con vật luôn thể hiện mình có sức mạnh nhất mà con khác phải coi chừng và phải nhường lãnh địa kiếm ăn, vì thế, do bản tính kình địch thủ, cho nên chúng hay đánh nhau đến chết, do vậy, nếu xảy ra hai trâu đánh nhau dẫn đến hậu quả một con chết thì được xử lý theo qui định tại Điều 586 LHĐ: “Trâu của hai nhà đánh nhau, con nào chết thì hai nhà cùng ăn thịt, còn sống hai nhà cùng cầy. Trái luật xử phạt 80 trượng”. Con trâu là đầu cơ nghiệp của một gia đình nông dân, điều này vẫn còn phù hợp đến ngày nay ở nông thôn vùng sâu, vùng xa, nếu không có trâu cày, kéo thì ảnh hưởng đến kinh tế của gia đình người nông dân, vì vậy Luật Hồng Đức qui định là nếu hai con trâu đánh nhau mà một con chết thì con chết chia đôi cho mỗi chủ sở hữu một nửa và con còn sống thuộc sở hữu chung của hai nhà. Qui định này nhằm đảm bảo cho hai gia đình đều có trâu để cầy, kéo phục vụ sản xuất nông nghiệp của mỗi gia đình. Qua những điều luật trên, Luật Hồng Đức đã qui định tương đối đầy đủ trách nhiệm dân sự của chủ sở hữu khi các loại tài sản của mình gây thiệt hại cho người khác. Điều này chứng tỏ các nhà làm luật đã dự liệu được các trường hợp tài sản có thể gây ra thiệt hại và thể hiện cái nhìn tương đối toàn diện về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội đương thời. 2.2. Trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra theo Luật Gia Long Những thành quả của Luật Hồng Đức đã không được kế thừa trong luật của nhà Nguyễn. Vấn đề này do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chính là do nhà Nguyễn bị ảnh hưởng, phụ thuộc nhiều vào chế độ phong kiến phương Bắc, cho nên trong Hoàng Việt Luật lệ (Luật Gia Long), cấu trúc của Luật Gia Long hoàn toàn khác so với Luật Hồng Đức. Trong chế định bồi thường thiệt hại thì các qui định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra không có qui định cụ thể mà chủ yếu qui định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi con người gây ra (quyển 6 Hộ luật). Trong quyển 6, chủ yếu qui định về các hành vi gây thiệt hại về tài sản của Vua hoặc quan lại triều đình mà không có qui định về bồi thường thiệt hại tài sản của công dân. Điều này có thể được giải thích là trong xã hội nhà Nguyễn pháp luật bảo vệ tuyệt đối quyền lợi của giai cấp thống trị nhằm củng cố địa vị của giai cấp thống trị đối với nhân dân lao động. 2.3. Trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra theo quy định của các Bộ Dân luật 18 Sau khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, quốc mẫu Pháp đã thi hành chế độ bảo hộ đối với Việt Nam và các nước Đông Dương, vì vậy các bộ luật dân sự của nước ta thời kỳ pháp thuộc do nhà nước Pháp ban hành bằng tiếng pháp và được dịch ra tiếng Việt. Các bộ luật này dựa theo Bộ luật dân sự của NAPOLEON nhưng có điều chỉnh phù hợp với điều kiện chính trị kinh tế, xã hội ở Việt Nam. Chế định bồi thường thiệt hại trong Bộ Dân luât Bắc Kỳ (DLBK) và Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật (DLTK) được chia thành trách nhiệm dân sự theo hợp đồng và ngoài hợp đồng. Đối với trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, nguyên tắc chung để xác định trách nhiệm dân sự được qui đinh tại Điều 711(DLBK) và Điều 763 (DLTK): “Người ta phải chịu trách nhiệm không những tổn hại tự mình làm ra mà cả về sự tổn hại do những người mà mình phải bảo lãnh hay do những vật mình phải trông coi nữa. Phàm vật vô hồn mà làm nên tổn hại. thì người trông coi vật ấy cho là có lỗi vào đó, không phân biệt vật đó có tay người động đến hay không, muốn phá sự phỏng đoán đó thì phải có bằng chứng trái lại mới được. Bấy nhiêu trường hợp như trên đều có trách nhiệm cả, trừ khi người chịu trách nhiệm đó có bằng chứng rằng cái việc sinh ra trách nhiệm ấy mình không thể ngăn cấm được”. Đoạn một điều luật trên qui định về nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự là người nào gây thiệt hại thì người đó phải bồi thường. Mặt khác nếu một người giám hộ (bảo lỉnh) người khác mà để người được giám hộ gây thiệt hại thì người giám hộ phải bồi thường thiệt hại, vì người giám hộ không thực hiện tốt nghĩa vụ giám hộ của mình nên phải chịu thay người được giám hộ. Ngoài ra đoạn một điều luật còn qui định trách nhiệm của người trông coi tài sản mà để tài sản gây thiệt hại thì phải bồi thường thiêt hại. Người trông coi tài sản có thể là chủ sở hữu, hoặc người được chủ sở hữu chuyển tài sản thông qua hợp đồng như gửi giữ…, người trông giữ không bảo quản, coi giữ cẩn thận để tài sản gây thiệt hại là do lỗi của người trông gữi, cho nên họ phải bồi thường thiệt hại. Đoạn hai điều luật qui định vật vô hồn là các vật như nhà ở, công trình xây dựng và các tài sản vô chi vô giác khác gây thiệt hại trong hai trường hợp: Thứ nhất, do người quản lý trông coi, sử dụng tài sản mà có lỗi vô ý, quản lý, trông coi hoặc khai thác sử dụng không cẩn thận để tài sản gây thiệt hại. Thứ hai là tài sản tự nó 19 gây thiệt hại mà không có hành vi tác động trực tiếp của người quản lý trông coi. Trường hợp này người quản lý tài sản có lỗi vô ý gián tiếp là không thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa có khả năng cho phép, cho nên để tài sản gây thiệt hại, vì vậy chủ sở hữu hoặc người quản lý trông coi tài sản phải bồi thường thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra không phải do lỗi của người quản lý tài sản mà do hành vi trái luật trực tiếp hoặc gián tiếp của người thứ ba thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại không phát sinh khi người quản lý, trông coi tài sản chúng minh được việc gây thiệt hại đó là bất khả kháng. Vì trường hợp này người quản lý không có lỗi trong việc trông coi tài sản, thiệt hại xảy ra nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người, cho nên họ không phải chịu trách nhiêm dân sự. Trách nhiệm dân sự về thiệt hại do súc vật gây ra được qui tại Điều 715 (DLBK) và Điều 766 (DLTK): “ Người chủ con vật hay người dùng nó, trong khi nuôi nó mà nó làm tổn hại sự gì phải chịu trách nhiệm dù khi đó mình có giữ nó hay nó trốn di mặc lòng”. Súc vật là những con gia súc nuôi trong nhà như trâu, bò, lợn, chó.. đây là những con thú dữ đã được thuần hoá, nhưng do bản năng hung dữ có thể xuất hiện bất cứ khi nào, vì vậy chủ sở hữu, người sử dụng súc vật phải có biện pháp trông coi cẩn thận, tuy nhiên có trường hợp chủ sở hữu đã áp dụng các biện pháp cho phép để trông giữ nhưng súc vật vẫn trốn khỏi sự kiểm soát của chủ sở hữu hoặc người sử dụng nó và gây thiệt hại cho người khác. Súc vật gây thiệt hại có thể do hành vi bất cẩn của người quản lý nó hoặc do người quản lý đã không lường hết được các khả năng sẽ gây thiệt hại thì những trường hợp này suy đoán là ngươì quản lý có lỗi trong việc trông coi, quản lý súc vật để nó gây thiệt hại, vì thế chủ sở hữu hoặc người quản lý sử dụng súc vật phải bồi thường thiệt hại. Tài sản lớn có giá trị của cá nhân là nhà ở, tài sản này có thể gây thiệt hại do hành vi vô ý của chủ nhà thể hiện trong Điều 716 (DLBK) và Điều 767 (DLTK) như sau: “ Người chủ nhà mà nhà đổ nát làm thiệt hại cho người ta vì không chụi tu bổ hay vì làm không chắc chắn phải chịui trách nhiệm về sự tổn hại đó”. Khi nhà ở bị đổ gây thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khoẻ cho người khác cần xem xét lỗi của chủ nhà trong việc tu bổ, sửa chữa thường xuyên những hư hỏng thông thường. Nếu chủ nhà cố ý hoặc vô ý không tu bổ hư hỏng mà để gây thiệt hại thì đây là hành vi vô ý của chủ nhà. Trường hợp nhà đổ do xây dựng không đảm bảo 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan