Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng trong việc cung cấp thông tin về chất lượ...

Tài liệu Trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng trong việc cung cấp thông tin về chất lượng hàng hóa cho người tiêu dùng

.PDF
165
423
149

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ HẢI NGỌC TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ SẢN XUẤT, CUNG ỨNG TRONG VIỆC CUNG CẤP THÔNG TIN VỀ CHẤT LƯỢNG HÀNG HÓA CHO NGƯỜI TIÊU DÙNG Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ Mã số : 62.38.01.07 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. LÊ HỒNG HẠNH HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Mọi số liệu, dẫn chứng trong luận án là trung thực và được chú thích nguồn đầy đủ. Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2017 Nghiên cứu sinh Lê Thị Hải Ngọc MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................8 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ......................................8 1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu .............................................................................21 Kết luận chương 1 ....................................................................................................23 Chương 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ SẢN XUẤT, CUNG ỨNG TRONG VIỆC CUNG CẤP THÔNG TIN VỀ CHẤT LƯỢNG HÀNG HÓA CHO NGƯỜI TIÊU DÙNG ...............................25 2.1. Khái quát về trách nhiệm cung cấp thông tin chất lượng hàng hóa của nhà sản xuất, cung ứng trong điều kiện kinh tế thị trường ....................................25 2.2. Trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng trong việc cung cấp thông tin chất lượng hàng hóa cho người tiêu dùng theo quy định của pháp luật .................47 2.3. Pháp luật của một số nước trên thế giới về trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng trong việc cung cấp thông tin về chất lượng hàng hóa cho người tiêu dùng .........................................................................................................63 Kết luận chương 2 ....................................................................................................73 Chương 3. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ SẢN XUẤT, CUNG ỨNG TRONG VIỆC CUNG CẤP THÔNG TIN VỀ CHẤT LƯỢNG HÀNG HÓA CHO NGƯỜI TIÊU DÙNG ..........75 3.1. Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng trong việc cung cấp thông tin về chất lượng hàng hóa cho người tiêu dùng ...................75 3.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng trong việc cung cấp thông tin về chất lượng hàng hóa cho người tiêu dùng .........103 3.3. Một số nhận xét đối với pháp luật về trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng trong việc cung cấp thông tin chất lượng hàng hóa cho người tiêu dùng ở Việt Nam .......................................................................................................115 Kết luận chương 3 ..................................................................................................129 Chương 4. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ SẢN XUẤT, CUNG ỨNG TRONG VIỆC CUNG CẤP THÔNG TIN VỀ CHẤT LƯỢNG HÀNG HÓA CHO NGƯỜI TIÊU DÙNG .......................................................................130 4.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về trách nhiệm nhà sản xuất, cung ứng trong việc cung cấp thông tin về chất lượng hàng hóa cho người tiêu dùng ............................................................130 4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng trong việc cung cấp thông tin về chất lượng hàng hóa cho người tiêu dùng ........................................................................132 Kết luận chương 4 ..................................................................................................147 KẾT LUẬN ............................................................................................................149 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BVQLNTD Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng BLDS Bộ luật Dân sự năm 2005 CLHH Chất lượng hàng hóa Luật BVQLNTD Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 Luật CLSPHH Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2008 NSX, CUHH Nhà sản xuất, cung ứng hàng hóa NSX, CU Nhà sản xuất, cung ứng NTD Người tiêu dùng ISO (International Organization Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế for Standardization) CI (Consumers International) Tổ chức Quốc tế Người tiêu dùng MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thông tin về chất lượng hàng hóa là một trong những yếu tố quan trọng, thu hút sự quan tâm nhất đối với người tiêu dùng khi mua và sử dụng hàng hóa. Bởi vì, nó định hướng cho người tiêu dùng trong việc quyết định lựa chọn và sử dụng hàng hóa phù hợp với nhu cầu, điều kiện của mình. Vấn đề là, muốn biết được những thông tin này, người tiêu dùng phải thông qua sự cung cấp của nhà sản xuất, cung ứng. Bởi chỉ có họ (chứ không thể là ai khác) mới biết được cụ thể, đầy đủ và chính xác nhất thông tin về chất lượng hàng hóa mà mình sản xuất, cung cấp ra thị trường. Thực tế hiện nay, quyền thông tin của người tiêu dùng đang bị xâm hại nghiêm trọng dưới nhiều hình thức và thủ đoạn tinh vi khác nhau, như: thông tin sai về xuất xứ hàng hóa qua việc “phù phép hàng nội thành hàng ngoại”; tự ý biến đổi chất lượng hàng hóa bằng cách ghi sai hàm lượng dinh dưỡng; quảng cáo, giới thiệu thổi phồng chức năng, công dụng hàng hóa; ghi sai nhãn mác; tẩy xóa nhãn mác về hạn sử dụng để lừa dối người tiêu dùng... Đặc biệt phổ biến nhất hiện nay là trong lĩnh vực an toàn thực phẩm. Đó là việc sử dụng các chất cấm độc hại trong bảo quản, chế biến thực phẩm và trong sản xuất nông nghiệp gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, tính mạng người tiêu dùng. Theo thông tin tại hội thảo khoa học "Ung bướu quốc gia" lần thứ VII, trung bình mỗi năm ở Việt Nam có 75.000 người Việt chết mỗi năm vì ăn toàn đồ bẩn [80]. Các loại thực phẩm mà người tiêu dùng sử dụng hàng ngày đều được quảng cáo, giới thiệu là “an toàn”, “sạch”, “bảo đảm chất lượng”... nhưng thực tế hầu như người tiêu dùng đều bị nhà sản xuất, cung ứng lừa dối. Vì hiện nay, bữa cơm hàng ngày, thức ăn gì ít nhiều cũng có chất độc hại, nên nguy cơ ung thư vì thực phẩm bẩn là rất cao. Cụ thể: Gạo (sử dụng bột tẩy trắng (bột bezoyl peroxide và calcium peroxide, loại bột này dùng quá liều sẽ gây ra hiện tượng rối loạn tiêu hóa, gây tử vong) và chất chống mốc (deltamethrin chuyên sử dụng diệt côn trùng và khử trùng); Thịt (sử dụng thịt thối thành thịt tươi nhờ bột săm pết - một hóa chất độc hại được sử dụng để tẩy rửa thực phẩm ôi thiu thành tươi mới); Gà (trộn hormon tăng trọng, tiêm thuốc kích thích tạo trứng vào gà); 1 Tôm (bơm thuốc kháng sinh gây độc); Rau củ (dùng thuốc trừ sâu dùng để bón cho rau muống mập cọng, sáng cọng, không bị sâu, lỗ lá [80]. Thực trạng này cho thấy, hiện nay “Người tiêu dùng Việt Nam đang phải sống trong một môi trường không an toàn, quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm nghiêm trọng” [81]. Thực tế này đặt ra trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng trong việc cung cấp thông tin chất lượng hàng hóa cho người tiêu dùng. Bên cạnh đó là trách nhiệm của các cơ quan quản lí nhà nước, các tổ chức xã hội đối với quyền lợi của người tiêu dùng. Trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng trong việc cung cấp thông tin về chất lượng hàng hóa được ghi nhận trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 và các văn bản pháp luật chuyên ngành (như Luật trách nhiệm sản phẩm 2008, Luật An toàn thực phẩm 2012, Luật Quảng cáo 2005, Luật Cạnh tranh 2004...). Pháp luật hiện hành về trách nhiệm cung cấp thông tin của nhà sản xuất, cung ứng về chất lượng hàng hóa ở Việt Nam nói chung đã tạo hành lang pháp lý nhằm khắc phục tình trạng “bất cân xứng” về thông tin giữa nhà sản xuất, cung ứng và người tiêu dùng; đồng thời, duy trì và thúc đẩy mối quan hệ giữa người tiêu dùng và nhà sản xuất, cung ứng hài hòa ổn định góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, pháp luật hiện hành chưa thực sự là một công cụ bảo vệ tốt nhất quyền được thông tin về chất lượng hàng hóa của người tiêu dùng (các quy phạm pháp luật còn nằm rải rác ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau; còn nội dung thì còn thiếu; một số qui định còn trùng lặp, mâu thuẫn, một số qui định còn chung chung, thiếu tính khả thi); Do vậy, việc nâng cao “chất lượng” của pháp luật hiện hành về trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng cung cấp thông tin về chất lượng hàng hóa nhằm bảo vệ hữu hiệu quyền được thông tin của người tiêu dùng là nhu cầu cấp bách đặt ra hiện nay. Xuất phát từ lí do đó, việc tác giả nghiên cứu chuyên sâu về “Trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng trong việc cung cấp thông tin về chất lượng hàng hóa cho người tiêu dùng” là có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. 2 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận án làm sáng tỏ cơ sở lý luận về trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng (NSX, CU) cung cấp thông tin về chất lượng hàng hóa (CLHH) cho người tiêu dùng (NTD); đề xuất những định hướng và giải pháp thích hợp cho việc hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của NSX, CU trong việc cung cấp thông tin về CLHH và thực thi có hiệu quả các quy định pháp luật về trách nhiệm của NSX, CU ở Việt Nam. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định như sau: Nghiên cứu có hệ thống nhằm làm rõ cơ sở lý luận về trách nhiệm của NSX, CU trong việc cung cấp thông tin CLHH cho NTD; Nghiên cứu và phân tích hệ thống pháp luật về trách nhiệm của NSX, CU trong việc cung cấp thông tin về CLHH cho NTD; Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về trách nhiệm của NSX, CU cung cấp thông tin CLHH cho NTD ở Việt Nam; Trên cơ sở đó, đưa ra những định hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về trách nhiệm của NSX, CU cung cấp thông tin về CLHH cho NTD. 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm của NSX, CU trong việc cung cấp thông tin về CLHH cho NTD; Các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về trách nhiệm của NSX, CU trong việc cung cấp thông tin về CLHH; Các đánh giá, tổng kết về tình hình thi hành pháp luật; từ đó đưa ra những định hướng và giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về trách nhiệm của NSX, CU cung cấp thông tin về CLHH cho NTD. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Trách nhiệm của NSX, CU cung cấp thông tin về CLHH cho NTD là một vấn đề tương đối rộng, Tuy nhiên, như mục đích và phạm vi nghiên cứu được trình bày ở trên, trọng tâm nghiên cứu của luận án là những vấn đề mang tính lý luận và thực 3 tiễn áp dụng. - Về lý luận: Luận án tập trung nghiên cứu về trách nhiệm của NSX, CU trong việc cung cấp thông tin CLHH cho NTD. Trách nhiệm trong luận án đề cập là trách nhiệm pháp lý (chứ không phải trách nhiệm xã hội). Thông tin về hàng hóa rất đa dạng và phong phú, song luận án chỉ đề cập đến thông tin về chất lượng hàng hóa (chứ không phải thông tin về hàng hóa nói chung). - Về thực tiễn, luận án chủ yếu tập trung vào nghiên cứu, đánh giá tính phù hợp, thống nhất và khả thi của các qui định pháp luật hiện hành về trách nhiệm của NSX, CU trong việc cung cấp thông tin về CLHH cho NTD. Trên cơ sở đó, dự báo những vấn đề pháp lý sẽ phát sinh và nhu cầu, định hướng hoàn thiện. Những nội dung liên quan đến thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật luận án cũng nghiên cứu nhưng giới hạn trong lãnh thổ Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: - Phương pháp luận: Luận án sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa MácLê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ các chương của luận án. Đây là phương pháp khoa học được vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ luận án để đánh giá khách quan sự hoàn thiện của pháp luật và hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm của NSX, CU trong việc cung cấp thông tin về CLHH cho NTD. - Phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp luật học, phương pháp quy nạp, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp thống kê được luận án sử dụng nghiên cứu làm rõ nội dung đề tài...Để hoàn thành mục đích nghiên cứu thì luận án có sự kết hợp giữa các phương pháp trong từng phần của luận án; trong đó, phương pháp phân tích và tổng hợp là những phương pháp được sử dụng nhiều nhất trong luận án. Cụ thể: Phương pháp hệ thống, phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp khi nghiên cứu Chương 1 để nghiên cứu tổng quan các công trình nghiên cứu lý 4 luận và thực tiễn về trách nhiệm của NSX, CU cung cấp thông tin về CLHH; xác định rõ những kết quả đã nghiên cứu được liên quan đến luận án kế thừa; Đồng thời, xác định những vấn đề liên quan đến đề tài mà các công trình nghiên cứu trước đó còn bỏ ngỏ cần phải nghiên cứu bổ sung, phát triển. Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp luật học so sánh, đối chiếu được sử dụng trong Chương 2 khi nghiên cứu một số vấn đề lý luận về trách nhiệm cung cấp thông tin CLHH và pháp luật về trách nhiệm của NSX, CU cung cấp thông tin CLHH ở Việt Nam và một số nước trên thế giới. Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh…được sử dụng trong Chương 3 để làm rõ thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về trách nhiệm của NSX, CU cung cấp thông tin CLHH. Phương pháp quy nạp, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp được sử dụng trong Chương 4 khi trình bày các định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm của NSX, CU cung cấp thông tin CLHH ở Việt Nam. 5. Những đóng góp mới của luận án Luận án có thể được coi là công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu pháp luật về trách nhiệm của NSX, CU cung cấp thông tin CLHH ở Việt Nam. Đặc biệt, cùng với việc nghiên cứu quy định của pháp luật nước ngoài, luận án sẽ đưa ra những phân tích, đề xuất có tính thực tiễn và ứng dụng cao nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về trách nhiệm của NSX, CU cung cấp thông tin CLHH ở Việt Nam. Thứ nhất, phân tích một cách có hệ thống các khái niệm: “Nhà sản xuất, cung ứng”, khái niệm “Trách nhiệm của NSX, CU”; “thông tin về CLHH”; làm rõ vai trò ý nghĩa của thông tin về CLHH; làm rõ trách nhiệm pháp ý của NSX, CU trong việc cung cấp thông tin về CLHH cho NTD; từ đó có thể giải quyết một cách thỏa đáng những vấn đề mang tính lý luận của pháp luật về trách nhiệm pháp lý của NSX, CU cung cấp thông tin về CLHH. Bên cạnh đó, luận án còn làm rõ nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với trách nhiệm của NSX, CU cung cấp thông tin về CLHH cho NTD; Thứ hai, phân tích và đánh giá một cách có hệ thống thực trạng pháp luật hiện 5 hành và thực tiễn thực hiện pháp luật của Việt Nam về trách nhiệm của NSX, CU cung cấp thông tin về CLHH; trên cơ sở đó, chỉ ra được những hạn chế, những bất cập cần sửa đổi, bổ sung của pháp luật sao cho phù hợp với đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay; Thứ ba, luận giải và đề xuất cụ thể các giải pháp nhằm đáp ứng được yêu cầu bảo vệ hữu hiệu NTD trong mối quan hệ “bất cân xứng” về thông tin với NSX, CU, khi mà quyền được thông tin của NTD bị xâm phạm nghiêm trọng dưới nhiều hình thức và thủ đoạn ngày càng tinh vi như hiện nay. Luận án đưa ra được các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của NSX, CU trong việc cung cấp thông tin về CLHH cho NTD ở Việt Nam. Những giải pháp này có được dựa trên sự phân tích, đánh giá một cách khoa học các qui định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm của NSX, CU trong việc cung cấp thông tin về CLHH cho NTD cũng như xu hướng tất yếu phải hoàn thiện pháp luật khi chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa khoa học Qua phân tích tình hình nghiên cứu pháp luật về trách nhiệm của NSX, CU trong việc cung cấp thông tin về CLHH cho NTD, có thể khẳng định rằng, luận án là một công trình nghiên cứu công phu, có hệ thống và khá toàn diện những vấn đề mang tính lý luận nền tảng để làm cơ sở xây dựng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về trách nhiệm của NSX, CU trong việc cung cấp thông tin về CLHH cho NTD. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Những đề xuất của luận án đưa ra là sự đóng góp không nhỏ trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của NSX, CU trong việc cung cấp thông tin về CLHH cho NTD; góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền được thông tin của NTD nói riêng và quyền lợi của NTD nói chung; Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy ở bậc đại học, sau đại học và là tư liệu tốt để các nhà làm luật nghiên cứu tham khảo trong quá trình xây dựng pháp luật về trách nhiệm của NSX, CU trong việc cung cấp thông tin về CLHH cho NTD. 6 7. Cơ cấu của luận án Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận án được kết cấu gồm 04 chương như sau: Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu; Chương 2: Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng trong việc cung cấp thông tin về chất lượng hàng hóa cho người tiêu dùng; Chương 3: Pháp luật Việt Nam và thực tiễn thi hành pháp luật về trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng trong việc cung cấp thông tin về chất lượng hàng hóa cho người tiêu dùng; Chương 4: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng trong việc cung cấp thông tin về chất lượng hàng hóa cho người tiêu dùng. 7 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 1.1.1. Các nghiên cứu lý luận về trách nhiệm của NSX, CU trong việc cung cấp thông tin về chất lượng hàng hóa cho NTD Trách nhiệm của NSX, CU cung cấp thông tin về CLHH đối với NTD là một nội dung quan trọng không chỉ trong giai đoạn trước khi NTD xác lập quan hệ tiêu dùng mà còn có ý nghĩa thiết thực trong suốt quá trình sử dụng hàng hóa. Nó đòi hỏi có sự minh bạch hóa về thông tin, hạn chế được những điều khoản gây hiểu nhầm, bất lợi và không công bằng cho NTD. Vấn đề này này là một trong những nội dung thu hút được nhiều sự quan tâm, nghiên cứu của các học giả trong nước và ngoài nước khi nghiên cứu về lĩnh vực bảo vệ quyền lợi NTD. Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp cận các tài liệu, sách báo, bài viết của các học giả trong và ngoài nước liên quan đến đề tài nghiên cứu, nghiên cứu sinh tổng quan tài liệu theo các vấn đề sau: - Các công trình nghiên cứu về thông tin, thông tin hàng hóa; qua đó khẳng định vai trò, ý nghĩa, sự cần thiết của thông tin, thông tin hàng hóa nói chung và thông tin về chất lượng hàng hóa nói riêng; Đồng thời xác định rõ quyền được tiếp cận thông tin là nhu cầu cơ bản và là quyền của con người. + Về thông tin, có công trình tiêu biểu “Khái niệm của thông tin và các giá trị làm nên thuộc tính của thông tin” của PGS.TS.NGUT. Đoàn Phan Tân (2001) [56]; Công trình “Sự phát triển của quyền tiếp cận thông tin trong pháp luật quốc tế và những vấn đề cơ bản cần quan tâm khi nghiên cứu Luật tiếp cận thông tin của tác giả Đỗ Đình Lương (2008) [42]. Trong đó, đáng chú ý là công trình “Sự phát triển của quyền tiếp cận thông tin trong pháp luật quốc tế và những vấn đề cơ bản cần quan tâm khi nghiên cứu Luật tiếp cận thông tin” của tác giả Đỗ Đình Lương (2008). Tác giả đã cho rằng, thông tin là một nhu cầu cần thiết đối với con người và đối với xã hội và quyền tiếp cận thông tin là một quyền cơ bản của con người được 8 thừa nhận rộng rãi trên thế giới. Tác giả đã phân tích và khẳng định về vai trò của thông tin không chỉ đối với NTD mà còn đối với cả NSX, CU. Qua đó, cần đảm bảo thông tin kịp thời và hiệu quả. + Về thông tin hàng hóa: Trong Giáo trình “Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” của Trường Đại học Luật Hà Nội (2012) thì thông tin là một trong những yếu tố mà NTD quan tâm nhất khi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ, là điều đặc biệt quan trọng trong giai đoạn trước khi NTD xác lập quan hệ tiêu dùng với nhà sản xuất, cung cấp hàng hóa; Trong công trình nghiên cứu “The effect of information on product quality - The evidence from restaurant hygiene grade cards”, Ginger Zhe Jin and Phillip Leslie đã phân tích tác động của thông tin đối với sự lựa chọn của khách hàng. Công trình này cung cấp một số vấn đề về thông tin về sản phẩm, thông tin về chất lượng sản phẩm. Trong nghiên cứu “Consumer information - Product quality and seller Reputation” Carl Shapiro nêu bật những tác động của thông tin không chính xác về sản phẩm và chất lượng sản phẩm đối với sự vận hành bình thường của thị trường. Tác giả của công trình này cũng đã phân tích các phương thức chuyển tải thông tin về chất lượng và sự lựa chọn của NTD đối với sản phẩm. Tuy nhiên, trong công trình này tác giả chưa đề cập đầy đủ trách nhiệm của nhà sản xuất, người bán đối với việc cung cấp thông tin không chính xác về chất lượng sản phẩm. Trong công trình “Information Quality Benchmarks: Product and Service Performance” nhóm các nhà nghiên cứu gồm Beverly K. Kahn, Diane M. Strong, and Richard Y. Wang đã phân tích các loại thông tin về sản phẩm mà mô hình tác động của các loại thông tin này đối với sự lựa chọn của người tiêu dùng và của cả những người sản xuất, bán hàng. Công trình của LGDJ, Lextenxio esdition, 2010,“Les nouveaux défis du droit des contrats: L'efficacité de la loi contre le commerce déloyal sur internet” (Những thách thức mới của pháp luật hợp đồng: hiệu quả của việc chống lại các hành vi thương mại không lành mạnh trên internet), chỉ rõ vai trò của thông tin về hàng hóa “Người tiêu dùng ở cách xa hàng hóa, dịch vụ mà mình muốn mua hoặc yêu cầu cung cấp. Do đó,họ chỉ có thể dựa vào những thông tin được cung cấp, đặc biệt là thông tin về các đặc tính cơ bản, tính sẵn có của hàng hóa, dịch vụ mình muốn mua 9 hoặc cung cấp. Họ cũng ở cách xa với bên giao kết kia và do đó, cũng chỉ có thể dựa vào các thông tin mà bên này cung cấp về danh tính, trụ sở hoạt động cũng như địa chỉ liên lạc của bên đó”. Bài của Phan Khánh An (2013) trong công trình“Vai trò của thông tin trong bảo vệ người tiêu dùng” [1] trong đó, nhấn mạnh vai trò thông tin của hàng hóa đối với NTD. Thông tin về hàng hóa giúp cho NTD có thể đưa ra một quyết định, một sự lựa chọn đúng đắn khi mua hoặc sử dụng hàng hóa. - Các công trình nghiên cứu về quyền được thông tin về hàng hóa và chất lượng hàng hóa của người tiêu dùng: Quyền được thông tin là quyền cơ bản của NTD. Đây là một quyền quan trọng trong hệ thống các quyền (08 quyền) của NTD. Theo đó, NTD phải được cung cấp những thông tin đầy đủ, chính xác và trung thực về CLHH. Quyền này còn bao gồm cả việc được bảo vệ chống lại các thủ đoạn dối trá, lừa đảo, các quảng cáo gian dối. Vấn đề này được nhiều công trình khoa học, bài báo đề cập như công trình về “Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về bảo đảm quyền của người tiêu dùng trong nền kinh tế thi trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” của Lê Thị Hồng Phúc và Tường Duy Kiên (2007) [52]; Công trình “Một số vấn đề lý luận xung quanh Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” của PGS.TS. Nguyễn Như Phát (2008) [49]... Trong số các công trình nghiên cứu, đáng chú ý là công trình“Pháp luật Việt Nam về quyền tiếp cận thông tin”của Nguyễn Xuân Anh (2008), Viện Khoa học hình sự pháp lí, Bộ Tư pháp đề cập trực tiếp tới vai trò thông tin. Tác giả cho rằng, chúng ta đang sống trong kỷ nguyên thông tin và thông tin có vai trò quan trọng trong đời sống. Thực tế chỉ ra rằng, thông tin đóng góp rất lớn trong quá trình phát triển nhân loại. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, chúng ta có thể tiếp cận thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, bằng nhiều phương tiện khác nhau và nhiều loại thông tin trên nhiều lĩnh vực, từ thông tin chính trị đến thông tin kinh tế về đất đai, môi trường, đầu tư; thông tin văn hóa. Trong công trình “Protéger les consommateurs dans le commerce électronique” (Bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử), của Soraya 10 AMRANI MEKKI (2010), GS trường ĐH Paris Ouest – Nanterre La défense; tác giả đã nêu ra tính đặc thù trong các giao kết hợp đồng từ xa qua mạng điện tử là hợp đồng giữa các bên vắng mặt. Trong hợp đồng này, NTD là một bên ở vào vị trí đặc biệt mong manh. Họ không được tiếp xúc trực tiếp sản phẩm, không thể đánh giá cụ thể sản phẩm, do vậy cần phải tăng cường thông tin cho NTD ở cách xa với bên giao kết kia và cả với hàng hóa mà họ muốn mua. Bài viết của Nguyễn thị Hòe (2007) về công trình “Bảo đảm quyền được cung cấp thông tin của người tiêu dùng nước ta hiện nay” [32] đã đề cập trực tiếp về vấn đề quyền được cung cấp thông tin của NTD. Tác giả đã nêu ra các quy định của pháp luật liên quan đến quyền được cung cấp thông tin trung thực, đầy đủ, chính xác về chất lượng, giá cả, phương pháp sử dụng hàng hóa, dịch vụ của NTD. Tác giả cũng nêu rõ việc vi phạm quyền này trên thực tế bởi sự thiếu trung thực, gian dối của các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh dưới các hình thức như: quảng cáo không trung thực, gian dối cũng như ghi nhãn hàng hóa không đúng với nguồn gốc, xuất xứ của hàng hóa... Trên cơ sở thực tế đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm bảo đảm quyền được cung cấp thông tin của NTD. - Các công trình nghiên cứu về trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng cung cấp thông tin cho NTD: Trách nhiệm của NSX, CU cung cấp thông tin hàng hóa là trách nhiệm quan trọng được pháp luật ghi nhận. Do đặc thù quan hệ của NSX, CU với NTD là quan hệ “bất cân xứng” về thông tin; trong đó, NTD luôn ở vị trí yếu thế trong quan hệ nên dẫn tới NTD thường bị thiệt thòi bởi các hành vi cung cấp thông tin sai lệch, gian dối. Tình trạng hàng giả, hàng không đảm bảo chất lượng và nhiều thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh khác trng thực tế đã xâm phạm nghiêm trọng quyền lợi của NTD. Để hạn chế những hành vi xâm hại tới quyền thông tin của NTD, cần phải cân bằng quyền thông tin của NSX, CU với NTD nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển lành mạnh, đảm bảo an toàn cho các quan hệ tiêu dùng. Trước yêu cầu đó, một số công trình khoa học đã nghiên cứu, đề cập tới trách nhiệm của NSX, CU trong việc cung cấp thông tin cho NTD. Các công trình đề cập 11 trách nhiệm này dưới nhiều góc độ khác nhau: trách nhiệm xã hội, trách nhiệm pháp lí. Trong trách nhiệm pháp lí, nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh, như: trách nhiệm liên quan tới chất lượng sản phẩm, hàng hóa; trách nhiệm qua liên quan tới hoạt động quảng cáo hàng hóa; hoạt động ghi nhãn hàng hóa... + Về trách nhiệm xã hội của nhà sản xuất, cung ứng: Hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu như: Công trình “Corporate social responsibility: key role of human resousre management”, Supan Sharma, Joiy Sharma, Arti Devi 2009; “Responsabilité sociale de l’entreprise. Pour un nouveau contrat social” của Ludovic Hennebel et Gregory Lewkowicz (2007), Ed. Bruylant 230 pages; “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” PGS.TS Nguyễn Như Phát (2011) [50];“Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với quyền con người”, Nguyễn Đức Minh (2010) [43]; “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam: Một số vấn đề thực tiễn và cấp bách”, Phạm Văn Đức (2008) [26]... Ở những khía cạnh khác nhau, tác giả để cập đến trách nhiệm của doanh nghiệp đối với chất lượng sản phẩm, đối với đảm bảo cho người tiêu dùng quyền được thông tin về chất lượng và an toàn sản phẩm. Trong số đó, có thể kể đến công trình tiêu biểu sau: “Canadian business and society Ethics & Ressponsibility”, Robert W. Sexty (2008) đề cập khá nhiều nội dung liên quan đến đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp như các khái niệm, tầm quan trọng, các cấp độ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp cũng như quy trình xây dựng và triển khai thực hiện trách nhiệm xã hội. + Trách nhiệm pháp lý của nhà sản xuất, cung ứng: Luận án Tiến sĩ của Chu Đức Nhuận (2012) về “Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa”, tác giả đã đưa ra khái niệm pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng phát sinh trên cơ sở sản phẩm, hàng hóa khuyết tật mà doanh nghiệp đã cung cấp, theo đó doanh nghiệp có trách nhiệm phòng ngừa các thiệt hại có thể xảy ra hoặc bồi thường khi sản phẩm, hàng hóa khuyết tật gây ra thiệt hại cho NTD không phụ thuộc vào lỗi của doanh nghiệp trong việc làm phát sinh khuyết tật [55, tr.12]. 12 Công trình khoa học “Quảng cáo dưới góc độ cạnh tranh” của Cục quản lý cạnh tranh (2008) do TS. Đinh Thị Mỹ Loan làm chủ nhiệm là một công trình nghiên cứu công phu trong đó, đề cập tới những vấn đề chung về quảng cáo cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường như: lịch sử hình thành quảng cáo, bản chất thông tin của hoạt động quảng cáo, vai trò của hoạt động quảng cáo; Nghiên cứu về pháp luật cạnh tranh điều chỉnh hoạt động quảng cáo của Việt Nam và một số nước trên thế giới: pháp luật Hoa kỳ, pháp luật Liên minh Châu Âu, pháp luật một số quốc gia và vùng lãnh thổ Châu Á [41]; Công trình của ThS. Lê Thị Hải Ngọc (2013), bài viết về “Trách nhiệm của cá nhân, tổ chức kinh doanh đối với người tiêu dùng trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa” [45] thì thông tin về hàng hóa nói chung là tập hợp tin tức về các thuộc tính của hàng hóa đó, được thể hiện dưới dạng chữ cái, từ ngữ, màu sắc, kí hiệu, hình ảnh…dùng để xác định hàng hóa đó và giúp khách hàng phân biệt giữa hàng hóa của các tổ chức, cá nhân khác nhau. NSX, CU phải có trách nhiệm cung cấp các thông tin về hàng hóa, như: các đặc tính của hàng hóa, nguồn gốc xuất xứ, tính năng công dụng, giá cả, bảo hành...Trách nhiệm này được pháp luật ghi nhận và yêu cầu các NSX, CU phải tuân thủ. 1.1.2. Các nghiên cứu thực tiễn về trách nhiệm của NSX, CU trong việc cung cấp thông tin về chất lượng hàng hóa cho NTD Hiện nay, có một số công trình, đề tài, bài viết có liên quan đến thực tiễn về trách nhiệm của NSX, CU trong việc cung cấp thông tin về chất lượng hàng hóa cho NTD. Các công trình này được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh như: thực tiễn về tuân thủ pháp luật về quảng cáo, về ghi nhãn, về áp dụng chế tài pháp luật đối với hành vi vi phạm cung cấp thông tin chất lượng hàng hóa. Trong số đó, có thể kể đến các công trình: “La répression de la concurrence déloyale dans les Etats membres de la CE của E.Ulmer et F-K.Beier (1997), Dalloz [69]; Công trình “Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Thị Thư (2013) [57]; Đề tài cấp Bộ “Quảng cáo dưới góc độ cạnh tranh” của Cục quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương) do TS Đinh Thị Mỹ 13 Loan chủ nhiệm (2008); “Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng”, Luận văn Thạc sĩ của Bùi thị Long (2007); Công trình “Pháp luật cạnh tranh Nhật Bản” của PGS.TS Bùi Nguyên Khánh (2014) [39]; Công trình “Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo Luật cạnh tranh năm 2004” của Trương Hồng Quang (2010) [53]. Công trình “Tình trạng vi phạm quy chế tem, nhãn hàng hóa ở Bắc Giang” của tác giả Trần Hùng (2008) [37]. Công trình “Thực trạng quản lý nhà nước về quảng cáo thương mại với mục tiêu hạn chế cạnh tranh không lành mạnh và bảo vệ người tiêu dùng” của Th.S Trần Quỳnh Anh (2014) [3]. Tony Holkham (1995), “Label Writing and Planning – A guide to good customer communication”, Nxb: Blackie Academic & Professional, tr.VIII đề cao vai trò của nhãn hàng hóa, coi Nhãn hàng hóa là cơ hội để các công ty nói chuyện với khách hàng. Trong đó, tiêu biểu là các công trình khoa học “Quảng cáo dưới góc độ cạnh tranh” của Cục quản lý cạnh tranh (2008) do TS. Đinh Thị Mỹ Loan làm chủ nhiệm là một công trình nghiên cứu công phu trong đó, đề cập tới những vấn đề chung về quảng cáo cạnh tranh trong nền kinh tế thị; đặc biệt, công trình phân tích kỹ nội dung các quy định của Luật cạnh tranh Việt Nam liên quan đến việc cung cấp thông tin của doanh nghiệp xâm phạm đến quyền được thông tin của NTD thông qua các hành vi quảng cáo vi phạm Luật cạnh tranh năm 2004 như: quảng cáo so sánh, quảng cáo bắt chước, quảng cáo gian dối và gây nhầm lẫn, các hành vi vi phạm pháp luật khác, đồng thời trên sơ sở phân tích thực trạng đưa ra phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật cạnh tranh không điều chỉnh quảng cáo. Trong luận án Tiến sĩ kinh tế “Tác động của việc thực thi Hiệp định quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam” (2012) của mình, tác giả Trần Thị Hồng Minh đã đưa ra thực trạng về nhãn mác của một số mặt hàng nông sản Việt Nam. Luận văn Thạc sỹ của Lê Mai Anh (2016), “Hoàn thiện pháp luật về nhãn hàng hóa trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay”, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về nhãn hàng hóa. Tác giả nêu ra thực trạng trong việc quy định về ghi tên và địa chỉ của cơ sở sản xuất của thương nhân trên nhãn hàng 14 hóa, về phân loại nhóm hàng hóa theo tính chất và ghi định lượng hàng hóa; về quy định dán nhãn phụ, về chế tài xử phạt đối với hành vi vi phạm pháp luật về nhãn hàng hóa... Tác giả đã phân tích, đánh giá được thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về một số nội dung liên quan đến nhãn hàng hóa. “Thực trạng và hiệu quả áp dụng các chế tài hành chính nhằm bảo vệ người tiêu dùng của nước ta hiện nay” của TS. Dương Anh Sơn tại Hội thảo “Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng - kinh nghiệm quốc tế. Thực tiễn và triển vọng ở Việt Nam” do ISL và KAS tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh tháng 11/2009 phân tích các qui định của pháp luật Việt Nam về chế tài hành chính, đánh giá thực trạng áp dụng các chế tài hành chính ở Việt Nam còn chưa hiệu quả, chưa đủ sức “răn đe” đối với những NSX, CU có hành vi xâm phạm về quyền lợi NTD... 1.1.3. Các đề xuất kiến nghị về trách nhiệm của NSX, CU trong việc cung cấp thông tin về chất lượng hàng hóa cho NTD Có nhiều công trình nghiên cứu đưa ra các đề xuất, kiến nghị liên quan đến trách nhiệm của NSX, CU cung cấp thông tin về CLHH cho NTD., công trình “Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Thị Thư (2013); Bài viết của TS. Lê Minh Hùng (2009, “Điều kiện thương mại chung - nhu cầu điều chỉnh pháp luật từ phương diện bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của nước ta hiện nay”. Công trình “Một năm Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có hiệu lực và nhu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt nam hiện nay” của PGS.TS Bùi Nguyên Khánh (2012),Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11/2014; Công trình nghiên cứu của TS.Vũ Hùng (2007) về “Tăng cường hoạt động phòng chống hàng giả đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng ở nước ta hiện nay” trong đề tài cấp Bộ của Viện nghiên cứu quyền con người năm 2007; Trần Văn Biên (2010), Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng điện tử qua Intrenet; Công trình“Một số vấn đề về Luật trách nhiệm sản phẩm cộng đồng Châu Âu” của TS. Nguyễn Am Hiểu (2010), Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2010... Trong các công trình trên, đáng chú ý nhất là công trình nghiên cứu “Hoàn 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan