Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tổ chức và hoạt động của phòng tư pháp từ thực tiễn thành phố hà nội...

Tài liệu Tổ chức và hoạt động của phòng tư pháp từ thực tiễn thành phố hà nội

.PDF
86
647
124

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ ANH DŨNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG TƯ PHÁP TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số : 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa khọc của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn này đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tác giả luận văn LÊ ANH DŨNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Viết tắt Các chữ được viết tắt CNXH Chủ nghĩa xã hội HĐND Hội đồng nhân dân PBGDPL Phổ biến, giáo dục pháp luật QPPL Quy phạm pháp luật TTHC Thủ tục hành chính UBHC Ủy ban hành chính UBND Ủy ban nhân dân VPHC Vi phạm hành chính XHCN Xã hội chủ nghĩa MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM ............................................ 6 1.1. Khái niệm, vị trí, chức năng và quá trình hình thành, phát triển của Phòng Tư pháp ở Việt Nam .........................................................................................................6 1.2. Cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Tư pháp ở Việt Nam ........12 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp ở Việt Nam .....21 Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG TƯ PHÁP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................................28 2.1. Các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội có ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp .................................................................28 2.2. Thực tiễn tổ chức, hoạt động của Phòng Tư pháp trên địa bàn thành phố Hà Nội ...................................................................................................................................30 2.3. Đánh giá về tổ chức, hoạt động của Phòng Tư pháp trên địa bàn thành phố Hà Nội và những kinh nghiệm được rút ra .....................................................................44 Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG TƯ PHÁP TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI.....................60 3.1. Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp ...............................60 3.2. Giải pháp đổi mới tổ chức, hoạt động của Phòng Tư pháp ................................62 KẾT LUẬN .......................................................................................................................72 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................................................74 DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU 2.1 Kết quả công tác ban hành và thẩm định văn bản QPPL 34 của HĐND và UBND quận, huyện, thị xã trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2013 đến năm 2016 2.2 Số lượng báo cáo viên pháp luật quận, huyện, thị xã thuộc 35 thành phố Hà Nội từ năm 2013 đến năm 2016 2.3 Kết quả thực hiện PBGDPL trên địa bàn quận, huyện, thị 37 xã, thành phố Hà Nội từ năm 2013 đến năm 2016 2.4 Số lượng Tổ hòa giải và hòa giải viên ở cơ sở trên địa bàn 38 thành phố Hà Nội từ năm 2012 đến năm 2016 2.5 Kết quả hoạt động hòa giải của các Tổ hòa giải trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2012 đến năm 2016 38 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bộ máy nhà nước được tạo thành bởi các cơ quan được tổ chức ở Trung ương và địa phương, mỗi cơ quan được tổ chức ra để thực hiện thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Ở địa phương cơ quan nhà nước thực hiện thẩm quyền chấp hành - điều hành là UBND gồm 3 cấp cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Ở cấp huyện, để UBND cấp huyện thực hiện đảm bảo hiệu lực, hiệu quả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng tại địa phương thì cơ quan chuyên môn tham mưu giúp UBND cùng cấp quản lý nhà nước theo lĩnh vực, ngành đóng vai trò rất quan trọng, trong đó có Phòng Tư pháp thực hiện tham mưu, giúp việc phục vụ chức năng, nhiệm vụ của UBND cấp huyện. Hoạt động của các cơ quan này là thành tố đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động của UBND cấp huyện. Được thành lập năm 1945 và tái thành lập năm 1981 đến nay, ngành Tư pháp từ Trung ương đến cơ sở đã không ngừng được củng cố, kiện toàn về tổ chức và hoạt động ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò và đóng góp nhất định vào hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp, giúp Chính phủ và UBND các cấp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ do Hiến pháp và pháp luật quy định. Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện đã có công trình nghiên cứu, mỗi công trình nghiên cứu có phạm vi, mức độ, ở những giai đoạn khác nhau và đã có những đóng góp rất lớn đối với tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp. Nhưng hiện nay, mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam đều mở cửa, hội nhập để phát triển là xu thế tất yếu, hơn nữa Việt Nam đang trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân với nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân đã đặt ra cho các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở nói chung và ngành Tư pháp nói riêng phải thường xuyên củng cố, kiện toàn cảvề tổ chức và hoạt động. Sau khi các quy định của pháp luật về hộ tịch, chứng thực, ban hành văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) năm 2015… được ban hành và có hiệu lực, qua tìm hiểu chưa có công trình nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Phòng 1 Tư pháptừ thực tiễn thành phố Hà Nội trong một vài năm trở lại đây. Do đó, để củng cố thêm cơ sở lý luận và pháp lý cho việc kiện toàn về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp, học viên lựa chọn đề tài: “Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp từ thực tiễn thành phố Hà Nội” để triển khai nghiên cứu là cần thiết, có ý nghĩa thiết thực lý luận, thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam, đề tài nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện và Phòng Tư pháp đã có nhiều đề tài nghiên cứu ở phạm vi khác nhau như: Đề tài cấp Bộ:“Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện. Thực trạng, giải pháp kiện toàn và nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động” của Lê Thị Thu Ba, Thứ trưởng Bộ Tư pháp, năm 2005. Đề tài cấp Bộ: “Xây dựng cơ chế thi tuyển Tư pháp quốc gia đáp ứng yêu cầu cải cách Tư pháp” của PGS.TS Nguyễn Văn Huyên, Phó Giám đốc Học viện Tư pháp, năm 2011. Luận văn thạc sĩ : “Tổ chức và hoạt động của các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội hiện nay” của Thạc sĩ Chu Văn Liên, năm 2011. Luận văn thạc sĩ:“Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên” của Thạc sĩ Lê Trọng Duẩn, năm 2015. Luận văn thạc sĩ:“Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp từ thực tiễn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội” của Thạc sĩ Lê Thị Hồng Thu, năm 2014. Như vậy về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp chưa có nhiều đề tài nghiên cứu, thực tế đã có đề tài cấp Bộ nghiên cứu ở phạm vi cả nước về tổ chức và hoạt động hoặc về vấn đề thi tuyển cán bộ, công chức Tư pháp hoặc đã có đề tài nghiên cứu thực tế tại một Phòng Tư pháp cụ thể ở một huyện thuộc thành phố Hà Nội. Nội dung các đề tài đã đề cập đến ở mức độ khác nhau, các nghiên cứu đã cung cấp lượng kiến thức lý luận, thông tin gần như toàn diện đối với pháp luật nói chung và pháp luật về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện nói riêng. Các đề tài đã tập trung mô tả các quy định của pháp luật, tổng kết thực tiễn và đề ra các 2 giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp đến, các đề tài có giá trị tham khảo rất quan trọng trong việc triển khai luận văn. Tuy nhiên, có đề tài đã được nghiên cứu cách đây đã lâu, có đề tài vừa mới được bảo vệ cách đây hai đến ba năm là luận cứ thời sự nhưng qua tìm hiểu, học viên thấy chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp từ thực tiễn thành phố Hà Nội, một địa phương có 30 đơn vị hành chính quận, huyện, thị xã; Hà Nội là Thủ đô - trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước, nên cấp ủy, chính quyền thành phố Hà Nội luôn mong muốn củng cố, kiện toàn về tổ chức và hoạt động của các cơ quan chuyên môn thuộc chính quyền các cấp phù hợp với các quy định của pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu CCHC, hội nhập để phát triển. Do đó, việc nghiên cứu tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp từ thực tiễn thành phố Hà Nội là cần thiết, quá trình nghiên cứu có kế thừa các kết quả nghiên cứu của các đề tài đã nghiên cứu, đồng thời làm rõ thêm các vấn đề lý luận, thực tiễn về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp thuộc thành phố Hà Nội nói riêng và thuộc các tỉnh, thành phố trong cả nước nói chung. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn có mục đích nghiên cứu tổng quát là củng cố thêm luận cứ khoa học cho việc đề xuất các giải pháp nhằm góp phần đổi mới về tổ chức, nâng cao hoạt động của Phòng Tư pháp ở Việt Nam và từ thực tiễn thành phố Hà Nội, qua đó đánh giá những hạn chế, bất cập trong thể chế, trong thực tiễn tổ chức, hoạt động của Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện từ đó đưa ra các quan điểm, đề xuất giải pháp sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật và đổi mới thực tiễn tổ chức, hoạt động của Phòng Tư pháp ở Việt Nam nói chung và của thành phố Hà Nội nói riêng nhằm nâng cao chất lượng về tổ chức, hoạt động tham mưu, giúp việc UBND, Chủ tịch UBND cùng cấp tại địa phương trong thời gian tới. Để nghiên cứu các vấn đề về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp. Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu: 3 Thứ nhất, Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp như khái niệm, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Phòng Tư pháp ở Việt Nam. Thứ hai, Phân tích, đánh giá thực trạng việc tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp từ thực tiễn thành phố Hà Nội qua đó thấy được những kết quả, tồn tại và nguyên nhân của thực trạng đó trong tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp. Thứ ba, Đưa ra các quan điểm, giải pháp đổi mới về tổ chức, chất lượng hoạt động của Phòng Tư pháp đáp ứng tình hình, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Tư pháp; các đề xuất quan điểm, giải pháp tiếp tục củng cố, kiện toàn về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp. - Do thời gian có hạn, nên học viên tập trung nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt động (về hoạt động, tập trung nghiên cứu một số nhiệm vụ, quyền hạn, còn các nhiệm vụ, quyền hạn khác, dành học viên khác tiếp tục nghiên cứu, bổ sung lý luận và thực tiễn cho việc tổ chức và hoạt động về Phòng Tư pháp) của Phòng Tư pháp của 30 quận, huyện và thị xã từ thực tiễn thành phố Hà Nội trong khoảng 4 đến 5 năm trở lại đây. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Trên cơ sở các nguyên lý cơ bản và phương pháp luận duy vật biện chứng; chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; những quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tổ chức bộ máy nhà nước về tổ chức chính quyền. Luận văn đã tiếp thu có chọn lọc sau khi tham khảo một số công trình nghiên cứu khoa học, các tác phẩm, bài viết của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu về công tác tư pháp; về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp để khẳng định việc nghiên cứu của luận văn nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp nói chung và Phòng Tư pháp thuộc thành phố Hà Nội nói riêng. 4 Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài nghiên cứu, học viên sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Hoạt động có hiệu quả của các cơ quan chuyên môn, trong đó có Phòng Tư pháp đối với một chính quyền hoạt động quản lý nhà nước ngày càng hiệu lực, hiệu quả hướng đến xây dựng chính quyền phục vụ nhân dân, thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân đòi hỏi phải kiện toàn, củng cố nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp là một tất yếu. Việc nghiên cứu thực tiễn về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp trong phạm vi thành phố Hà Nội là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước nhằm đánh giá, tổng kết, đề ra các biện pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của chính quyền địa phương là rất cần thiết. Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho chính quyền và các cơ quan chức năng của có liên quan trong việc nghiên cứu tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp trong cả nước nói chung và của thành phố Hà Nội nói riêng. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp lý về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp ở Việt Nam. Chương 2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp trên địa bàn thành phố Hà Nội. Chương 3. Quan điểm, giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp từ thực tiễn thành phố Hà Nội. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, vị trí, chức năng và quá trình hình thành, phát triển của Phòng Tư pháp ở Việt Nam 1.1.1. Khái niệm, vị trí, chức năng của Phòng Tư pháp Trong tác phẩm Tinh thần pháp luật (Quyển IX) Montesquieu đã khái niệm quyền lập pháp là quyền “làm ra luật,…sửa đổi hay hủy bỏ luật đã ban hành” còn quyền hành pháp là quyền “quyết định việc hòa hay chiến, gửi đại sứ đi các nước, thiết lập an ninh, đề phòng xâm lược” còn quyền tư pháp là quyền “trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp giữa các cá nhân” [………., tr. 105-106]. Như vậy, theo quan niện của Montesquieu quyền Tư pháp là quyền phán xét tội, phân xử vụ việc tranh chấp dựa trên cơ sở áp dụng luật do cơ quan lập pháp đã làm ra để xác định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm, hậu quả pháp lý của các bên tham gia tranh chấp dựa trên các tình tiết khách quan. Quyền tư pháp được thực hiện là năng kính phản chiếu quyền lập pháp mang giá trị xã hội khi luật được áp dụng và được tôn trọng thực thi trên thực tế. Ở Việt Nam thuật ngữ “Tư pháp” được tiếp cận ở các góc độ rộng, hẹp khác nhau và có sự khác biệt nhất định với quan niệm của Montesquieu nhưng đều thống nhất quyền tư pháp là quyền xét xử trên cơ sở luật định. Hiểu theo nghĩa này thì trong tổ chức bộ máy nhà nước ta hiện nay, quyền tư pháp thuộc Tòa án nhân dân và thực hiện cải cách tư pháp mà trọng tậm là cải cách Tòa án. Tuy nhiên, hiểu theo nghĩa rộng “Tư pháp” không chỉ được quan niệm là xét xử thuộc thẩm quyền của Tòa án mà còn hiểu là toàn bộ hoạt động bảo vệ pháp luật, kiểm soát quyền lực ở cả quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Trong đó quyền hành pháp là hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền con người, bổ trợ tư pháp phục vụ chính con người trong xã hội hiện tại. Đây chính là cơ sở nền tảng hình thành hoạt động tư pháp hành chính, bổ trợ tư pháp thuộc cơ quan hành pháp. 6 Để thực hiện các nhiệm vụ tư pháp hành chính, bổ trợ tư pháp và quản lý nhà nước về công tác này, trong tổ chức Bộ máy nhà nước ta hiện nay, hình thành nên một hệ thống cơ quan được tổ chức tương ứng với các cơ quan thực hiện chức năng hành pháp tư Trung ương đến cơ sở, giúp cơ quan hành pháp quản lý hành nước về công tác này gồm: Bộ Tư pháp giúp Chính phủ, Sở Tư pháp giúp UBND cấp tỉnh, Phòng Tư pháp giúp UBND cấp huyện và công chức Tư pháp-Hộ tịch giúp UBND cấp xã các cơ quan, chức danh chuyên môn của các cơ quan hành pháp không có chức năng thực hiện quyền tư pháp. Tại Thông tư liên tịch số 23/2013/TTLT-BTP-BNV ngày 22/12/2013 của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc UBND cấp tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện và công tác tư pháp thuộc UBND cấp xã đã quy định cụ thể về Phòng Tư pháp như sau: Khái niệm: Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, có trách nhiệm tham mưu, giúp việc cho UBND cấp huyện trong lĩnh vực hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng và thi hành pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, kiểm soát TTHC, phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở, trợ giúp pháp lý, nuôi con nuôi, công tác hộ tịch, chứng thực, thực hiện bồi thường nhà nước và các công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật. Theo quy định của pháp luật, đơn vị hành chính của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được phân định: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; xã, phường, thị trấn thuộc huyện, quận, thị xã, thành phố được gọi là Chính quyền địa phương, Như vậy, chính quyền được tổ chức ở 3 cấp bao gồm: (i) cấp tỉnh: tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; (ii) cấp huyện: huyện, quận, thị xã, thành phố; (iii) cấp xã: xã, phường, thị trấn. Riêng thành phố trực thuộc Trung ương được tổ chức ở cấp huyện gồm: huyện, quận, thành phố và đơn vị hành chính tương đương; ngoài ra theo quy định, Quốc hội quyết định thành lập đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt. Chính quyền địa phương ở mỗi cấp đều được tổ chức hai cơ quan là 7 HĐND và UBND, trong đó HĐND do nhân dân địa phương bầu ra và UBND do HĐND cùng cấp bầu ra, UBND là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương, HĐND cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Thực hiện nhiệm vụ chấp hành và điều hành của cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương, UBND cấp huyện có thẩm quyền trong việc thi hành pháp luật, quản lý nhà nước trong phạm vi địa phương, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội…; thực hiện các nhiệm vụ về tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật, xây dựng chính quyền về địa giới hành chính, giáo dục, đào tạo,văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp …; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được cấp trên phân cấp, ủy quyền … Để giúp UBND cấp huyện thực hiện những nhiệm vụ trên. Theo quy định của luật, UBND cấp huyện được thành lập các cơ quan chuyên môn của mình để thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND cấp huyện quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy quyền của UBND cấp huyện và theo quy định của pháp luật; góp phần bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác ở địa phương; chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, vị trí việc làm, biên chế công chức, cơ cấu ngạch công chức và công tác của UBND cấp huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn cấp trên thuộc UBND cấp tỉnh. Thực hiện chức năng tham mưu, giúp việc UBND cấp huyện trong lĩnh vực hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp. Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn được giao thực hiện tham mưu, giúp UBND cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng và thi hành pháp luật; theo dõi thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; kiểm soát thủ tục hành chính; phổ biến, giáo dục pháp luật; hòa giải ở cơ sở, trợ giúp pháp lý; nuôi con nuôi; hộ tịch; chứng thực; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; bồi thường nhà nước và các công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật. 8 - Vị trí của Phòng Tư pháp trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, được tổ chức ở cấp huyện, theo quan hệ chiều ngang là một trong các cơ quan chuyên môn tham mưu, giúp việc UBND cấp huyện; theo mối quan hệ chiều dọc thì Phòng Tư pháp là cơ quan chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn cấp trên là Sở Tư pháp cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, theo nguyên tắc song trùng trực thuộc. - Chức năng của Phòng Tư pháp tham mưu giúp UBND cấp huyện thực hiện quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương, thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy quyền của UBND cấp huyện và theo quy định của pháp luật; giúp UBND cấp huyện quản lý nhà nước về lĩnh vực tư pháp hành chính, bổ trợ tư pháp tại địa phương; đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn cấp trên là Sở Tư pháp. 1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Phòng Tư pháp - Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình lịch sử công bố với đồng bào cả nước và nhân dân toàn thế giới về sự ra đời của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Để nhà nước hoạt động quản lý xã hội thì việc tổ chức bộ máy Nhà nước nói chung và chính quyền địa phương nói riêng, thay mặt Nhà nước Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 63-SL ngày 22/11/1945 và Sắc lệnh số 77-SL ngày 21/12/1945 về tổ chức Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban hành chính (UBHC) tỉnh, huyện, xã. Trong đó cấp cấp tỉnh và cấp xã có tổ chức có HĐND và UBHC; ở cấp kỳ và cấp huyện, khu phố chỉ tổ chức UBHC không tổ chức HĐND. - Ngày 19/11/1946, Việt Nam đã có bản Hiến pháp đầu tiên đặt nền móng cho tổ chức bộ máy nhà nước, thể chế chính trị, kinh tế-xã hội…của đất nước sau khi giành độc lập. Hiến pháp ghi nhận đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia. Việc tổ chức bộ máy chính quyền địa phương tại Hiến pháp 1946 cơ bản kế thừa các quy định về tổ chức chính quyền địa phương tại hai Sắc lệnh năm 1945 đã quy định. - Do yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng Miền Bắc xây dựng CNXH, Miền Nam tiếp tục kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ngày 31/12/1959, Quốc hội đã thông qua 9 bản Hiến pháp thứ hai, Hiến pháp năm 1959 quy định chính quyền địa phương được tổ chức theo cấp hành chính, cụ thể giai đoạn này ở mỗi cấp hành chính của chính quyền địa phương đều tổ chức hai cơ quan là HĐND và UBHC (Điều 78, 79 Hiến pháp 1959). Tại Điều 3 Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ ngày 14/9/1960 quy định về tổ chức các Bộ và cơ quan ngang Bộ, không quy định về tổ chức Bộ Tư pháp, ở cấp tỉnh, cấp huyện không tổ chức cơ quan tư pháp. Do đó giai đoạn này tổ chức và hoạt động của ngành tư pháp từ trung ương đến địa phương chưa được ghi nhận. Công tác tư pháp theo quy định tại Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 và Điều 9 Pháp lệnh số 18/LCT ngày 30/3/1961 quy định về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân các địa phương thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính tương đương có nhiệm vụ xây dựng tổ chức tư pháp, tập huấn cán bộ tư pháp cho xã, phường thị trấn về công tác tuyên truyền pháp luật cho nhân dân tại địa phương. - Sau khi thống nhất đất nước, nước ta đổi tên nước thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào năm 1976 và Hiến pháp năm 1980 ra đời kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1946 và năm 1959 là bản Hiến pháp có ý nghĩa quan trọng, cơ sở pháp lý để thể chế đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ mới, là nền tảng xây dựng đất nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Ngày 22/11/1981, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 143/HĐBT quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ Tư pháp, tại Điều 3 quy định hệ thống các cơ quan tư pháp trong cả nước gồm: + Bộ Tư pháp. + Sở Tư pháp ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương. + Ban Tư pháp ở cấp quận, huyện, thị xã và các đơn vị hành chính tương đương. + Ban Tư pháp ở cấp xã, phường và các đơn vị hành chính tương đương[20]. Theo quy định ở cấp huyện, quận, thị xã có Ban Tư pháp nhưng thực tế trên địa bàn thành phố Hà Nội không tổ chức Ban Tư pháp ở cấp huyện, quận, thị xã mà 10 được sáp nhập vào tổ chức cơ quan chuyên môn khác hoặc sáp nhập vào Văn phòng HĐND và UBHC. - Đại hội VI năm 1986 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi nhận giai đoạn này đất nước đã đạt được những kết quả, thành tựu nhất định, tuy nhiên nhiệm vụ phát triển kinh tế, xóa bỏ cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều thành phần kinh tế là nhiệm vụ cấp thiết, do đó nhu cầu trước hết phải sửa đổi Hiến pháp năm 1980 để tạo hành lang pháp luật, động lực thúc đẩy mọi tầng lớp trong xã hội tham gia làm kinh tế, xây dựng đất nước. Hiến pháp năm 1992 ra đời đã là bước ngoặt trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, là nền tảng để đưa đất nước ta đạt những thành tựu sau hơn 30 năm đổi mới như ngày nay. Do yêu cầu phát triển của xã hội, quản lý của nhà nước trước những nhiệm vụ phải nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, quản lý xã hội bằng pháp luật, khẳng định đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Ngày 26/7/1993, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 12/TTLB quy định hệ thống các cơ quan pháp chế được thành lập ở các cấp, trong đó cấp tỉnh có Sở pháp chế hoặc Ty pháp chế; cấp huyện có Phòng hoặc Tổ pháp chế; cấp xã có Tổ pháp chế hoặc cán bộ pháp chế. Như vậy, giai đoạn này ở cấp huyện đã có bộ phận chuyên môn giúp việc UBND cấp huyện về công tác pháp chế là tiền thân của Phòng Tư pháp ngay nay. Căn cứ quy định trên, năm 1993 trên địa bàn tỉnh Hà Tây đã tổ chức thành lập Phòng Tư pháp tại 14 huyện, thị xã. Tuy nhiên, thời điểm năm 2001 tại thành phố Hà Nội (cũ), Phòng Tư pháp cấp huyện lại được sáp nhập vào Văn phòng HĐND và UBND cùng cấp. Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1994 và năm 2003 đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước trong đó có cơ quan tư pháp của chính quyền địa phương. Ngày 06/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 62/2003/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp. 11 Do việc tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện chưa thống nhất trong cả nước, ngày 29/9/2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 172/2004/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện theo quy định thì Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn của UBND cấp huyện. Năm 2004, trên địa bàn thành phố Hà Nội (cũ) tại các UBND quận, huyện đã thành lập Phòng Tư pháp, cho đến nay theo quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015; Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008, Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính phủ quy định tổ chức của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện; Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV ngày 28/4/2009 và số 23/2013/TTLT-BTP-BNV ngày 22/12/2013 đã quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp. 1.2. Cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Tư pháp 1.2.1. Cơ cấu tổ chức của Phòng Tư pháp Để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật, thì cán bộ, công chức có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ được đào tạo, bồi dưỡng có khả năng đáp ứng và hoàn thành nhiệm vụ được giao là yếu tố quyết định khẳng định vai trò, vị trí tham mưu, giúp việc của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện. Đối với Phòng Tư pháp nói riêng và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện nói chung là cơ quan được tổ chức theo mô hình chế độ thủ trưởng, nên về tổ chức Phòng Tư pháp có Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng và các công chức khác. Trong đó: (i) Trưởng phòng chịu trách nhiệm trước UBND, Chủ tịch UBND cấp huyện và trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và toàn bộ hoạt động của Phòng và công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã trên địa bàn; (ii) Phó Trưởng phòng là người giúp Trưởng phòng phụ trách và theo dõi một số mặt công tác; chịu trách nhiệm trước Trưởng phòng và trước pháp luật về nhiệm vụ được phân công. Khi Trưởng phòng vắng mặt, một Phó Trưởng phòng được Trưởng phòng ủy nhiệm điều hành các hoạt động của Phòng; (iii) Việc bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật, miễn nhiệm, cho từ chức, thực hiện chế độ, 12 chính sách đối với Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng do Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định theo quy định của pháp luật. Việc bố trí cán bộ, công chức của Phòng Tư pháp thuộc thẩm quyền quyết định của Chủ tịch UBND cấp huyện về định biên (số lượng cán bộ, công chức được giao trong tổng biên chế của huyện do Chủ tịch UBND cấp tỉnh giao hàng năm). Việc bố trí, sắp xếp đủ số lượng cán bộ, công chức; bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý hợp lý cho Phòng Tư pháp là nhân tố quyết định để Phòng Tư pháp có khả năng thực hiện và hoàn thành tốt các nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo quy định của pháp luật. Ngày 31/12/2015, Bộ Nội vụ phê duyệt danh mục vị trí việc làm trong cơ quan, tổ chức hành chính của Thành phố tại Quyết định số 2076/QĐ-BNV. Ngày 06/3/2017, UBND thành phố Hà Nội ban hành Kế hoạch số 1553/KH-UBND về triển khai hoàn thiện đề án vị trí việc làm đối với cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập của Thủ đô. 1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Tư pháp 1.2.2.1. Về công tác xây dựng pháp luật Pháp luật là hành lang pháp lý, công cụ đảm bảo thực hiện quản lý xã hội của nhà nước nói chung và của các cấp chính quyền ở địa phương nói riêng. Pháp luật được ban hành với hình thức văn bản QPPL có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định của pháp luật, trong đó QPPL là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc trong phạm vi đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Do pháp luật có hiệu lực, tác động đến các mặt của đời sống xã hội trong khoảng thời gian dài, không gian, phạm vi của địa phương nên việc ban hành văn bản QPPL, ở mỗi cấp chính quyền phải được thực hiện theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định rất chặt chẽ trong đó quy trình thẩm định có vai trò kiểm tra, rà soát, đối chiếu tính thống nhất, tính hợp hiến, hợp pháp của dự thảo văn bản QPPL trước khi được ban hành. Đây là nhiệm vụ quan trọng của chính quyền địa phương, thể hiện chức năng quản lý nhà nước của chính quyền địa phương, góp phần đảm bảo sự chỉ đạo, quản lý thống nhất của bộ máy hành chính 13 nhà nước bằng pháp luật từ trung ương đến cơ sở. Ở cấp huyện, việc xây dựng pháp luậtvăn bản QPPL của HĐND và UBND ban hành đòi hỏi yêu cầu đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất và đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành. Văn bản QPPL tác động tích cực, thúc đẩy kinh tế-xã hội của địa phương phát triển khi văn bản đó được ban hành kịp thời, hợp hiến, hợp pháp thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành và ngược lại. Theo quy định của pháp luật, HĐND và UBND cấp huyện có thẩm quyền ban hành văn bản QPPL đối với những việc do luật quy định. Để việc ban hành văn bản của HĐND và UBND cấp huyện đảm bảo tính thống nhất, hợp hiến, hợp pháp đảm bảo tính khả thi trên thực tế, luật quy định Phòng Tư pháp có nhiệm vụ thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND cấp huyện quản lý nhà nước thống nhất về công tác xây dựng pháp luật tại địa phương như: Phối hợp xây dựng quyết định thuộc thẩm quyền ban hành của UBND cấp huyện do các cơ quan chuyên môn khác thuộc UBND cấp huyện chủ trì xây dựng; Thẩm định dự thảo các văn bản QPPL thuộc thẩm quyền ban hành của HĐND và UBND cấp huyện; góp ý dự thảo văn bản QPPL của HĐND cấp huyện theo quy định của pháp luật và tổ chức lấy ý kiến nhân dân về các dự án luật, pháp lệnh theo sự chỉ đạo của UBND cấp huyện và hướng dẫn của Sở Tư pháp [27]. 1.2.2.2. Về phổ biến, giáo dục pháp luật Pháp luật sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để được thực thi trong thực tiễn thì giai đoạn đưa pháp luật vào thực tiễn là quá trìnhphổ biến, giáo dục pháp luật (viết tắt PBGDPL) đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội để cán bộ, nhân dân nắm bắt, tìm hiểu, biết thực hiện, chấp hành giúp cho văn bản pháp luật đó “sống” trong thực tiễn xã hội… Đảng và Nhà nước ta quan tâm đến công tác PBGDPL và đã ban hành các văn lãnh đạo, chỉ đạo như Chỉ thị số 32CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PBGDPL, nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ và nhân dân; Nghị quyết số 06/2007/NQ-CP ngày 07/12/2007 của Chính phủ về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ, nhân dân; Quyết định số 14 37/2008/QĐ-TTg ngày 12/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chương trình PBGDPL từ năm 2008 đến năm 2012. Nhận thấy, việc PBGDPL là nhiệm vụ đầu tiên để đưa pháp luật đến với thực tiễn đời sống xã hội ngay sau khi được ban hành là công tác PBGDPL, ngày 20/6/2012, Quốc hội đã ban hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật và Chính phủ đã ban hành Nghị định số 128/2013/NĐCP ngày 04/4/2013 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật là cơ sở pháp lý quan trọng để toàn bộ hệ thống chính trị của các cấp, các ngành và địa phương tổ chức thực hiện công tác này [9, tr. 2]. Giúp UBND cấp huyện về công tác này, UBND huyện thành lập Hội đồng phối hợp PBGDPL và Phòng Tư pháp là cơ quan thường trực của Hội đồng thực hiện tham mưu giúp Hội đồng PBGDPL và UBND cấp huyện công tác PBGDPL trên địa bàn. 1.2.2.3. Về công tác hòa giải ở cơ sở Hoà giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên tranh chấp đạt được thoả thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố, phát huy tình cảm và đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư.Do đó hòa giải cơ sở là một hoạt động mang tính xã hội tự nguyện ở cơ sở thôn xóm, bản ấp, khu dân cư hoặc nơi họp chợ, điểm du lịch, vui chơi giải trí, hoạt động này xuất phát từ đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta như: “Tắt lửa tối đèn có nhau” hoặc “Bán anh em xa, mua láng giềng gần” …Thông qua hoạt động hòa giải ở cơ sở góp phần hạn chế các tranh chấp dân sự, phòng ngừa tội phạm, vận động nhân dân sống và làm việc theo pháp luật, tăng cường đoàn kết trong nội bộ, cộng đồng dân cư, củng cố tình làng nghĩa xóm, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội ổn định, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội. Quan tâm làm tốt công tác này ngay từ cơ sở thôn, xóm, khu dân cư, tổ dân phố vì quá trình hòa giải đã hóa giải được các tranh chấp, mẫu thuẫn nhỏ trong nội bộ nhân dân ngay từ khi phát sinh, ngay từ gốc rễ, giải quyết được từ gốc rễ với quan điểm từ mẫu thuẫn, tranh chấp to thành mẫu thuẫn nhỏ, từ mẫu thuẫn, tranh chấp nhỏ thành không có gì, góp 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan