MỞ ĐẦU
Việt Nam là một đất nước có nhiều nghề thủ công truyền thống, đặc biệt là
vùng châu thổ sông Hồng. Với đặc trưng của nền sản xuất nông nghiệp mùa vụ và
chế độ làng xã, nghề thủ công xuất hiện khá sớm và gắn liền với lịch sử thăng trầm
của dân tộc. Các làng nghề đã hình thành, tồn tại và phát triển cùng với sự phát
triển của xã hội, của đời sống cộng đồng và dần dần được qui về các khái niệm như
nghề truyền thống, nghề cổ truyền, nghề gia truyền, nghề phụ, nghề thủ công…
Đến này nước ta vẫn còn một số lượng rất lớn các làng nghề truyền thống có
lịch sử tồn tại và phát triển hàng nghìn năm, chứng tỏ sức sống của nó với thời
gian. Vì vậy, có thể nhận thấy các làng nghề truyền thống có một vai trò quan trọng
trong nền kinh tế hiện đại. Bên cạnh đó là góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa
truyền thống Việt Nam. Có vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo tồn các đặc
điểm văn hóa đa dạng của đất nước thông qua việc sử dụng và phát huy các sản
phẩm truyền thống của làng nghề nhằm đáp ứng các yêu cầu hiện đại, đồng thời
vẫn duy trì được những nét đặc trưng vốn có của chúng. Làng nghề truyền thống
không chỉ là biểu hiện của văn hóa Việt Nam mà các sản phẩm của làng nghề
truyền thống còn được coi như hàng hóa có giá trị thương mại rất tiềm năng.
Và nói đến nghề thủ công thì nước ta có tới trăm vạn làng nghề nhưng sớm
nhất vẫn là nghề tầm tang canh cửi hay trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa... Và làng lụa
Vạn Phúc - quận Hà Đông - Hà Nội là một minh chứng tiêu biểu cho làng nghề thủ
công của Việt Nam - đây là một trong những làng nghề có truyền thống lâu đời bậc
nhất ở nước ta. Là sinh viên của ngành du lịch, không chỉ biết về lịch sử, chính trị
hay văn minh thế giới... , việc tìm hiểu về làng nghề thủ công của Việt Nam là điều
cần thiết khi dẫn khách du lịch về thăm Hà Nội hay đơn giản chỉ là để hiểu thêm về
cuộc sống vất vả và sự khéo léo tài tình của cha ông ta khi xưa. Chính vì những
điều trên mà nhóm chúng em quyết định tìm hiểu sâu về làng lụa Vạn Phúc để hiểu
rõ hơn về lịch sử làng nghề cũng như kĩ thuật làm nghề thủ công xưa kia nói chung
và làm lụa nói riêng.
Trong thời gian hai ngày tại làng Vạn Phúc nhóm chúng em đã có điều kiện
để tìm hiểu về lịch sử và cách làm lụa tại đây, những gì thu hoạch được trong bài
báo cáo này đã giúp chúng em có thêm không chỉ kiến thức về lụa mà hiểu rõ về
những công đoạn, quy trình làm ra một tấm lụa vất vả và gian nan như thế nào, qua
bàn tay khéo léo của các nghệ nhân những tấm lụa mang trong mình nhiều giá trị
vô giá.
Nội dung bài gồm 3 phần:
Chương1: Tổng quan về làng lụa Vạn Phúc
Chương 2: Giới thiệu về nghề lụa Vạn Phúc
Chương 3: Tác động của làng nghề ảnh hưởng đến hoạt động du lịch
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của giảng viên cô: cùng sự giúp đỡ
nhiệt tình của các bác nghệ nhân tại làng lụa Vạn Phúc đã gúp em hoàn thành bài
tập này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ LÀNG LỤA VẠN PHÚC
HÀ ĐÔNG - HÀ NỘI
1.1. Khái quát chung về làng lụa Vạn Phúc - Hà Đông - Hà Nội
1.1.1. Vị trí địa lý
Làng lụa Hà Đông hay Làng lụa Vạn Phúc: Nay thuộc phường Vạn Phúc,
thuộc quận Hà Đông nằm cách trung tâm Hà Nội khoảng 10 km. Là một làng nghề
dệt lụa tơ tằm đẹp nổi tiếng có từ ngàn năm trước. Lụa Vạn Phúc có nhiều mẫu hoa
văn và lâu đời bậc nhất Việt Nam. Lụa Hà Đông từng được chọn may trang phục
cho triều đình. Nằm bên bờ sông Nhuệ, làng lụa Vạn Phúc vẫn còn giữ được ít
nhiều nét cổ kính quê ngày xưa như hình ảnh cây đa cổ thụ, giếng nước, sân đình,
buổi chiều vẫn họp chợ dưới gốc đa trước đình. "Lụa Hà Đông" cũng như các sản
phẩm thủ công truyền thống của các làng nghề Hà Nội, thường được nhắc đến
trong thơ ca xưa. Trong nhiều gia đình, khung dệt cổ vẫn được giữ lại, xen lẫn với
các khung dệt cơ khí hiện đại.
1.1.2. Lịch sử hình thành làng nghề
Làng nghề dệt lụa Vạn Phúc là một trong hơn 1.000 làng nghề truyền thống đã
và đang tồn tại ở Việt Nam, song ít có làng nào có truyền thống văn hoá lịch sử đẹp
như làng lụa Vạn Phúc.
Qua các thư tịch cổ cho thấy, Làng Vạn Phúc vốn có tên là Vạn Bảo, nhưng
sau đổi thành Vạn Phúc, là làng nghề dệt lụa tơ tằm đẹp nổi tiếng có từ ngàn năm
trước. Có khá nhiều tương truyền về lịch sử ra đời của làng. Mảnh đất Vạn Phúc
ngày nay đã được hình thành phát triển từ năm 865 sau Công nguyên. Thủa ấy,
trong một lần di kinh lý trên sông, khi đậu thuyền sát bên dòng sông Nhuệ, Cao
Biền phải thốt lên: “Đất Vạn Bảo (tức Vạn Phúc) núi sông uốn khúc, long hổ ôm
quanh, hai bên hai giếng nước nuôi dưỡng tụ khí rồng xanh. Đây thật là cảnh thanh
nhàn”. Bà Lã Thị Nga – vợ của Cao Biền – thấy vùng đất này thơ mộng đã về ngụ
tại đây, bà dạy dân cách làm lụa. Khi bà quan đời, nhớ ơn công đức của bà, dân
Vạn Bảo đã tôn bà làm Thành hoàng làng và lập miếu thờ. Tuy nhiên, một số tài
liệu và hiện vật cổ còn giữ lại cho thấy, nghề dệt ở Vạn Phúc ra đời cách đây
khoảng 1.000 năm, vào khoảng thế kỷ XIII. Vì thế, bà Lã Thị Nga chưa hẳn là vị tổ
nghề như nhiều người từng nói, nhưng bà chính là người có công khuyến khích
nhân dân duy trì và phát triển làng nghề, đưa nghề dệt trở thành nghề truyền thống
ở Vạn Phúc. Vì vậy mà tại đình Vạn Phúc, người dân nơi đây vẫn coi bà như tổ
nghề và hằng năm vẫn tổ chức lễ hội vào ngày mùng 10 tháng Tám âm lịch, ngày
sinh của bà và 25 tháng Chạp âm lịch, ngày mất của bà, làm ngày tế lễ và giỗ tổ
hàng năm để ghi nhớ công ơn của bà.
Lụa Vạn Phúc từng được chọn may quốc phục dưới các đời vua nhà Nguyễn,
từ vua Khải Định đến vua Bảo Đại đều sai sứ thần ra tận Vạn Phúc mua sa, gấm
đem về dùng.
Lụa Vạn Phúc cũng như các sản phẩm thủ công truyền thống của các làng
nghề Hà Nội, thường được nhắc đến trong thơ ca xưa.
“The La, lĩnh Bởi, chồi Phùng
Lụa vân Vạn Phúc, nhiễu vùng Mỗ Bôn.”
Khởi nguyên khi xưa làng Hà Đông có tới 7 làng La, 3 làng Mỗ tất cả đều làm
nghề dệt lụa nhưng chỉ có lụa tại làng Vạn Phúc là nổi tiếng nhất. Từ sản phẩm của
một làng, lụa, gấm Vạn Phúc đã vượt qua giá trị hàng hoá đơn thuần trở thành một
sản phẩm của văn hoá, biểu tượng của cái đẹp, của vùng đất Hà Đông, của quê
hương Việt Nam. Điều đó cắt nghĩa tại sao giữa Sài Gòn tân kỳ và hoa lệ, ồn ã với
văn hoá ngoại lai tại thời tạm chiếm, sắc áo lụa Hà Đông lại làm dịu mát những
tâm hồn đang hướng về dân tộc:
“ Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông”
(Áo lụa Hà Đông” – thơ Nguyên Sa)
Đó là nỗi nhớ dai dẳng được phổ thành thơ, thành nhạc, ngân nga trong lòng
những người con đất Bắc xa xứ.
Từ khi có go võng (thế kỷ 16) nghề dệt vạn Phúc được cải tiến, phát triển
mạnh mẽ và cho ra đời nhiều mặt hàng độc đáo, cao cấp như gấm, lụa, the, lĩnh với
nhiều hoa văn sinh động tinh tế. Làng Vạn Phúc từ đó trải qua thăng trầm lịch sử,
làng vẫn còn tồn tại và phát triển đến ngày nay. Đối với người dân Vạn Phúc, nghề
dệt và những sản phẩm làm từ Lụa là một niềm tự hào của người dân trong vùng,
nó là kết tinh của nền văn hóa, là xương máu, là tâm hồn, là lối sống và truyền
thống của người dân.
1.1.3. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của làng lụa Vạn Phúc
1.1.3.1.Vị trí địa lý và ranh giới
Làng vạn Phúc nằm ở phía Tây bắc thị xã Hà Đông (nay là phường Vạn
Phúc), cách trung tâm thị xã Hà Đông 1 km và cách trung tâm Hà Nội 10km, là
một dải đất hình thoi:
Phía Tây giáp với xã Văn Khê.
Phía Đông giáp với sông Nhuệ và xã Văn Yên.
Phía Nam giáp với hai phường Quang Trung và Yết Kiêu.
Phía Bắc giáp với làng Ngọc Trụ và Đại Mỗ huyện Từ Liêm - Hà Nội.
Xã Vạn Phúc nằm trên trục đường 430 nối thị xã Hà Đông với tuyến đường
Láng Hòa Lạc (đoạn đầu quốc lộ Bắc Nam
1B) và
đường 32.
Với những thuận lợi về địa lý và giao thông đó, Vạn Phúc sẽ có điều kiện phát
triển kinh tế thực mạnh mẽ trong thời gian tới. Xã Vạn Phúc có mối liên hệ với con
sông Nhuệ cho nên có thuận lợi về giao thông đường thủy. Đặc biệt nơi đây gần
đường 430 là con đường lớn thông với đường Nguyễn Trãi đi qua trung tâm thành
phố Hà Nội cho nên rất thuận tiện cho giao thông buôn bán và các hoạt động dịch
vụ khác
1.1.3.2. Địa hình
Địa hình xã Vạn Phúc đồng nhất được ngăn cách bởi con song Nhuệ và tuyến
đường 430. Có độ cao đồng đều và tương đối bằng phẳng có độ cao từ 5,0 đến
6,0m, là khu vực đất trũng thấp hơn các vùng xung quanh từ 1 đến 1,5m, có hướng
dốc dần từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam với độ dốc từ 0,2 đến 0,3%. Đặc
điểm này thuận tiện cho việc phát triển các công trình nhà ở và công trình xây
dựng khác.
1.1.3.3. Khí hậu
Nằm trong vùng khí hậu Hà Nội, chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió
mùa: nhiệt độ trung bình năm vào khoảng 23,6oC, độ ẩm trung bình cao 82%88%, lượng mưa trung bình năm là 1707mm. Những nơi cạnh sông Nhuệ do ảnh
hưởng của hơi nước cho nên có độ ẩm cao hơn các nơi khác vì vậy mà việc bảo
quản vải đòi hỏi cẩn trọng hơn, không cẩn thận vải rất dễ bị ẩm mốc khiến chất
lượng vải kém đi.
1.1.3.4. Cảnh quan thiên nhiên
Được thiên nhiên ưu đãi: nằm cạnh sông Nhuệ và đặc biệt vẫn còn giữ được
nhiều công trình cổ kính có giá trị văn hóa và lịch sử cao như đình, chùa, cổng
làng. Điều này tạo điều kiện cho Vạn Phúc phát triển giá trị văn hóa, thu hút khách
du lịch đến với làng, từ đó tạo giá trị về thương mại và dịch vụ.
1.1.3.5. Kinh tế
Hiện nay sản xuất nông nghiệp chỉ đóng góp tỷ trọng nhỏ (3%) cho kinh tế
làng Vạn Phúc và đang có xu thế giảm dần vì thu hẹp đất canh tác. Tỷ lệ lao động
phi nông nghiệp rất cao (97%), nghề dệt lụa thủ công và dịch vụ hiện nay đang rất
phát triển, tạo ra nguồn thi nhập chính cho người dân trong xã. Hoạt động thương
mại rất phát triển do kể từ khi chuyển sang dệt bằng máy, số lao động chân tay
giảm, thay vào đó họ chuyển sang hoạt động dịch vụ vì mỗi năm ở đây thu hút
khoảng 10.000 lượt khách nước ngoài và khoảng 20.000 lượt khách trong nước tới
đây tham quan và mua hàng. Làng Vạn Phúc nằm trong tour du lịch của công ty du
lịch Hà Tây (nay là Hà Nội) và công ty du lịch Hà Nội. Thu nhập bình quân trong
xã vào khoảng 2 triệu đồng/người/tháng, khá cao so với mức thu nhập bình quân
cả nước
1.1.4. Truyền thống văn hóa của làng lụa Vạn Phúc
Trong thập kỷ 40, 50 TK XX, lụa Vạn Phúc nổi tiếng trên thị trường Đông
Dương, tham gia nhiều hội chợ tổ chức khắp các xứ Bắc, Trung, Nam. Tơ lụa Vạn
Phúc có nhiều mẫu mã đa dạng, khoảng 70 loại the, lụa, gấm, lĩnh với nhiều tên
gọi khác nhau như: băng hoa, long phượng, mây bay, tứ quế, sa trơn, the trơn, đũi
hoa, vân thọ đỉnh… Hoa văn có bốn loại: động vật, thực vật, đồ vật, hình họa .
Động vật thể hiện các hình tượng tứ linh, lưỡng long chầu nguyệt, lưỡng long song
phượng, long vân, long hý thủy, phượng trong mây, phượng ngậm cuốn thư, rùa
ngậm cuốn thư, song hạc, ngũ phúc, quần ngư vọng nguyệt.
Thực vật gồm: cúc, trúc, mai, lan, hoa chanh, hoa hồng. Đồ vật: cuốn thư,
đồng tiền, lẵng hoa, bình cổ, đèn lồng. Hình họa: chữ thọ, triện, vạn, quả trám,
hình vuông. Tất cả hình dạng hoa văn trên lụa Vạn Phúc được trí tưởng tượng
phong phú, bàn tay tài hoa nghệ nhân dệt thành sản phẩm độc đáo, thể hiện sức
sáng tạo tinh tế, giàu thẩm mỹ của cộng đồng dân thị tứ Hà Nội cuối TK XIX, đầu
TK XX.
Vạn Phúc sớm trở thành trung tâm tơ lụa, nơi nghề dê êt cổ truyền đạt đến đô ê
tinh xảo một phần là nhờ mối quan hệ tương tác, gắn bó chặt chẽ, hoàn chỉnh qua
các khâu: nuôi tằm, lấy kén, se tơ, quay tơ, dệt, phơi, nhuộm với các kỹ thuật được
quy định chặt chẽ. Sau khi nhập tơ tằm dạng thô, bước đầu tiên là chọn tơ, đẽo tơ,
mắc tơ thành loại sợi dọc, sợi ngang để dệt.
Trước khi hồ phải mắc cửi, kéo cửi, sấy khô để sợi không xước, bền, mặt sợi
bóng bẩy hơn. Kỹ thuật hồ sợi tại Vạn Phúc được nhiều vùng dệt tơ tằm quanh Hà
Nội đánh giá đạt trình độ cao, hoàn chỉnh hơn. Kỹ thuật dệt là công đoạn quan
trọng nhất với hai kiểu dệt: trơn và hoa.
Để tạo ra nhiều loại hàng đa dạng, nghệ nhân không chỉ nắm vững kỹ thuật
dệt trên khung, mà còn biết thay đổi phương pháp dệt dựa trên yếu tố: tính toán số
lượng sợi dọc (dày, mỏng), kích cỡ của sợi ngang (đôi, ba, bốn, sáu). Bằng cảm
nhận với kinh nghiệm lâu năm, người dệt thay đổi lượng sợi, độ to nhỏ, tạo ra sản
phẩm lụa khác nhau.
Sau khi tơ dệt thành vải, trên mặt còn các lỗi sợi, lúc này lụa bước vào công
đoạn chuội sợi. Trước đây phổ biến là kiểu chuội bằng tro bếp. Sau năm 1975, một
số gia đình đã áp dụng tiến bộ khoa học, chuội tơ bằng xà phòng, men vi sinh,
dung dịch a xit, kiềm, nhiệt độ cao...
Theo truyền thống, vải lụa được gột sạch hồ bằng nước bồ hòn nấu sôi, sau
đó nhúng vào nước lá bàng, lá sồi đun sôi nhiều lần, dấn lụa vào bùn nhuyễn (để
khoảng 3 ngày), tiếp tục vớt ra giặt rồi nhúng vào nước thóc nếp (rang cháy) đun
sôi để vải trở nên bóng, mịn. Đến giữa TK XX, những loại thuốc nhuộm hóa học
thay thế chất liệu nhuộm dân gian như: phương pháp hoạt tính (nhuộm trực tiếp)
hoặc dùng loại thuốc nhuộm chứa axit để tạo gam màu như ý muốn. Khi nhuộm từ
các màu: xanh, đỏ, vàng, trắng... sẽ điều chỉnh độ đậm nhạt, tạo nên nhiều màu sắc
như: xanh lam nhạt, xanh lam đậm, xanh nước biển, phải có bí quyết để nhuộm tơ
tằm đẹp, không phai màu.
Ông Lê Phúc Thành, nghệ nhân dệt lụa hiện nay giới thiệu công cụ nghề dệt
lụa gồm: khung cửi, thoi lao tay, thanh văng. Khi hồ thì có khung hồ, thanh nan hồ,
lao tay. Khi làm tơ thì sử dụng cần lồng sóc, cây guồng, ống tơ, cây suối, vỏ suối.
Khung cửi dệt có hai loại: dệt trơn và dệt hàng hoa. Khung cửi dệt hàng trơn cấu
tạo đơn giản, có một tầng và bàn go thẳng (go lãn), tùy theo từng thời kỳ mà bàn
go thẳng làm bằng tơ hay thép. Hai cửa khung cửi làm bằng gỗ tốt, đặt nằm ngang
trên bốn chân canh, chạy song song cách mặt đất khoảng 0,55m. Dựng trên hai
khung cửi là bốn chiếc trụ, chiều cao khoảng 1,19m. Trên đầu 4 trụ có để bộ song
hành, đòn gánh khổ, con cò.
Ngoài ra, còn có đòn ngồi (như ghế băng đóng vào hai chiếc cái của khung
cửi) là vị trí ngồi của người dệt. Khác với dệt trơn, khung dệt hàng hoa cấu tạo
phức tạp hơn. Về cơ bản, các bộ phận cấu tạo tương tự như khung dệt trơn nhưng
có thêm một số bộ phận khác như: cây hoa (1) nằm giữa khung cửi. Bên trong
chiếc khung có các sợi dây chạy song song theo chiều cao cây hoa.Không biết từ
bao giờ, câu ca dao:
“Em về Vạn Phúc cùng anh
Áo lụa em mặc thêm thanh vẻ người”
đã trở thành lời nhắn gửi tự hào của người dân Vạn Phúc, bởi lụa, gấm Vạn Phúc
trở nên quen thuộc đối với đời sống thị dân Thăng Long- Hà Nội. Thời nhà
Nguyễn, cùng với lĩnh Bưởi, the La, nhiễu Mỗ, lụa Vạn Phúc là loại vải chuyên
dùng may triều phục. Nổi bật là lụa vân, loại lụa tưởng thất truyền, nhưng vào dịp
Thăng Long ngàn năm tuổi (2010) đã tái xuất trở lại, những nét tinh xảo tạo vân
(mây) chìm nổi.
Muốn nhận biết phải soi ngoài ánh sáng mới hiển hiện màu sắc, hoa văn tinh
tế với những tên gọi thanh cao như: vân hồng điệp, vân song hạc, vân tứ quý.
Người có công khôi phục kỹ thuật dệt lụa vân là nghệ nhân Triệu Văn Mão, vốn
xuất thân từ một gia đình nổi tiếng dệt lụa. Lụa vân là loại hàng vải mỏng, nhẹ nhất
trong các loại. Khi dệt, người thợ phải áp dụng kỹ thuật dệt thủng để tạo hình vân.
Đây là một bí quyết nghề đòi hỏi người thợ có kinh nghiệm lâu năm, trình độ cao,
nắm vững cách chọn tơ, nếu lơ là hoặc không tập trung sẽ làm hỏng toàn bộ mặt
vải.
Khác với lụa, kỹ thuật dệt gấm khó nhất, đây là loại vải dày hơn lụa, có
nhiều màu sắc phong phú với tên gọi: gấm đỏ, gấm vàng, hồng cánh chấu, gấm
lam... Hoa cài trên mặt gấm nổi bật như được thêu, luôn tươi sáng, rực rỡ, thường
từ 5 màu trở lên (gấm ngũ, gấm thất thể). Do đó, trong dân gian vẫn truyền tụng,
coi gấm là vương hậu của hàng tơ lụa. Vào thời Lê, Nguyễn, chỉ có làng Vạn Phúc
mới đạt trình độ, sự tinh xảo để dệt được gấm.
Cùng với gấm, lụa, nghề dệt Vạn Phúc còn sản xuất nhiều mặt hàng từ tơ tằm
như: the, sa, băng quế, lĩnh, vóc, sa tanh... tất cả đều đạt tới tính thẩm mỹ cao với
nhiều dạng kỹ thuật dệt khác nhau. Đồng thời, các nghệ nhân liên tục cải tiến kỹ
thuật, sáng tạo nên mặt hàng phù hợp với điều kiện, nhu cầu xã hội đương thời.
Nếu vào đầu TK XX, gấm vóc luôn là loại hàng cao cấp, được tầng lớp quyền quý
đất Thăng Long ưa dùng, thì đến đầu TK XXI, lụa trở thành sản phẩm tiêu dùng
hấp dẫn, cuốn hút du khách khắp nơi về đây mua bán. Sự thay đổi của nền kinh tế
thị trường đòi hỏi nghề dệt lụa Vạn Phúc bắt buộc phải thích ứng nhanh nhạy, kịp
thời, đáp ứng nhu cầu cao của mọi tầng lớp. Điều này đang đặt ra những thách thức
về nguồn cung cấp, chất lượng tơ, cải tiến tổ chức, điều hành sản xuất trong giai
đoạn hiện nay. Mặc dù công đoạn dệt có nhiều thay đổi như: đưa máy móc, công
nghệ hiện đại thay thế khung cửi truyền thống, nhưng dệt bằng phương pháp thủ
công vẫn mang đậm giá trị văn hóa truyền thống
2.2. Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống
2.2.1. Khái niệm bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống
Vấn đề bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống được đề cập tới trong các
chương trình, dự án, chính sách của các địa phương, nhà nước trong quá trình phát
triển công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) nông thôn, phát triển ngành
nghề nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập.
Tuy nhiên, không có bất kỳ một định nghĩa rõ ràng về khái niệm “bảo tồn và phát
triển làng nghề truyền thống”.
Từ những lý luận về bảo tồn, phát triển và làng nghề truyền thống, thì khái
niệm “bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống” có thể được hiểu như sau: bảo
tồn và phát triển làng nghề truyền thống chính là việc giữ gìn và phát huy những
giá trị của làng nghề truyền thống về văn hóa, kinh tế, xã hội và làm cho nó không
bị mai một hay thất truyền. Bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống chính
là đảm bảo được yêu cầu kết hợp hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội. Đó là việc
đảm bảo giải quyết việc làm ngày càng đầy đủ cho lực lượng lao động hiện có và
các lực lượng lao động được bổ sung thường xuyên với quy mô ngày càng lớn ở
nông thôn. Đó là chính sách hiệu quả để giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội, giảm
tệ nạn xã hội, giảm bớt sự di cư từ khu vực nông thôn ra thành thị khi mà quá trình
đô thị hóa đang ngày càng tăng cao, điều này tạo ra những tác động tích cực đối
với xã hội.
Bên cạnh đó, bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống chính là giữ gìn
yếu tố truyền thống của làng nghề, bảo vệ các giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc.
Yếu tố truyền thống cũng có vai trò ảnh hưởng đối với sự phát triển của các làng
nghề truyền thống. Đây là nhân tố quan trọng không chỉ chi phối các hoạt động sản
xuất mà chi phối cả tiêu dùng và đời sống của cả người dân nông thôn. Yếu tố
truyền thống có tác dụng bảo tồn những nét đặc trưng văn hóa của làng nghề, của
dân tộc, làm cho sản phẩm làng nghề có tính độc đáo và có giá trị cao. Tuy nhiên
trong nền kinh tế thị trường đang ngày càng phát triển, công nghệ kỹ thuật ngày
càng phát triển.
Việc sử dụng công nghệ khoa học tiên tiến để tăng năng suất lao động, đem
lại hiệu quả kinh tế cao hơn, nhưng yếu tố truyền thống dần mất đi trong các sản
phẩm đó. Làm sao để vừa có thể đưa được những tiến bộ khoa học –công nghệ
hiện đại vào trong các sản phẩm làng nghề và vừa giữ được những yếu tố truyền
thống mang đậm bản sắc dân tộc và những sản phẩm làng nghề đó phải được tiếp
nhận trên thị trường hiện nay, đây luôn là một câu hỏi khó cho vấn đề bảo tồn và
phát triển các làng nghề truyền thống.
Tóm lại, bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống đóng một vai trò quan
trọng trong nền kinh tế hiện đại. Chỉ khi chúng ta bảo tồn và phát triển được các
làng nghề truyền thống thì làng nghề truyền thống mới phát huy được những
vai trò của nó đối với kinh tế, văn hóa, xã hội.
2.2.2. Các quan điểm cơ bản về bảo tồn và phát triển làng nghề truyền
thống
Theo TS. Tôn Gia Hoá –Phó Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam, trong bài
tham luận “Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống rất cần một hệ thống chính
sách đồng bộ của Nhà nước”, ông cho rằng “Nghề truyền thống” vốn dĩ hình thành
từ nhu cầu đời sống của người dân và đã trải qua hàng thập kỷ, thậm chí hàng thế
kỷ. Chính vì lý do đó mà Bảo tồn và phát triển nó cũng phải do chính nhu cầu của
các nghệ nhân, cộng đồng làng nghề đó tự quyết định. Từ lý lẽ này mà xét thì
Chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực này phải phù hợp với nguyện vọng của
Người dân, đáp ứng được lợi ích thực sự của các nghệ nhân, thợ thủ công, những
người “thổi hồn” cho các sản phẩm để tạo nên “Nghề truyền thống”.
Để bảo tồn hay phát triển một làng nghề truyền thống nào đó, không đơn
giản là lo xây dựng cơ sở hạ tầng, đường xá... mà cốt lõi là phải làm cho sản phẩm
làng nghề có chỗ đứng trên thị trường, có nghĩa là người nghệ nhân phải sống được
bằng nghề truyền thống như hàng trăm năm trước đây cha ông họ đã vì kiếm sống
mà sản sinh ra nghề. Trong cuốn sách “Bảo tồn và phát triển làng nghề trong quá
trình Công nghiệp hóa”, tác giả TS. Dương Bá Phượng đã đưa ra năm quan điểm
cơ bản như sau:
Một là, bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống trên quan điểm đánh
giá đúng vai trò và vị trí mới của làng nghề trong quá trình CNH, HĐH,
Hai là, bảo tồn và phát triển các làng nghề phải trên quan điểm toàn dụng lao
động nông thôn và thực hiện phương châm “ly nông bất ly hương”,
Ba là, bảo tồn và phát triển các làng nghề phải trên quan điểm kết hợp yếu tố
truyền thống với hiện đại, kết hợp phát triển tiến hóa tuần tự với phát triển rút
ngắn nhảy vọt và sự kết hợp các loại trình độ công nghệ trong quá trình CNH,
HĐH nông thôn.
Bốn là, bảo tồn và phát triển các làng nghềp hải trên quan điểm huy động tối
đa mọi nguồn vốn trong dân vào phát triển kinh tế và đa dạng hóa các hình thức tổ
chức sản xuất –kinh doanh trong các làng nghề.
Năm là, bảo tồn và phát triển các làng nghề phải trên quan điểm phát triển
kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển toàn diện nông thôn.
Theo như quyết định số: 2636/QĐ-BNN-CB về việc phê duyệt “Chương trình
bảo tồn và phát triển làng nghề” cũng đã đề cập tới bốn quan điểm rõ ràng về vấn
đề bảo tồn và phát triển làng nghề.
- Một là, bảo tồn và phát triển làng nghề trên cơ sở phát triển hài hòa giữa sản
xuất hàng hóa với bảo vệ môi trường và gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa truyền
thống theo hướng bảo tồn để phát triển và phát triển để bảo tồn.
- Hai là, bảo tồn và phát triển làng nghề phải kết hợp phát triển hài hòa các cơ
sở ngành nghề quy mô vừa và nhỏ, đa dạng hóa các hình thức tổ chức sản xuất
kinh doanh trong các làng nghề, chú trọng phát triển các hợp tác xã, doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở nông thôn ở làng quê.
- Ba là, bảo tồn và phát triển làng nghề trên cơ sở phát huy sự tham gia của
cộng đồng gắn liền với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn, từng bước hình thành các thị trấn, thị tứ và phát triển nông thôn mới.
- Bốn là, bảo tồn và phát triển làng nghề phải gắn với thị trường, và hội nhập
kinh tế quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu, phù hợp phát triển kinh tế xã hội và phát huy
lợi thế so sánh của mỗi vùng, mỗi địa phương, góp phần tạo việc làm, tăng thu
nhập, xóa đói giảm nghèo, giảm dần khoảng cách thu nhập giữa thành thị và nông
thôn. Ngoài ra, cũng có rất nhiều quan điểm khác liên quan đến vấn đề này. Những
quan điểm này đã được đề cập trong các đề án nghiên cứu của các cá nhân, tổ
chức.
Cụ thể như sau: Bảo tồn và phát triển nghề và làng nghề trên cơ sở phát triển
hài hòa giữa sản xuất với bảo vệ môi trường và giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa
truyền thống của từng địa phương. Bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề phải phát
huy sự tham gia của cộng đồng gắn với sự hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức quốc
tế, góp phần tạo việc làm tại chỗ, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo ở khu vực
nông. Bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn với hiện đại hóa nông nghiệp -nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
Lựa chọn để phát triển một số ngành nghề và làng nghề theo hướng bền vững, thân
thiện với môi trường, mang những nét văn hoá độc đáo riêng của địa phương và sử
dụng nguồn lao động tại chỗ.
Do đó phải bảo tồn và phát triển các nghề, làng nghề truyền thống mà sản
phẩm đòi hỏi chuyên môn và thợ thủ công có tay nghề cao, có giá trị kinh tế, giá
trị văn hóa, có thị trường tốt cả trong và ngoài nước như các mặt hàng thủ công mỹ
nghệ: gốm sứ, sơn mài, khảm trai, thêu ren, mây tre đan, điêu khắc, kim hoàn...bên
cạnh việc phát triển các làng nghề kết hợp với du lịch thông qua việc cải thiện khả
năng tiếp cận các khu du lịch, các tuyến du lịch được quy hoạch và xây dựng. Đầu
tư đồng bộ từ việc đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý, cán bộ
kỹ thuật để sáng tác mẫu mã, nâng cao trình độ tay nghề cho thợ trẻ, gắn với đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở nông thôn và đầu tư xử lý môi trường làng nghề
đảm bảo phát triển bền vững. Hỗ trợ phát triển sản phẩm mới sử dụng công nghệ,
kỹ thuật truyền thống, sử dụng nguyên vật liệu, lao động tại chỗ kết hợp với tổ
chức khai thác nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước. Tổ chức lại một số làng nghề
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng bằng cách tập trung đầu tư xây dựng các
cụm công nghiệp làng nghề phù hợp với quy hoạch tổng thể của thủ đô và các quy
hoạch liên quan tạo mặt bằng cho các cơ sở và các tổ chức dịch vụ làng nghề, đồng
thời xử lý ô nhiễm môi trường tập trung.
Như vậy, các quan điểm về bảo tồn và phát triển làng nghề được đưa ra đã rõ
ràng và phù hợp với xu thế phát triển hiện nay. Tuy nhiên, việc bảo tồn và phát
triển làng nghề nói chung và làng nghề truyền thống nói riêng không dễ và để thực
hiện được trên cơ sở những quan điểm này cần có một sự linh hoạt trước hết ở bộ
máy quản lý nhà nước, địa phương, cơ quan ban hành chính sách sau đó là cần sự
hỗ trợ từ cộng động, quan trọng đó là người dân làng nghề những người trực tiếp
tham gia giữ nghề và phát triển nó
2.2.3. Quản lý, bảo tồn và khai thác tiềm năng văn hóa làng nghề lụa Vạn Phúc
Từ nghề dệt lụa, làng lụa Vạn Phúc đã và đang biến đổi trong những năm
gần đây, đặc biệt, trở thành một địa chỉ hấp dẫn của ngành du lịch Hà Nội. Cùng
với Bát Tràng, nơi nổi danh nghề làm gốm, sứ, làng lụa Vạn Phúc được các công ty
du lịch chọn làm điểm tham quan, mua bán cho khách trong và ngoài nước. Khi
nhắc đến làng Vạn Phúc, Hà Đông, trong tâm trí mọi người đều nghĩ tới làng nghề
cửi canh nổi tiếng, tiêu biểu cho nét đẹp lịch lãm của các cô gái, chàng trai 36 phố
phường Thăng Long xưa, Hà Nội nay.
Vạn Phúc đang xây dựng các tour du lịch văn hóa. Đến đây, du khách như
bước vào một làng quê còn in đậm dấu ấn văn hóa của người dân ven đô với cách
đón chào niềm nở, chân tình. Khách du lịch được tham gia vào lễ hội cổ truyền, trò
chơi dân gian, tìm hiểu những phong tục tập quán của người dân làng nghề. Trong
thực tiễn, số hộ làm nghề dệt, bán hàng tơ lụa ngày càng nhiều, dân số Vạn Phúc
tăng nhanh. Các phương tiê ên như máy dê êt, quay tơ theo dây chuyền hiê nê đại xuất
hiện phổ biến. Thị trường lụa Vạn Phúc đa dạng, phù hợp với thị hiếu của du khách
trong, ngoài nước. Ngoài vải, quần áo, lụa Vạn Phúc biến hóa vào các sản phẩm
cao cấp: chăn, ga, gối, khăn, túi, ví, những mặt hàng làm quà lưu niệm.
Hiện nay, khách du lịch đến Vạn Phúc thường chọn mua lụa vân, loại vải có
thể mặc quanh năm, mùa đông ấm áp, mùa hè thoáng mát, hình hoa văn trang trí
trên lụa phong phú, gọi theo tên truyền thống: song hạc, thọ đỉnh, tứ quý. Dọc theo
con đường tơ lụa, các cửa hàng bày bán tơ tằm liên tiếp nối nhau thành cảnh quan
sầm uất, nhộn nhịp, đáp ứng mọi nhu cầu, sở thích khác nhau của du khách. Sản
phẩm lụa Vạn Phúc đa dạng nhiều mẫu mã khác nhau như: hàng trơn, hàng khổ
rộng, hàng tơ tằm nguyên chất, hàng vân, lụa thường, ngang xe, dọc tơ chập, ngang
tơ chập... làm hài lòng du khách khi tới đây.
Làng nghề dê êt lụa Vạn Phúc là điểm nhấn đầu tiên, được nhiều công ty du
lịch khách sạn khai thác như: Sông Nhuệ, Vietnamtourist, Saigontourist, Viettravel,
trở thành không gian văn hóa lụa mua bán nổi tiếng ở thủ đô. Thông qua hoạt đô nê g
du lịch tại Vạn Phúc, sự phục hồi, tái tạo các giá trị lịch sử được quan tâm, phát
triển qua phương thức: trao đổi hàng hóa, quảng bá sản phẩm. Do đó, đời sống
nghê ê nhân, thợ, người kinh doanh được nâng cao, kinh tế tăng trưởng góp phần
tích cực công tác bảo tồn văn hóa truyền thống.
Chính sự bền vững về chất lượng của lụa Vạn Phúc, hiện nay xuất hiện ngày
càng nhiều hàng giả. Mặt trái của cơ chế thị trường đang xói mòn, gây những ảnh
hưởng tiêu cực đến uy tín, thương hiệu vải lụa Hà Đông. Theo nghệ nhân Đỗ
Quang Hùng, cách đánh giá, kiểm tra lụa từ tơ tằm 100%, phân biệt giữa lụa chính
thống (tơ tằm) với hàng nhái (làm từ sợi nilon, cotton) là: dùng bật lửa đốt cháy sợi
ngang của vải, nếu sợi bị đốt sẽ cháy tức thì, sau đó, dùng tay bóp nhẹ thấy tan
ngay thành than, bóp than thấy mịn thì chính là lụa tơ tằm 100%. Còn nếu sợi vải
bị sun lại, mùi khét, dùng tay bóp nhẹ bị lợn cợn là lụa pha tạp sợi nilon. Nghệ
nhân cho biết lụa Vạn Phúc đẹp, chất lượng, nhưng ít người có thể phân biệt lụa do
người làng Vạn Phúc sản xuất với loại lụa từ nơi khác.
Hiện nay lụa Vạn Phúc thông thường chia làm hai loại chính, loại cao cấp là
sa tanh được làm từ 100% sợi tơ nguyên chất, có thể chập đôi hoặc chập ba rồi se
lấy sợi để dệt. Hoặc loại được pha với tỷ lệ 30%, 50%, 70% giữa tơ tự nhiên với
sợi tổng hợp như cotton hay tơ nhân tạo (được làm từ sợi visco, polyester).
Đến làng lụa Vạn Phúc, du khách không chỉ lựa chọn, mua được tấm lụa ưng
ý, mà còn tìm hiểu, nghe kể những câu chuyện truyền thuyết gắn liền với ngôi làng
truyền thống này qua hệ thống đình chùa, miếu mạo, nơi thờ tổ nghề. Đình Vạn
Phúc có hậu cung, trung đình, phương đình, nhà quan cư (bên tả bên hữu) chạy dọc
2 bên, trước mặt đình là hồ nước rộng. Trong đình thờ thành hoàng làng Ả Lã Thị
Nương. Bên cạnh có miếu Vạn Phúc nổi tiếng linh thiêng với lối kiến trúc độc đáo
không mái che (lộ thiên). Trong miếu đặt bệ thờ, bên cạnh là nhà quan cư nhỏ, nơi
thờ Dương Cảnh thành hoàng Quốc vương Thiên Tử Nga Hoàng Đại Vương,
người có công xây dựng làng Vạn Bảo xưa.
Trở thành địa điểm du lịch, Vạn Phúc ngày nay là phố lụa với các cửa hàng
đủ kiểu loại phục vụ du khách. Hiện nay, nghề dệt Vạn Phúc đã đạt được nhiều
thành công lớn nhưng cũng đang gặp phải nhiều thách thức không nhỏ. Hàng giả,
hàng nhái trộn lẫn với hàng thật, kẻ mua người bán thời hiện đại đã và đang làm
hình ảnh lụa Vạn Phúc thiếu vắng sự trung thực, một yếu tố quan trọng để chất
lượng lụa Vạn Phúc bay cao trên đôi cánh uy tín. Chính vì vậy, cần có những chính
sách, biện pháp thích hợp để lưu giữ và quảng bá những giá trị văn hóa truyền
thống của làng lụa Vạn Phúc, Hà Đông.
CHƯƠNG 2. GIỚI THIỆU VỀ NGHỂ LỤA VẠN PHÚC
HÀ ĐÔNG - HÀ NỘI
2.1. Nghề dệt ở làng lụa Vạn Phúc - Hà Đông - Hà Nội
Để làm nên những sản phẩm tơ lụa đặc sắc, người thợ ở làng lụa Vạn Phúc
phải thực hiện một quy trình sản xuất công phu bao gồm nhiều khâu như: tơ, hồ
sợi, dệt, nhuộm, căng phơi... Ngay từ khâu tơ, người thợ không chỉ quấn sợi vào
ống đơn thuần mà còn phải chọn sợi, đẽo sợi để đảm bảo sợi tơ có màu trắng, bóng
nhẵn, không sùi lông, trị số tơ phải đều, sau đó mắc sợi, lựa chọn riêng sợi dọc, sợi
ngang.
- Sợi sau khi tơ phải đem hồ. Việc hồ sợi chỉ thực hiện với loại sợi dọc và đòi
hỏi kỹ thuật cao. Người thợ phải pha thêm sáp ong vào hồ để hồ sợi, đồng thời sử
dụng bí quyết riêng để làm cho sợi sau khi hồ vừa dẻo, vừa dai, vừa bóng.
- Hồ tơ xong thì dùng khung cửi để dệt. Nếu dệt lụa trơn thì dùng 2 loại go
thẳng và go vòng. Go thẳng để dệt lụa mỏng mịn, còn go vòng dệt lụa có chấm
thủng. Dệt hoa cũng có thao tác như dệt trơn nhưng khác ở chỗ trước khi dệt cần
phải vẽ trước kiểu hoa lên giấy. Thợ dệt đặt mẫu lên bàn khâu hoa rồi một người
dệt chính, một người cài hoa phụ. Dân gian gọi dệt hoa là dệt kép để phân biệt với
cách dệt đơn giản khi làm lụa trơn.
- Ở khâu nhuộm thì không phải loại lụa nào cũng đem nhuộm mà có loại để
trắng tinh khiết, ngả màu vàng ngà như lụa nõn. Có loại được nhuộm màu ngay từ
khâu sợi như gấm, vóc nhưng có loại như lĩnh, the chỉ nhuộm khi đã dệt xong...
Người thợ làng lụa Vạn Phúc còn đòi hỏi phải khéo léo và điêu luyện, để hoàn
thiện trang trí hoa văn trên lụa một cách tinh xảo. Họ sử dụng những đề tài trang trí
từ nghệ thuật truyền thống rồi sáng tạo thêm để thích ứng với từng chất liệu dệt,
như Ngũ Phúc (năm con dơi quanh chữ Thọ), Long Vân (rồng và mây), Thọ Đỉnh
(lư hương và chữ Thọ), Quần Ngư Vọng Nguyệt (đàn cò trông trăng), Hoa Lộc
(bông hoa trên chồi biếc)... và cho ra đời những sản phẩm đẹp mắt.
Với thương hiệu nổi tiếng và nghề truyền thống lâu đời, một chuyến du lịch
làng lụa Vạn Phúc (Hà Đông, Hà Nội) hứa hẹn sẽ mang lại nhiều điều thú vị. Đến
đây, du khách vừa có dịp mua sắm các sản phẩm lụa chính hiệu, vừa được dịp quan
sát quy trình làm ra tấm lụa của các nghệ nhân tài hoa.
2.2. Đặc điểm và các sản phẩm từ tơ lụa Vạn Phúc
Với bàn tay tinh tế và sự sáng tạo không ngừng của người dân Vạn Phúc, các
sản phẩm dệt ra từ tơ tằm rất phong phú, đa dạng như: lụa, là, gấm, vóc, vân, the,
lĩnh, băng, sa, xuyến, đoạn, nhiễu, đũi, cấp, kỳ cầu …
Các sản phẩm lụa truyền thống
Xưa kia người dân làng Vạn Phúc đã làm ra đủ các thứ hàng: Hàng đơn, hàng
kép dọc ngang tinh tường. Lượt, là, lĩnh, lụa, xuyến, lương . Đoạn, vân, gấm, vóc,
sa, băng, kỳ cầu .
Những mặt hàng có nền dày gồm:
- Gấm:
Nền dày, bóng như xa tanh. Nền gấm thường có những hoa văn, chữ triện hay
chữ thọ với sắc màu tươi, sặc sỡ bằng kim tuyến, ngân tuyến được dệt như thêu.
Một tấm gấm thường có nhiều màu, phổ biến là năm màu: xanh, đỏ, tím,
vàng,trắng hay bảy màu, gọi là gấm ngũ thể hay thất thể. Do sợi ngang ( tạo hoa
nổi lên trên ) và sợi dọc ( tạo nền chìm ở dưới ) đều được nhuộm màu nên khi có
ánh sáng, đứng ở mỗi góc cạnh khác nhau, ta sẽ thấy mình gấm có các màu sắc
khác nhau.
Gấm có vẻ đẹp lộng lẫy, rực rỡ nên ngày xưa dân thường không được dùng, chỉ
có vua, quan mặc được mà thôi.Vua mặc gấm vàng có hai rồng chầu mặt nguyệt
hay hổ phù. Còn gấm may lễ phục cho các quan thường là gấm hoa tròn hay gấm
hoa bạ.
Có câu: “ Dệt gấm, thêu hoa ”
- Vân:
Là mặt hàng xếp thứ nhì sau gấm. Hàng vân có nền lụa, mỏng hơn xa tanh, bao
giờ cũng có hai kiểu hoa dệt trên một tấm vân: hoa nổi và hoa chìm; Hoa nổi bóng
mịn, còn hoa chìm phải đưa lên ánh sáng mới thấy được. Đó là nét độc đáo của
hàng vân, nhờ có hoa thủng như vậy, nên các áo lót bên trong sẽ nổi màu lên rất
đẹp khi mặc áo ngoài may bằng vân.Vân được dùng dễ may áo dài mặc vào dịp hội
hè, đình đám.
Những mặt hàng dày có số lượng sợi dọc nhiều là:
- Lĩnh (lãnh):
Sợi mịn, một mặt bóng, một mặt mờ do khi dệt đưa sợi dọc lên nhiều tạo nên sự
bóng loáng cho mặt hàng. Lĩnh thâm (đen ) trơn rất thông dụng, dùng may váy,
quần cho phụ nữ, ngoài lĩnh trơn còn có lĩnh hoa dầy dặn, có điểm lấm tấm hoa
mịn màng, kín đáo, có tên riêng là lĩnh hoa chanh, nổi tiếng nhất là lĩnh Bưởi đen
Nhánh, óng mượt.
- Đoạn:
Đoạn cũng được dệt theo cách thức của lĩnh, nhưng dày hơn, sợi dọc nhiều hơn
cả gấm. Đặc biệt sợi dọc, sợi ngang nổi đều nhau, mịn màng, óng ả. Đoạn dùng để
may áo dài cho nam giới mặc vào những dịp long trọng .Do hàng đoạn dày nên
người ta thường may áo đoạn bọc lụa bên trong mặc vào mùa lạnh.
-Vóc:
Là một thứ đoạn mỏng, có hoa, dệt bằng sợi đồng màu, dùng làm tán thờ thần
hay may y phục cho vua chúa, quan lại. Vóc thường đi chung với gấm: gấm vóc.
Những mặt hàng dệt thủng( thưa):
-The:
Sợi dệt bóng và mảnh, sợi dọc rất ít nên the thưa. Dệt the là bố trí các sợi
dọc và ngang không khít nhau, tạo nên hình thủng theo hàng ngang. The có nhiều
loại: the đơn ( mỏng ), the kép ( dầy ), và the hoa. The được nhuộm thâm để may
áo
mặc
bên
ngoài,
hay
chuội
cho
trắng
để
mặc
mùa
nóng.
Đối với dân thường, áo the được coi là sang nhất và rất phổ biến. Những hàng the
dùng may y phục tế lễ gọi là hàng địa, thường có hoa văn đặc biệt như: song hạc,
hổ phù, thủy ba gợn sóng
Sa, xuyến, băng cũng tựa như the, là các loại hàng mỏng, bóng và bền: vì khi giặt
không bị xô dạt sợi, dù mỗi mặt hàng mỗi vẻ khác nhau
-
Sa:
Sa được dệt rất mỏng nên trong suốt, tạo nên những đường vân óng ánh rất
đẹp nếu mặc áo trong màu trắng. Sa mỏng và mát nên thường được mặc vào mùa
hè. Có sa đơn và xa hoa. Xa hoa có nhiều loại: đặc biệt là sa thất thể và sa cung
đình ( dùng may áo long bào cho vua mặc vào mùa nóng )
- Xuyến (quyến ):
Xuyến như sa, có cát nổi ngang, mỏng hơn the trơn và thoáng trông tựa mành
mành do sợi dầy xen lẫn sợi thưa. Xuyến mắc hơn the.
- Băng:
Cũng là mặt hàng thủng, trong suốt, có hoa lác đác, nhẹ hơn the.
- Cấp:
Mỏng gần giống như the, lượt và thường có hoa.
- Lượt:
Mặt hàng dệt thưa, mỏng, mịn, rất mềm, dùng may khăn, áo.
- Lương:
Có lương đơn và kép, dùng để may áo dài, làm khăn.
Các sản phẩm dệt khác:
- Lụa:
Có hai loại: lụa trơn và lụa hoa , dệt bằng tơ nõn sao cho sợi dọc và sợi ngang khít
với nhau, tạo nên vẻ mịn màng, óng ả và độ dày vừa phải.
- Là:
Cùng họ với lụa, dệt bằng tơ nõn, có những đường dọc nhỏ đều, thường được dùng
làm khăn màu hay nhuộm màu để làm các phần đổi màu trong y phục.
- Xem thêm -