Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tài chính - Ngân hàng Ngân hàng - Tín dụng Tìm hiểu vai trò và trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước đối với việc tái cơ cấu c...

Tài liệu Tìm hiểu vai trò và trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước đối với việc tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và ý kiến pháp lý của cá nhân

.DOCX
22
804
126

Mô tả:

bài tập lớn Luật Ngân Hàng
MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU................................................................................................................ 1 B. NỘI DUNG............................................................................................................ 1 I. TÁI CƠ CẤU CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG........................................................1 1. Cơ sở pháp lý:..................................................................................................... 1 2. Các khái niệm về Ngân hàng Nhà nước, tổ chức tín dụng và vấn đề tái cơ cấu các tổ chức tín dụng.................................................................................................. 1 3. Thực tiễn của việc tái cơ cấu các tổ chức tín dụng tại Việt Nam.......................3 3.1. Tại sao phải thực hiện tái cơ cấu các TCTD?.............................................3 3.2. Mục tiêu, lộ trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD........................................5 3.3. Nguyên tắc cơ cấu lại các tổ chức tín dụng.................................................6 3.4. Phương thức, lộ trình cơ cấu lại.................................................................7 II. VAI TRÒ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC TÁI CƠ CẤU CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG....................................................9 1. Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước............................................................9 2. Vai trò của Ngân hàng Nhà nước......................................................................9 2.1 Ngân hàng nhà nước tiến hành phân loại tổ chức tín dụng để tiến hành tái cơ cấu.............................................................................................................. 10 2.2 Ngân hàng Nhà nước đánh giá, xác định thực trạng hoạt động, chất lượng tài sản và nợ xấu của các tổ chức tín dụng...............................................10 2.3 Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại một cách quyết liệt trong việc thực hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng nguồn dự phỏng rủi ro để chủ động xử lý nợ xấu................................................................................10 2.4 Đề ra các phương pháp để tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và hướng dẫn các tổ chức này thực hiện....................................................................................11 2.5 Ngân hàng Nhà nước đóng vai tro chỉ đạo trong việc triển khai đầy đủ các nội dung Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 – 2015” và đạt được một số kết quả nhất định.......................................................................11 3. Một số kết quả thu được từ quá trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng............12 III. Ý KIẾN PHÁP LÝ CỦA CÁ NHÂN VỀ VẤN ĐỀ TÁI CƠ CẤU CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG..................................................................................................... 13 C. KẾT LUẬN.......................................................................................................... 15 D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................16 0 A. MỞ ĐẦU Kể từ cuối năm 2011, nền kinh tế nước ta đang phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức như tăng trưởng GDP đang có xu hướng giảm dần, lạm phát luôn ở mức cao hơn nhiều so với mức lạm phát bình quân của các nền kinh tế khu vực thế giới; các cân đối vĩ mô chưa vững chắc; sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, thách thức; số doanh nghiệp phải giải thể, tạm ngừng sản xuất hoặc thu hẹp quy mô sản xuất tăng; nợ xấu của các tổ chức tín dụng tiếp tục gia tăng, một số tổ chức tín dụng gặp khó khăn về thanh khoản. Để khắc phục những yếu kém nội tại đó, Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt. Hội nghị Trung ương 3 khoá XI (tháng 10-2011) đã quyết định các nội dung cơ bản tái cơ cấu kinh tế trong đó tập trung ưu tiên tái cơ cấu 3 lĩnh vực quan trọng nhất trong đó có tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng. Nhận thức được tầm quan trọng và cấp thiết đó, em xin được chọn đề tài: “Tìm hiểu vai trò và trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước đối với việc tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và ý kiến pháp lý của cá nhân” cho bài tập học kỳ của mình. Trong quá trình làm bài cũng như tham khảo các tài liệu không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! B. NỘI DUNG I. TÁI CƠ CẤU CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG 1. Cơ sở pháp lý: - Luật Ngân hàng Nhà nước 2010 - Luật các Tổ chức tín dụng 2010 - Quyết định số 254/QĐ-TTg về phê duyệt đề án “Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”. - Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 19/2/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020. - Quyết Định 843/2013/QĐ TTg Đề án "Xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng" và Đề án "Thành lập Công ty Quản lý tài sản (VAMC) của các tổ chức tín dụng Việt Nam" 2. Các khái niệm về Ngân hàng Nhà nước, tổ chức tín dụng và vấn đề tái cơ cấu các tổ chức tín dụng. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) 1 Luật Ngân hàng Nhà nước 2010 không đưa ra khái niệm về Ngân hàng Nhà nước tuy nhiên tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 2 lại xác định vị trí của Ngân hàng: “1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước) là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương (NHTW) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2.Ngân hàng Nhà nước là pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, có trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội.” Như vậy, có thể hình dung Ngân hàng Nhà nước như sau: NHNN là một cơ quan Nhà nước thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. NHNN là một định chế hành chính thực hiện chức năng cung ứng dịch vụ ngân hàng cho chính phủ và cho hệ thống các tổ chức tín dụng. NHTW là cầu nối giữa chính phủ với nền kinh tế, giữa thị trường tài chính, tiền tệ trong nước và ngoài nước, các tổ chức tài chính quốc tế. Các tổ chức tín dụng Theo Khoản 1 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân” Xét về bản chất, tổ chức tín dụng là doanh nghiệp. Tuy nhiên, tổ chức tín dụng có những đặc điểm riêng mà dựa vào đó có thể nhận biết, phân biệt chúng với các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực, ngành nghề khác trong nền kinh tế. - Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật Các Tổ chức tín dụng và những quy định khác của pháp luật. - Nội dung hoạt động của doanh nghiệp là kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng mà cụ thể là thực hiện hoạt động huy động vốn, sử dụng vốn, cấp tín dụng và thực hiện hoạt động thanh toán Tái cơ cấu Tổ chức tín dụng (TCTD) Theo từ điển Bách Khoa toàn thư Wikipedia: Tái cơ cấu là việc xem xét và cấu trúc lại một phần, một số phần hay toàn bộ một tổ chức, một đơn vị nào đó, mà thường là một công ty. Ngoài việc tổ chức cho một công ty về các mảng chức năng (như là sản xuất, kế toán, tiếp thị, v.v...) và xem xét các nhiệm vụ mà mỗi chức năng thực hiện, theo lý thuyết tái cơ cấu, chúng ta còn phải chú ý tới các quy trình hoàn thiện 2 từ khâu tìm kiếm các nguyên liệu, cho tới các khâu sản xuất, tiếp thị và phân phối. Công ty cần được tái cơ cấu qua một loạt các quy trình.1 Tái cơ cấu các tổ chức tín dụng có thể được hiểu là tập trung lành mạnh hóa tình trạng tài chính và củng cố năng lực hoạt động của các tổ chức tín dụng; cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng; nâng cao trật tự, kỷ cương và nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng. Và để tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng thành công, cần tập trung xử lý một số nội dung chính, gồm tái cơ cấu các ngân hàng thương mại yếu kém; xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và tái cơ cấu tổng thể, toàn diện cả hệ thống nói chung và từng tổ chức tín dụng nói riêng. 3. Thực tiễn của việc tái cơ cấu các tổ chức tín dụng tại Việt Nam 3.1. Tại sao phải thực hiện tái cơ cấu các TCTD? Báo cáo Tổng quan thị trường tài chính 2015 được Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia công bố cho thấy, đến cuối năm 2015, hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam đang có tổng cộng 118 tổ chức tín dụng thành viên, chia làm 4 nhóm: Ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng Thương mại cổ phần, Ngân hàng liên doanh và Ngân hàng nước ngoài; Công ty tài chính; Ngân hàng hợp tác xã (quỹ tín dụng nhân dân). Chiếm số lượng lớn nhất trong số đó là nhóm Ngân hàng liên doanh và Ngân hàng nước ngoài với 55 tổ chức; kế đến nhóm các Công ty tài chính với 27 tổ chức; nhóm các NHTM Cổ phần có 28 tổ chức; nhóm các Ngân hàng thương mại Nhà nước là 7 tổ chức; và có duy nhất 1 Ngân hàng Hợp tác xã. Trong số này, nhóm các ngân hàng thương mại cổ phần biến động mạnh nhất, giảm từ con số 37 tổ chức vào năm 2011 về còn 34 tổ chức vào năm 2012, , xuống 33 tổ chức trong năm 2013 và 2014; đến cuối 2015, giảm mạnh về mức 28 tổ chức. Trong khi, nhóm Ngân hàng thương mại Nhà nước là nhóm duy nhất tăng lên về số lượng, từ mức 5 tổ chức trong các năm trước đó lên thành 7 trong năm 2015. Hoạt động ngân hàng tự nó đã chứa đựng rất nhiều rủi ro và khi những rủi ro đó tích tụ, trở nên quá lớn do tác động của các yếu tố bên ngoài như bất ổn kinh tế vĩ mô, khủng hoảng kinh tế thế giới, thị trường chứng khoán hay thị trường bất động sản lao dốc hay do các yếu tố bên trong như quản trị rủi ro bất cập, quy trình tín dụng không hoàn chỉnh, đầu tư mạo hiểm, trình độ năng lực và đạo đức của đội ngũ không đáp ứng yêu cầu,… thì ngân hàng sẽ không thể tránh khỏi đổ vỡ nếu không được cơ cấu lại. Cho đến nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam đang đối mặt với những rủi ro ngày một gia tăng, nổi bật là: 1 https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A1i_c%C6%A1_c%E1%BA%A5u_(doanh_nghi%E1%BB%87p) 3 - Rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng là những rủi ro do khách hàng vay không thực hiện đúng các điều khoản của Hợp đồng tín dụng, với biểu hiện cụ thể là khách hàng chậm trả nợ, trả nợ không đầy đủ hoặc không trả nợ khi đến hạn các khoản gốc và lãi vay, gây ra những tổn thất về tài chính và khó khăn trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng. Khi nền kinh tế tăng trưởng chậm lại, người vay nợ gặp khó khăn thì rủi ro tín dụng gia tăng, nhất là trong những trường hợp ngân hàng quá dễ dãi trong việc cấp tín dụng cho vay và không thực hiện trích lập dự phòng rủi ro tín dụng đầy đủ. Mặt khác, do một số tổ chức tín dụng mới thành lập nên mặc dù qui mô vốn không lớn song vẫn cần tăng nhanh qui mô tín dụng để qui mô tài sản có phù hợp với qui mô vốn, đồng thời, nhằm đáp ứng yêu cầu lợi nhuận của cổ đông, cũng như thỏa mãn tham vọng nhanh chóng vươn lên bằng các tổ chức tín dụng có qui mô lớn và bề dày kinh nghiệm khác. Trong điều kiện đó, những ngân hàng này đã bất chấp các qui tắc về an toàn vốn, về quản trị rủi ro để đạt tốc độ tăng tín dụng tới hàng chục phần trăm mỗi năm, kể cả tín dụng cho những lĩnh vực rủi ro cao. Ngoài ra, rủi ro đạo đức do sử dụng vốn tín dụng sai mục đích cũng tăng cao, hậu quả là tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng mạnh. Theo công bố của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng đã tăng từ 2,2% tổng tín dụng vào cuối năm 2010 lên 3,1% vào giữa năm 2011 và có xu hướng tăng liên tục, trong đó, gần một nửa là nợ xấu có khả năng mất vốn. 2 Tuy nhiên, đến năm 2015 tỷ lệ nợ xấu (không có khả năng thanh toán (NPLs)/tổng tín dụng) trong tháng 9 đạt mức 2,9%, giảm đáng kể so với mức 4,2% tại thời điểm cùng kỳ năm 2014 do Ngân hàng Nhà nước đã và đang tái cấu trúc bằng cách sáp nhập các ngân hàng yếu kém trong hệ thống hay mua lại những ngân hàng này với giá 0 đồng, điều chưa từng có trong tiền lệ. - Rủi ro thanh khoản Rủi ro thanh khoản là loại rủi ro khi các tổ chức tín dụng không có khả năng cung ứng đầy đủ lượng tiền mặt cho nhu cầu thanh khoản tức thời; hoặc cung ứng đủ nhưng với chi phí cao. Nói cách khác, đây là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp các tổ chức tín dụng thiếu khả năng chi trả do không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền mặt hoặc không thể vay mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán. Do một số TCTD có tốc độ tăng dư nợ tín dụng quá cao trong khi quy mô vốn còn hạn chế nên tính thanh khoản của những TCTD này xuống thấp, 2 http://ameco.com.vn/ameco-online/tam-nhin/849-co-cau-lai-he-thong-ngan-hang-viet-nam.html 4 thậm chí có những thời điểm mất tính thanh khoản. Hậu quả là, để bảo đảm tính thanh khoản, một số TCTD đã phải chấp nhận lãi suất trên thị trường liên ngân hàng lên tới 20%-30%/năm, thậm chí trên 40%/năm bất chấp lãi suất tái chiết khấu do NHNN công bố hiện nay chỉ là 13%/năm. Có những giai đoạn NHNN đã phải bơm ròng đến hàng chục ngàn tỉ VND trên thị trường mở và thị trường liên ngân hàng để bảo đảm thanh khoản cho toàn hệ thống. Rủi ro thanh khoản còn đi đôi với rủi ro kỳ hạn khi tuyệt đại đa số vốn huy động có kỳ hạn ngắn, thậm chí rất ngắn song các TCTD lại cấp tín dụng ở tất cả các kỳ hạn với một tỷ lệ không nhỏ dành cho vay trung và dài hạn.3 - Rủi ro lãi suất và tỉ giá hối đoái Rủi ro lãi suất và tỉ giá hối đoái là khả năng xảy ra những biến động của lãi suất và tỉ giá hối đoái dẫn đến những tác động bất lợi cho hoạt động kinh doanh và giảm thu nhập dự tính của tổ chức tín dụng. Những bất ổn kinh tế vĩ mô, đặc biệt là lạm phát cao và những chính sách thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát đã đặt hệ thống NHTM trước những rủi ro rất lớn về lãi suất. Những biến động lớn, đột ngột về lãi suất, cả huy động và cho vay, cùng với những biện pháp điều hành lãi suất còn mang nặng tính hành chính đã khiến cho các TCTD thường xuyên trong trạng thái đối phó, khi thì chạy đua tăng lãi suất huy động, khi lại giữ lãi suất cho vay ở mức rất cao để phòng ngừa biến động lãi suất. Vì vậy, hiện tượng “vượt trần, phá rào, hai lãi suất” diễn ra tương đối phổ biến làm giảm hiệu lực của các chính sách tiền tệ, đồng thời làm suy giảm đạo đức kinh doanh của không ít cán bộ quản lý cũng như cán bộ tác nghiệp trong hệ thống ngân hàng... Hoạt động của không ít TCTD rất bấp bênh, chênh vênh giữa trạng thái lãi - lỗ, kỷ luật kinh doanh không được tuân thủ triệt để, tạo ra những kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng. Bên cạnh đó, do tình trạng đô-la hóa chậm được khắc phục, với tổng tiền gửi ngoại tệ vẫn chiếm trên 20% tổng tiền gửi, thậm chí còn phát sinh thêm tình trạng vàng hóa với cả trăm tấn vàng được các TCTD huy động song không được sử dụng hiệu quả, nên các TCTD còn phải đương đầu với rủi ro tỷ giá hối đoái và cả rủi ro giá vàng. Chỉ trong 10 tháng đầu năm 2011 tỷ giá hối đoái VND/USD đã tăng trên 10% và tiếp tục biến động phức tạp trong 2 tháng còn lại của năm 2011, trong khi do chênh lệch lãi suất giữa cho vay VND và USD tới trên 10%/năm nên tín dụng ngoại tệ đã tăng rất nhanh trong thời gian qua. Cũng trong thời gian đó, giá vàng cũng tăng tới 25%, có thời 3 Cơ cấấu lại hệ thốấng ngấn hàng Việt Nam – TS Vũ Đình Ánh 5 điểm lên tới trên 49 triệu VND/lượng. Những biến động đó đã tác động rất mạnh tới mức độ an toàn của cả tài sản có và tài sản nợ của các TCTD.4 Hơn nữa, kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy lịch sử phát triển khu vực ngân hàng nói riêng và các tổ chức tín dụng nói chung của bất kỳ quốc gia nào cũng trải qua những quá trình cải cách, cải tổ và tái cơ cấu; là hệ quả tất yếu của sự thay đổi và phát triển của nền kinh tế. Hệ thống các TCTD đóng vai trò, vị trí quan trọng đối với phát triển kinh tế bền vững, đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu, định hướng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015. Để góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thực hiện thành công mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, hệ thống các TCTD Việt Nam cần phải được củng cố, chấn chỉnh, hoạt động với quy mô lớn hơn, an toàn và có hiệu quả hơn nhằm huy động, đầu tư vốn một cách có hiệu quả cho nền kinh tế, đồng thời đáp ứng tốt hơn nhu cầu dịch vụ ngân hàng ngày càng tăng của xã hội. Đối với một ngành Ngân hàng đang trong giai đoạn phát triển nhanh như ở Việt Nam, tái cấu trúc, đổi mới trong từng TCTD và trên phạm vi toàn hệ thống là một yêu cầu thường xuyên của thực tiễn khách quan và sự vận động phát triển mặc dù quy mô, tốc độ đổi mới có thể khác nhau trong từng thời kỳ. Chương trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD lần này được triển khai toàn diện trên các mặt tài chính, hoạt động, quản trị, sở hữu và pháp nhân. 3.2. Mục tiêu, lộ trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD Theo Quyết định 254/QĐ-TTg của Chính phủ thì mục tiêu cơ cấu lại gồm: Cơ cấu lại căn bản, triệt để và toàn diện hệ thống các tổ chức tín dụng để đến năm 2020 phát triển được hệ thống các tổ chức tín dụng đa năng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả vững chắc với cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô, loại hình có khả năng cạnh tranh lớn hơn và dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính, ngân hàng của nền kinh tế. Năm 2011-2012: Tập trung đánh giá, xác định thực trạng hoạt động, chất lượng tài sản và nợ xấu của các TCTD; đánh giá và phân loại TCTD; xây dựng và triển khai phương án cơ cấu lại các TCTD, trong đó ưu tiên xử lý các TCTD yếu kém; tập trung hỗ trợ thanh khoản để bảo đảm khả năng chi trả của 4 Cơ cấấu lại hệ thốấng ngấn hàng Việt Nam – TS Vũ Đình Ánh 6 các TCTD; triển khai sáp nhập, hợp nhất, mua lại TCTD; tăng vốn điều lệ và xử lý nợ xấu của các TCTD; cơ cấu lại hoạt động và hệ thống quản trị. Năm 2013: Hoàn thành căn bản việc sửa đổi, bổ sung các quy định an toàn hoạt động ngân hàng; tiếp tục triển khai lành mạnh hóa tài chính (bao gồm xử lý nợ xấu và tăng vốn điều lệ), cơ cấu lại hoạt động và quản trị của các TCTD; hoàn thành căn bản cơ cấu lại sở hữu, pháp nhân của các NHTMCP yếu kém. Năm 2014-2015: Hoàn thành căn bản cơ cấu lại tài chính của TCTD; Các TCTD đáp ứng đầy đủ mức vốn điều lệ thực và các chuẩn mực, giới hạn an toàn hoạt động ngân hàng theo quy định pháp luật; tiếp tục triển khai cơ cấu lại hoạt động và quản trị; tiếp tục sáp nhập, hợp nhất, mua lại theo nguyên tắc tự nguyện. Triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp củng cố, chấn chỉnh và cơ cấu lại các TCTD nêu trên, đến năm 2015 hệ thống các TCTD Việt Nam được lành mạnh hóa một bước quan trọng về tài chính và hoạt động, giảm bớt số lượng TCTD nhỏ, yếu kém và hình thành một số NHTM có quy mô lớn hơn, có khả năng cạnh tranh mạnh hơn, đặc biệt tăng cường được quy mô và vị trí chi phối của các ngân hàng thương mại nhà nước trong hệ thống ngân hàng. Quá trình củng cố, chấn chỉnh, cơ cấu lại hệ thống các TCTD được tiến hành với chi phí thấp nhất, loại trừ nguy cơ đổ vỡ ngân hàng ngoài tầm kiểm soát, bảo đảm giữ vững sự an toàn, ổn định của hệ thống, đồng thời không gây tác động tiêu cực đến sự ổn định kinh tế vĩ mô, an ninh chính trị và trật tự xã hội. 3.3. Nguyên tắc cơ cấu lại các tổ chức tín dụng. 5 Trên cơ sở quan điểm và định hướng triển khai chủ trương tái cơ cấu hệ thống ngân hàng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã triển khai xây dựng chương trình tái cơ cấu ngân hàng giai đoạn 2011 - 2015. Trong năm năm tới, NHNN sẽ tiến hành củng cố, chấn chỉnh và xử lý những tồn tại, yếu kém hiện tại của hệ thống nhằm tạo lập một nền tảng vững chắc để thực hiện tiếp các giải pháp tái cơ cấu bền vững ở giai đoạn tiếp theo từ năm 2015 - 2020. Mục tiêu đến năm 2020 là phải xây dựng một hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, lành mạnh, có hiệu quả, có từ 1 - 2 tổ chức tín dụng được đưa vào nhóm các TCTD lớn của khu vực Đông Nam Á. Theo đó, NHNN đã đưa ra bốn quan điểm và nguyên tắc cơ bản đối với quá trình tái cơ cấu như sau: 5 Tái cơ cấấu, cải cách hoạt động ngấn hàng trên thêấ giới – Thực têễn và bài h ọc cho Vi ệt Nam- ThS. Nguyêễn Thu Trang và ThS. Trấần Thị Thu Hòa 7 Nguyên tắc thứ nhất, là phát triển một hệ thống ngân hàng đa dạng về sở hữu, quy mô và loại hình nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của nền kinh tế về dịch vụ ngân hàng từ thành thị đến nông thôn. Quy mô phát triển của các ngân hàng trong hệ thống sẽ ngày càng phong phú, sẽ có các ngân hàng lớn đủ sức cạnh tranh trong khu vực; có các ngân hàng lớn làm trụ cột trong hệ thống ngân hàng, có đủ sức cạnh tranh với khu vực và quốc tế; có những ngân hàng vừa và nhỏ và các TCTD phi ngân hàng hoạt động có hiệu quả trong những phân khúc thích hợp và đáp ứng nhu cầu dịch vụ ngân hàng của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Nguyên tắc thứ hai, là việc bảo đảm nâng cao tính an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng tỏ ra không cần thiết vì đây là mục tiêu thường xuyên liên tục cần phải đạt tới của tất cả hệ thống ngân hàng chứ không chỉ trong việc cơ cấu lại hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay. Nguyên tắc thứ ba, việc sáp nhập, hợp nhất ngân hàng trong quá trình tái cơ cấu sẽ được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và các quyền, nghĩa vụ kinh tế của các bên có liên quan. Xu hướng sáp nhập, hợp nhất ngân hàng có thể xảy ra giữa các ngân hàng lớn với nhau, giữa ngân hàng lớn với ngân hàng nhỏ hoặc giữa các ngân hàng nhỏ với nhau. Nguyên tắc thứ tư, tái cơ cấu ngân hàng được triển khai dưới nhiều hình thức, biện pháp và theo lộ trình thích hợp. Căn cứ vào đặc điểm của ngân hàng cụ thể sẽ có hình thức và biện pháp hợp lý Chương trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng sẽ được tiến hành đồng bộ, gắn kết với chương trình tái cơ cấu nền kinh tế, đặc biệt là chương trình tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm là đầu tư công và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Chính vì vậy mà NHNN đã xác định phương châm thực hiện chương trình tái cơ cấu là phải đảm bảo nguyên tắc thận trọng, làm đến đâu chắc đến đó; đảm bảo sự ổn định cho hệ thống ngân hàng; và tận dụng được nguồn lực của nền kinh tế. 3.4. Phương thức, lộ trình cơ cấu lại Tùy theo từng trường hợp cụ thể, các TCTD sẽ được cơ cấu lại theo các phương thức sáp nhập, hợp nhất, mua lại theo trình tự thủ tục đã được qui định cụ thể trong Thông tư số 04/2010/TT-NHNN ngày 11-2-2010 của NHNN, hay có thể bị rút giấy phép hoạt động, nghĩa là bị giải thể, chấm dứt hoạt động, thậm chí phá sản theo trình tự thủ tục qui định tại Thông tư số 34/2011/TT-NHNN ban hành ngày 28-10-2011 và có hiệu lực từ ngày 11-122011. 8 Trong quá trình tái cơ cấu, kể cả dưới hình thức sáp nhập, hợp nhất, mua lại hay cho giải thể, phá sản thì xử lý tài sản, đặc biệt là các nghĩa vụ nợ là phức tạp và khó khăn nhất do qui mô rất lớn, đụng chạm đến nhiều đối tượng trên địa bàn rộng lớn, trong khi các mối quan hệ lại đan xen, rắc rối, cũng như việc đánh giá chất lượng và xác định giá trị tài sản không hề đơn giản, nên NHNN cần bổ sung các phương thức xử lý tài sản trước, trong và sau quá trình cơ cấu lại với một thể chế rõ ràng để bảo đảm nguyên tắc hợp lý, công bằng, an toàn, chính xác và tránh thất thoát. Theo lộ trình thực hiện, NHNN đã đề ra những nội dung của tái cấu trúc tập trung vào các nội dung sau: Về vốn: NHNN yêu cầu các ngân hàng lớn tham gia mua cổ phần, tham gia vào quản trị điều hành và cơ cấu lại các khoản mục đầu tư; mua lại hoặc hợp nhất, sáp nhập nếu cần. NHNN cũng sẽ tham gia giám sát chặt chẽ quá trình này. Theo đó, nếu các ngân hàng không thể tự tái cấu trúc thì NHNN sẽ can thiệp và thậm chí tính đến việc hợp nhất hoặc sáp nhập. Trên thực tế, các ngân hàng nhỏ đều có vốn điều lệ dưới mức quy định tối thiểu (3.000 tỷ đồng) nên không thể tự mình tái cấu trúc nếu không có sự giúp đỡ từ bên ngoài. Vì vậy, NHNN cùng với các cơ quan giám sát và theo dõi của cơ quan quản lý để giúp các ngân hàng nhỏ tìm kiếm các đối tác nâng cao năng lực vốn, năng lực quản trị, đảm bảo thanh khoản và an toàn vốn. Về xử lý nợ xấu: NHNN đã ban hành Quyết định số 780/QÐ-NHNN ngày 23/04/2012 cho phép “các khoản nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ do TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng có chiều hướng tích cực và có khả năng trả nợ tốt sau khi điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ được giữ nguyên nhóm nợ như đã được phân loại theo quy định trước khi điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ”. Ngoài ra, cơ quan này cũng đã có Văn bản số 2871/NHNN-TD yêu cầu 14 ngân hàng gồm: Agribank, BIDV,Vietinbank,Vietcombank, ACB, Eximbank, Sacombank, Techcombank, MB, MSB, VPBank, VIB, SeaBank và SHB chủ động, tích cực thực hiện các giải pháp xử lý nợ theo các quy định hiện hành; Thực hiện mua, bán nợ theo quy định tại Quyết định số 59/2006/QÐ-NHNN ngày 21/02/2006 về Quy chế mua, bán nợ của TCTD, trong đó cho phép mua bán nợ dưới dạng cho DN vay và nợ của các TCTD vay lẫn nhau. Về thanh khoản: NHNN đã phối hợp với các ngân hàng mạnh để cung cấp thanh khoản cho các ngân hàng yếu để giảm thiểu rủi ro thanh khoản của 9 hệ thống. Ðồng thời, NHNN đã cho các ngân hàng gia hạn nợ đối với DN và cho phép nhóm 14 ngân hàng mua bán nợ dưới dạng cho DN vay và nợ của các TCTD vay lẫn nhau. Về quản trị ngân hàng: NHNN đã ban hành một số văn bản liên quan đến vấn đề này, đặc biệt là các thông tư thay thế Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD và Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 về việc ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD. Theo Ðề án cơ cấu lại các TCTD giai đoạn 2011-2015, thì cuối năm 2015, TCTD phải đạt mức vốn tự có đủ để bù đắp rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp theo quy định của Basel II. II. VAI TRÒ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC TÁI CƠ CẤU CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG 1. Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước. Theo Điều 2 của quyết định số 254/QĐ-TTg về phê duyệt đề án “Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”, trách nhiệm của NHNN trong việc tái cơ cấu TCTD gồm: a) Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, tổ chức và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có liên quan tổ chức triển khai thực hiện Đề án; b) Đánh giá, xác định thực trạng hoạt động, chất lượng tài sản và nợ xấu của các tổ chức tín dụng; c) Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, tổ chức có liên quan xây dựng và trình Chính phủ phê duyệt Đề án “Chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến năm 2020”, Đề án “Chống đô la hóa trong nền kinh tế”; d) Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, tổ chức có liên quan xây dựng Quyết định quy định về việc góp vốn, mua cổ phần của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại TCTD theo quy định tại Khoản 3 Điều 149 của Luật Các tổ chức tín dụng để trình Thủ tướng Chính phủ ban hành trước ngày 01/7 / 2012; đ) Chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát các tổ chức tín dụng xây dựng và triển khai Phương án cơ cấu lại tại từng tổ chức tín dụng theo các giải pháp nêu trong Đề án kèm theo Quyết định này; e) Tăng cường công tác quản lý nhà nước và thanh tra, giám sát thị trường tiền tệ và hoạt động của các TCTD; 10 g) Chủ trì, phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông, các cơ quan, tổ chức, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan thông tin, truyền thông thực hiện thông tin, tuyên truyền các chủ trương, chính sách về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng để ổn định tâm lý, tạo sự đồng thuận trong xã hội và tránh gây tác động tiêu cực đến hệ thống ngân hàng, thị trường tài chính; h) Hướng dẫn, đôn đốc các Bộ, cơ quan và tổ chức có liên quan thực hiện Đề án; định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 01 tháng 7 và ngày 31 tháng 12 hàng năm về tiến độ, kết quả, khó khăn, vướng mắc và đề xuất giải pháp xử lý về việc thực hiện Đề án; kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ xử lý các vấn đề phát sinh vượt thẩm quyền. 2. Vai trò của Ngân hàng Nhà nước Trong việc tái cơ cấu các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, đặc biệt quan trọng trong tất cả các hoạt động nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong tái cơ cấu, cụ thể: Trong giai đoạn 2012-2015, NHNN tập trung vào nhiệm vụ giữ ổn định hệ thống, từng bước tập trung lành mạnh hóa tình trạng tài chính, xử lý nợ xấu, bảo đảm khả năng thanh toán, xử lý tình trạng sở hữu chéo và minh bạch hóa hoạt động tín dụng của hệ thống và từng TCTD. II.1 Ngân hàng nhà nước tiến hành phân loại tổ chức tín dụng để tiến hành tái cơ cấu Năm 2012, NHNN đã thực hiện phân loại các NHTM thành các nhóm để ấn định mức rủi ro, cụ thể: - Nhóm thứ 1: Các ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh có năng lực và quy mô đủ lớn để tiếp tục phát triển thành những ngân hàng trụ cột, đủ sức cạnh tranh với khu vực và quốc tế. Ước tính có khoảng 15 ngân hàng loại này, chiếm khoảng 80% thị phần hoạt động của cả hệ thống ngân hàng. - Nhóm thứ 2: Các ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh nhưng có quy mô nhỏ, không có nhu cầu hoặc không có điều kiện phát triển quy mô cao hơn nữa. NHNN sẽ có quy định đảm bảo giám sát chặt chẽ cũng như phân khúc thị trường để đảm bảo cho các ngân hàng này hoạt động hiệu quả. - Nhóm thứ 3: Ngân hàng đang có tình hình tài chính khó khăn cần phải cấu trúc lại. NHNN sẽ tham gia giám sát chặt chẽ, yêu cầu các ngân hàng tham gia mua cổ phần, tham gia vào quản trị điều hành và cơ cấu lại các khoản mục đầu tư; mua lại hoặc hợp nhất, sáp nhập nếu cần. II.2 Ngân hàng Nhà nước đánh giá, xác định thực trạng hoạt động, chất lượng tài sản và nợ xấu của các tổ chức tín dụng. 11 Dựa trên báo cáo tài chính của các tổ chức tín dụng và quá trình thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước đánh giá, xác định được thực trạng hoạt động của các tổ chức tín dụng, chất lượng tài sản và nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Thống kê của NHNN cho thấy, tỷ lệ nợ xấu tính đến tháng 6/2015 là 3,72% trên tổng dư nợ. NHNN cũng khẳng định kể từ tháng 3/2015, số liệu nợ xấu phản ánh chính xác hơn về chất lượng tín dụng của các TCTD, không còn khác biệt nhiều giữa số liệu TCTD báo cáo và số liệu giám sát của NHNN. Về bản chất, tỷ lệ nợ xấu theo báo cáo của các TCTD đang có xu hướng giảm đi khi so sánh với tỷ lệ nợ xấu theo giám sát của NHNN. Việc đánh giá, kiểm tra chất lượng tài sản và nhận định tình hình nợ xấu của các tổ chức tín dụng sẽ giúp Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng nhìn nhận rõ tình hình hoạt động của tổ chức tín dụng, từ đó đưa ra được các chính sánh phù hợp để ổn định tình trạng hoạt động. 2.3 Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại một cách quyết liệt trong việc thực hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng nguồn dự phỏng rủi ro để chủ động xử lý nợ xấu. Dựa trên báo cáo tài chính của các tổ chức tín dụng và quá trình thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước đánh giá, xác định được thực trạng hoạt động của các tổ chức tín dụng, chất lượng tài sản và nợ xấu của các tổ chức tín dụng. NHNN cũng khẳng định kể từ tháng 3/2015, số liệu nợ xấu phản ánh chính xác hơn về chất lượng tín dụng của các TCTD, không còn khác biệt nhiều giữa số liệu TCTD báo cáo và số liệu giám sát của NHNN. Việc đánh giá, kiểm tra chất lượng tài sản và nhận định tình hình nợ xấu của các tổ chức tín dụng sẽ giúp Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng nhìn nhận rõ tình hình hoạt động của tổ chức tín dụng, từ đó đưa ra được các chính sách. 2.4 Đề ra các phương pháp để tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và hướng dẫn các tổ chức này thực hiện Năm 2012, NHNN tập trung củng cố thanh khoản hệ thống ngân hàng, lành mạnh hóa hoạt động tài chính của các NHTM mà trọng tâm là xử lý nợ xấu và minh bạch hóa tài chính và tái cơ cấu tổ chức, hoạt động và quản trị hệ thống ngân hàng. Năm 2013, NHNN chuyển sang giai đoạn hai của nhiệm vụ lành mạnh hóa tài chính hệ thống ngân hàng với việc tăng cường xây dựng các qui định về an toàn vốn, xử lý nợ xấu hệ thống qua việc thành lập Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) và tăng cường quản trị rủi 12 ro, hướng đến chuẩn mực Basel II. Kết quả là, trong 2 năm, đã có 9 NHTM nhỏ đã được đưa vào chương trình phải thực hiện tái cơ cấu bắt buộc thông qua các biện pháp khác nhau như hợp nhất (SCB, Ficombank, TinnghiaBank), sáp nhập (Habubank vào SHB) và tự tái cơ cấu (TienphongBank, TrustBank, Navibank, Westernbank và GP Bank). Năm 2014, NHNN hoàn thiện Thông tư số 13/2010/TT-NHNN với mục tiêu hướng các NHTM tiếp cận việc quản lý rủi ro theo Basel II. Năm 2015, NHNN tiếp tục triển khai quyết liệt và đồng bộ hơn giai đoạn 2 với trọng tâm tái cơ cấu, sáp nhập và xử lý nợ xấu. Cùng với việc tạo điều kiện thuận lợi và ủng hộ hoạt động sáp nhập, hợp nhất trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với lợi ích, chiến lược kinh doanh của từng NHTM và bảo đảm tuân thủ các quy định của pháp luật, NHNN xem xét áp dụng biện pháp can thiệp, thông qua mua cổ phần và sáp nhập bắt buộc một số NHTM “dưới chuẩn”, với sự tham gia tích cực của các NHTM Nhà nước và khuyến khích thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Trong quý II/2015, thông qua hình thức mua bán và sáp nhập (M&A), hệ thống ngân hàng đã thực hiện cơ cấu một số ngân hàng như Sacombank-Southernbank, Vietinbank-PGBank, BIDV–MHB, Vietcombank-SaigonBank, MaritimeBank-MekongBank, EximBankNamAbank. NHNN phối hợp với các NHTM lành mạnh tích cực hỗ trợ thanh khoản; thực hiện điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ theo hướng bảo đảm thanh khoản của hệ thống các TCTD, ổn định tỷ giá, giảm dần lãi suất phù hợp điều kiện kinh tế vĩ mô, giảm bớt rủi ro thị trường cho TCTD và nền kinh tế; kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng tín dụng, nhất là các TCTD yếu kém để bảo đảm TCTD tăng trưởng phù hợp với khả năng thực tế, tập trung củng cố khả năng chi trả. 2.5 Ngân hàng Nhà nước đóng vai tro chỉ đạo trong việc triển khai đầy đủ các nội dung Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 – 2015” và đạt được một số kết quả nhất định. NHNN đã phê duyệt 26/32 phương án cơ cấu lại của các TCTD hoạt động bình thường, 07/11 phương án của các TCTD phi ngân hàng hoạt động bình thường và 08/09 phương án của các NHTM cổ phần yếu kém được xác định từ năm 2012.NHNN cũng hoàn thành việc xây dựng và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD và Đề án thành lập Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) để triển khai thực hiện; đề ra các giải pháp cơ cấu lại hoạt động và quản trị của 13 các TCTD. VAMC đã mua nợ xấu đến 31/12/2013 là 30.947 tỷ đồng và đến 31/3/2014 là 33.220 tỷ đồng, góp phần giảm tỷ lệ nợ xấu của các TCTD NHNN chủ động, tích cực phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan và các phương tiện thông tin đại chúng thực hiện tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tiền tệ, ngân hàng và cơ cấu lại hệ thống các TCTD để ổn định tâm lý của nhân dân và tranh thủ sự đồng thuận, hỗ trợ của xã hội; Tích cực triển khai xây dựng các văn bản pháp lý để tạo cơ sở cho việc triển khai cơ cấu lại các TCTD và tạo điều kiện cho các TCTD hoạt động an toàn hơn. Giai đoạn đến năm 2020, NHNN tập trung đẩy mạnh phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng hiện đại, an toàn, đa dạng về cấu trúc sở hữu, quy mô và loại hình, có khả năng cạnh tranh cao dựa trên nền tảng công nghệ và kỹ năng quản trị tiên tiến theo chuẩn mực quốc tế; Nâng cao vai trò chi phối của các TCTD Việt Nam, đặc biệt là các NHTM nhà nước; Rà soát và phân loại các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP), công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, và các TCTD khác để có biện pháp xử lý thích hợp; Chấn chỉnh hoạt động của các TCTD vi mô và tạo điều kiện thuận lợi để các TCTD nước ngoài hoạt động và cạnh tranh bình đẳng ở Việt Nam. 3. Một số kết quả thu được từ quá trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng Từ năm 2012 đến năm 2015, hệ thống NHTM và TCTD đã giảm bớt 5 NHTM cổ phần thông qua hoạt động sáp nhập, hợp nhất (Đệ Nhất, Tín Nghĩa, Nhà Hà Nội, Phương Tây, Đại Á) và NHNN đã mua lại 3 NHTM cổ phần (VNCB, OceanBank và GPBank). Đồng thời, hai công ty tài chính đã được hợp nhất, giải thể; một công ty cho thuê tài chính bị rút giấy phép; một công ty tài chính đã được NHNN ủng hộ chủ trương bán lại cho tổ chức khác. Hiện hệ thống ngân hàng Việt Nam có một NHTM nhà nước (Agribank), 37 ngân hàng TMCP (kể cả 3 NHTM đã bị NHNN mua lại với giá 0 đồng), 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh, 1 ngân hàng chính sách và 1 ngân hàng hợp tác xã. Một số TCTD phi ngân hàng quá yếu kém, chi phí cơ cấu lại quá lớn so với lợi ích đem lại từ việc duy trì hoạt động đang được tiếp tục rà soát, đánh giá và xem xét xử lý. Một số tập đoàn và tổng công ty nhà nước đang trong quá trình đàm phán bán lại công ty tài chính cho nhà đầu tư khác. Những TCTD phi ngân hàng hoạt động bình thường cũng đang triển khai cơ cấu lại theo Quyết định số 254/QĐ-TTg để nâng cao mức độ an toàn, hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh… 14 Nhìn chung, quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD được thực hiện theo đúng Đề án đã được phê duyệt, với những kết quả cụ thể: Hệ thống NHTM đã ngày càng cải thiện được tính thanh khoản, đẩy lùi nguy cơ đổ vỡ; Giảm sở hữu chéo trong hệ thống NHTM, giúp các ngân hàng tăng sức cạnh tranh trên thương trường; Số dư tiền gửi của TCTD tại NHNN luôn cao hơn so với yêu cầu dự trữ bắt buộc. Theo báo cáo của NHNN, năm 2015, lượng tiền cung ứng tiền tiếp tục được điều hành phù hợp, tổng phương tiện thanh toán tăng 13,55% so với cuối năm trước; mặt bằng lãi suất giảm nhưng huy động vốn vẫn tăng (huy động vốn tăng 13,59% so với cuối năm trước) tạo điều kiện cho các TCTD cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế. Cùng với đó, nợ xấu đã giảm từ 17,2% về còn 2,72% (tính đến cuối tháng 11/2015) hoàn thành trước thời hạn mà Chính phủ đề ra. Một điểm đáng chú ý, từ quý I/2015 không còn tồn tại 2 số liệu, nợ xấu của các tổ chức tín dụng đã được minh bạch hơn. Bên cạnh đó, NHNN đã và đang khẩn trương hoàn thiê ên để trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản pháp lý về thanh tra, giám sát; xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tê ê, ngân hàng; quy định về các tỷ lê ê bảo đảm an toàn trong hoạt đô nê g ngân hàng; ủy thác, nhâ nê ủy thác, quy định về quản lý rủi ro của các TCTD… III. MỘT SỐ HẠN CHẾ CÒN TỒN TẠI VÀ Ý KIẾN PHÁP LÝ CỦA CÁ NHÂN VỀ VẤN ĐỀ TÁI CƠ CẤU CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG. 1. Một số hạn chế còn tồn tại. Năm 2015, NHNN đang và sẽ tiếp tục triển khai quyết liệt và đồng bộ hơn giai đoạn 2 với trọng tâm tái cơ cấu, sáp nhập và xử lý nợ xấu. Cùng với việc tạo điều kiện thuận lợi và ủng hộ hoạt động sáp nhập, hợp nhất trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với lợi ích, chiến lược kinh doanh của từng NHTM và bảo đảm tuân thủ các quy định của pháp luật, NHNN sẽ xem xét áp dụng biện pháp can thiệp, thông qua mua cổ phần và sáp nhập bắt buộc một số NHTM “dưới chuẩn”, với sự tham gia tích cực của các NHTM Nhà nước và mở cửa nhiều hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Theo kế hoạch của NHNN, trong năm 2015 sẽ có khoảng 6-7 vụ M&A bắt buộc và có thể thêm nhiều vụ M&A tự nguyện khác, để tới năm 2017, cả nước còn lại khoảng hơn 20 NHTM mạnh. Trong quý II-2015, thông qua M&A, hệ thống ngân hàng đang thực hiện cơ cấu lại với một số ngân hàng (NH) sáp nhập như Sacombank – Southernbank, Vietinbank–PGBank, BIDV–MHB, Vietcombank – 15 SaigonBank, Maritime Bank – MekongBank, Eximbank - NamAbank. Trong đó, nhiệm vụ quan trọng của giai đoạn 2011 – 2013 là giải quyết nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, vieec xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng hiện nay vẫn rơi vào tình trạng bế tắc vì VAMC không thể bán hoặc xử lý được nợ xấu đã mua. hống kê của NHNN cho thấy, tỷ lệ nợ xấu tính đến tháng 6/2015 là 3,72% trên tổng dư nợ. NHNN cũng khẳng định kể từ tháng 3/2015, số liệu nợ xấu phản ánh chính xác hơn về chất lượng tín dụng của các TCTD, không còn khác biệt nhiều giữa số liệu TCTD báo cáo và số liệu giám sát của NHNN. Theo báo cáo của VAMC, tính đến hết tháng 8/2014, công ty đxa mua được 59.511 tỷ đồng nợ gốc từ 35 tổ chức tín dụng. Thống kê của NHNN cho thấy, tỷ lệ nợ xấu tính đến tháng 6/2015 là 3,72% trên tổng dư nợ. NHNN cũng khẳng định kể từ tháng 3/2015, số liệu nợ xấu phản ánh chính xác hơn về chất lượng tín dụng của các TCTD, không còn khác biệt nhiều giữa số liệu TCTD báo cáo và số liệu giám sát của NHNN. Về bản chất, tỷ lệ nợ xấu theo báo cáo của các TCTD đang có xu hướng giảm đi khi so sánh với tỷ lệ nợ xấu theo giám sát của NHNN.Tuy nhiên, cho đến nay VAMC chưa bán được một khoản nợ xấu nào. Với cơ chế như hiện nay, sau khi mua lại nợ xấu từ các tổ chức tín dụng, VAMC thực hiện ủy quyền thu hồi nợ xấu cho các tổ chức tín dụng. Như vậy, có thể khẳng định việc cơ cấu tài chính của các tổ chức tín dụng thông qua xử lý thu hồi nợ xấu vẫn đang trong tình trạng bế tắc trong khi áp lực gia tăng nợ xấu đối với các tổ chức tín dụng ngày càng lớn. Hiện nay, xử lý chéo đang là một trong hai vấn đề nổi cộm và nan giải nhất củaquá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam bên cạnh việc xử lý nợ xấu. Hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam hiện đang tồn tại 6 nhóm sở hữu chéo khác nhau: Nhóm 1 là sở hữu của các ngân hàng trong nước và nước ngoài tại các ngân hàng liên doanh; Nhóm 2 là cổ đông chiến lược nước ngoài tại các ngân hàng thương mại trong nước; Nhóm 3 là cổ đông tại các ngân hàng là các công ty quản lý quỹ; Nhóm 4 là sở hữu của các ngân hàng thương mại nước ngoài tại các ngân hàng thương mại cổ phần; Nhóm 5 là sở hữu lẫn nhau giữa các ngân hàng thương mại cổ phần; Nhóm 6 là sở hữu ngân hàng cổ phần bởi các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và tư nhân. Thực trạng sở hữu chéo đang có xu hướng diễn biến phức tạp và tiềm ẩn rủi ro. Nhận thức được tác động tiêu cực của sở hữu chéo đối với an toàn hoạt động của từ tổ chức tín dụng nói riêng, an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng nói chung, và đặc biệt là những cản trở của sở hữu chéo đối với quá trình cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nức đã triển 16 khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm xử lý sở hữu chéo, gắn với quá trình cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng. Mục tiêu cơ bản, lâu dài của quá trình tái cơ cấu ngân hàng là tạo dựng được các ngân hàng thương mại lành mạnh, hoạt động an toàn và hiệu quả, có năng lực quản trị tiên tiến. Đề án 254đã đề ra 7 giải pháp cơ cấu lại hoạt động vfa 13 giải pháp cơ cấu lại quản trị của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, sau gần 5 năm, kết quả cơ cấu lại hoạt động và quản trị của các tổ chức tín dụng còn khá khiêm tốn, hệ thống quản trị vẫn chưa thay đổi rõ nét. Nhiều vụ việc sai phạm điển hình của nagnhf ngân hàng như vụ Nguyễn Đức Kiên làm thất thoát 1400 tỷ đồng, Huỳnh Thị Huyền Như lừa đảo 4000 tỷ đồng của 3 ngân hàng, 9 tổ chức và 3 cá nhân đều xảy ra tại các ngân hàng thương mại được đánh giá cao về năng lực quản trị và chất lượng dịch vụ như Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (Vietinbank). 2. Ý kiến pháp lý của cá nhân Từ năm 2015 trở đi, cần quyết liệt hơn nữa trong các biện pháp tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các ngân hàng không hoạt động hiệu quả nhằm lấy lại niềm tin cho thị trường cũng như tái tạo lại một hệ thống tín dụng lành mạnh và một môi trường cạnh tranh bình đẳng. Thứ nhất, VAMC cần có những quyền hạn đặc biệt như có một đạo luật riêng về xử lý nợ xấu, giúp giảm thiểu các vướng mắc trong xử lý nợ xấu và đẩy nhanh tốc độ mua bán nợ. Trước hết, Ngân hàng Nhà nước ban hành các hướng dẫn cụ thể về việc ủy quyền của VAMC cho các NHTM trong xử lý nợ xấu. Xây dựng chính sách thu hút nhà đầu tư nước ngoài tham gia, đồng thời xây dựng thị trường mua - bán nợ, phát triển thị trường trái phiếu và tạo hành lang pháp lý cho chứng khoán hóa các khoản nợ xấu. Thứ hai, bổ sung quy định về bảo vệ cổ đông thiểu số, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể gián tiếp tham gia hoạt động mua bán, sáp nhập các TCTD. Xây dựng quy định định giá tài sản khi thực hiện mua bán, sáp nhập; trong đó phản ánh đầy đủ giá trị hữu hình và vô hình của TCTD. Chuẩn hóa lại mẫu hợp đồng mua bán, sáp nhập; quy định cụ thể thời điểm cung cấp thông tin khi thực hiện mua bán, sáp nhập. Thứ ba, xử lý tình trạng sở hữu chéo trong các TCTD bằng cách bổ sung quy định người có liên quan, người sở hữu cuối cùng và mở rộng đối tượng phải công bố thông tin về tỷ lệ sở hữu. NHNN cần quy định số lượng thành viên ban quản trị của NHTM trong trường hợp điều lệ của NHTM không có quy định. 17 Cần tách biệt rõ ràng giữa quyền sở hữu và quyền kiểm soát, theo đó không cho phép thành viên HĐQT, HĐTV của ngân hàng kiêm nhiệm chức vụ trong ban điều hành. Cũng cần tách bạch chức năng ngân hàng đầu tư và NHTM, nhằm tránh “lỗ hổng” tạo điều kiện cho sở hữu chéo, gây ra những sai phạm về đảm bảo an toàn hoạt động của TCTD. Pháp luật hiện hành có quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần tối đa của các cá nhân cũng như các tổ chức trong NHTM, tuy nhiên, nên bổ sung quy định về mức sở hữu cổ phần tối đa với từng loại cổ đông. Ví dụ, với cổ đông cá nhân, có thể phân chi tiết như: cá nhân tham gia quản lý, cá nhân không tham gia quản lý… Thứ tư, để cải thiện chất lượng quản trị rủi ro và đảm bảo an toàn hoạt động của các NHTM, cần thay đổi cách tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR). Theo đó, Thông tư 13/2010/TT-NHNN nên quy định lại phần tính mẫu số của công thức tính CAR với việc cộng cả rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp; về hệ số rủi ro của các tài sản có trong công thức tính CAR tại Điều 5, cần phân loại tài sản chi tiết và tính đến sự khác biệt giữa các mức độ rủi ro riêng biệt. Đối với các khoản phải thu, hệ số rủi ro được xác định dựa trên loại hình tài sản đặc biệt (giấy tờ có giá, bất động sản…) và đối tượng (chính quyền trung ương, địa phương; công ty trực thuộc…), nhưng đồng thời phải chi tiết cho rủi ro theo mức độ tín nhiệm của đối tác hoặc theo đặc điểm khoản tín dụng. Bổ sung quy định về giới hạn liên quan đến đòn bẩy tài chính (vốn tự có/tổng tài sản) của các NHTM. Thứ năm, NHNN cần có lộ trình cụ thể về việc áp dụng Basel II và Basel III. Tăng cường yêu cầu an toàn vốn với mô hình tập đoàn tài chính ngân hàng. Quản lý mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng dựa theo khuyến nghị của Ủy ban Basel. Thứ sáu, có các chính sách như: miễn, giảm thuế, phí hợp lý liên quan đến mua bán nợ xấu và các tài sản bảo đảm tiền vay; miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 2 năm đối với các TCTD sau khi thực hiện M&A... Thực hiện cho vay, hỗ trợ nguồn vốn với mức lãi suất hợp lý dưới hình thức tái cấp vốn đối với các TCTD tham gia tái cơ cấu các TCTD yếu kém từ nguồn tiền cung ứng của NHNN. Cho phép TCTD yếu kém, các TCTD tham gia xử lý các TCTD yếu kém thực hiện có lộ trình việc trích lập dự phòng rủi ro, nhằm hỗ trợ về thời gian cho TCTD khắc phục tồn tại tài chính. 18 Cho phép các TCTD yếu kém, các TCTD tham gia xử lý các TCTD yếu kém được duy trì và có lộ trình xử lý một số vi phạm phát sinh do việc M&A như: sở hữu cổ phần, cấp tín dụng… vượt giới hạn, chưa đáp ứng đầy đủ các tỷ lệ an toàn hoạt động. Thứ bảy, xác lập cơ chế cho phép NHNN mua lại cổ phần tại một số NHTM cổ phần để góp phần tháo gỡ vướng mắc của các DNNN trong thoái vốn khỏi lĩnh vực ngân hàng, của các cổ đông đang sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ, cũng như đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng sau khi các cổ đông thoái vốn. Xem xét áp dụng biện pháp phá sản một số TCTD. Thứ tám, Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò điều hành thị trường cân xây dựng những hoạch định mang tầm chiến lược, có tính khả thi và tính thuyết phục cao nhằm tạo lập một hệ thống tài chính lành mạnh, môi trường cạnh tranh bình đẳng và hệ thống thông tin minh bạch, qua đó giúp thị trường phát triển ổn định hơn. Các chính sách, cơ chế được xâu dựng cần phải dựa trên lợi ích và triển vọng của khu vực tài chính; các hoạch định và chính sách này cần phải được đổi mới hơn, áp dụng linh hoạt hơn nhằm thích ứng tốt nhất với các biết động của thị trường, qua đó hạn chế và quản trị tốt rủi ro. Ngoài ra, hệ thống cán bộ thanh tra cần phải được cải thiện và kiện toàn hơn nữa để quản lý tốt các biến cố mới, phức tạp của thị trường và thích nghi với sự đa dạng của thị trường tài chính. Thứ chín, Công tác dự báo và xây dựng tính sách tiền tệ hàng năm cần được đổi mới một cách căn bản, qua đó có thể áp dụng mô hình kinh tế lượng vào phân tích dự báo và qua từng thời kỳ có thể lượng hóa các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Năng lực điều hành hính sách tiền tệ cũng cần được nâng cao hơn nữa bằng việc xác định rõ cơ chế truyền tải tác động chính sách tiền tệ, ngoài ra việc đổi mới cơ chế điều hành cung ứng tiền theo thông lệ quốc tế là rất cần thiết. Nhanh chóng hoàn thiện các công cụ hỗ trợ cho việc điều hành chính sách tiền tệ tốt hơn của Ngân hàng Nhà nước, giảm bớt các tác động mang tính hành chính của Ngân hàng Nhà nước vào thị trường thay vào đó là áp dụng các công cụ linh hoạt hơn, điều hành lãi suất cần gắn chặt hơn với điều hành tỷ giá. Xác định rõ quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước trong việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ, các chức năng và vai trò thực thi các chính sách tài khóa – tiền tệ cũng cần được phân định rõ ràng. Ngoài ra cần thể chế hóa sự phối hợp của Ngân hàng Nhà nước với Bộ Tài chính, Ủy ban chứng khoán Nhà nước để có thể giám sát toàn bộ thị trường. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan