Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận tốt nghiệp thực trạng và giải pháp triển khai chương trình xây dựng nô...

Tài liệu Tiểu luận tốt nghiệp thực trạng và giải pháp triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện đam rông, tỉnh lâm đồng

.DOC
34
1
124

Mô tả:

PHẦN MỞ ĐẦU Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng Nông thôn mới là một chương trình tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội, chính trị, quốc phòng, an ninh. Đây là một trong những nội dung quan trọng trong việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, BCH Trung ương Đảng Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn với mục tiêu: Xây dựng Nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao. Đam Rông là một trong 62 huyện nghèo của cả nước - được Chính phủ đầu tư thực hiện Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP, nên khi triển khai thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, huyện Đam Rông gặp không ít khó khăn trên mọi lĩnh vực, phương diện. Tuy nhiên, nhờ chủ trương “đi sâu đi sát, quyết liệt và sáng tạo trong lãnh đạo”, chỉ đạo, điều hành, tuyên truyền, vận động và tổ chức thực hiện, tạo được sự hưởng ứng mạnh mẽ trong cộng đồng dân cư; nên sau 5 năm (2010-2015) xây dựng, Đam Rông đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Các nội dung công việc được huyện lựa chọn sát với nhu cầu thực tế của từng thôn, từng xã và trong toàn huyện, được thực hiện đồng bộ, chặt chẽ, hiệu quả, cụ thể: các tiêu chí của Bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới được 8/8 xã của huyện thực hiện đạt kết quả tốt, trên cơ sở “Dễ làm trước, khó làm sau”, và tiêu chí nào cần thiết, được người dân lựa chọn phù hợp với đặc điểm của từng thôn, từng xã được ưu tiên đầu tư thực hiện. Từ đó, hàng năm, các xã của huyện Đam Rông thực hiện đạt từ 01 đến 02 tiêu chí về nông thôn mới. Kết quả đến 2016, xã Đạ R’Sal cơ bản đạt 19/19 tiêu chí NTM, đang lập thủ tục trình UBND tỉnh xét công nhận đạt chuẩn nông thôn mới; 2 xã Đạ Tông, Rô Men đạt 10-14 tiêu chí nông thôn mới; 5 xã, trong đó có 2 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn Liêng Srônh và Đạ Long đạt từ 5 đến 9 tiêu chí. Từ ngày 1/12/2016, Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016-2020 với 19 tiêu chí, thay thế Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới và Quyết định số 342/QĐ-TTg ngày 20/2/2013 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi một số tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. Theo đó, Đam Rông cũng từng bước điều chỉnh và phấn đấu hoàn thành các tiêu chí trong giai đoạn mới Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, huyện đã gặp rất nhiều khó khăn. Việc triển khai còn lúng túng, công tác quy hoạch xây dựng thiếu đồng bộ, chuyển giao khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế; nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng còn yếu kém, xuống cấp, đời sống vật chất tinh thần của người dân còn ở mức thấp; nhu cầu kinh phí đầu tư xây dựng lớn, việc huy động nguồn kinh phí đầu tư trong xây dựng nông thôn 1 mới khó khăn, vai trò tham gia của cộng đồng còn hạn chế, tiến độ triển khai thực hiện chưa đảm bảo yêu cầu; mức độ đạt được so với các tiêu chí nông thôn mới còn thấp. Xuất phát từ tình hình thực tế và những yêu cầu về phát triển nông thôn mới, tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp triển khai chương trình xây dựng Nông thôn mới trên địa bàn huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2016-2020” làm tiểu luận tốt nghiệp chương trình Trung cấp lý luận Chính trị - Hành chính K24 Hệ tập trung. Mục đích nghiên cứu: Đánh giá tình hình thực hiện chủ trương xây dựng nông thôn mới tại huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị góp phần đẩy nhanh quá trình xây dựng thành công mô hình nông thôn mới tại địa phương. Ý nghĩa của đề tài: Đối với địa phương: Qua nghiên cứu, phân tích thực trạng xây dựng nông thôn mới của địa phương trong giai đoạn 2016-2018, đánh giá kết quả đạt được, những khó khăn, tồn tại nhằm đề ra những giải pháp sát với thực tiễn, tạo sự chuyển biến về mọi mặt trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn, xóa đòi, giảm nghèo, nâng cao chất lượng sống của người dân. Đối với bản thân: Qua nghiên cứu đề tài, bản thân tôi hiểu sâu hơn các lý luận về xây dựng nông thôn mới. Từ đó, có phương hướng tham mưu cho cấp trên những giải pháp dựa trên cơ sở thực tiễn về xây dựng mô hình nông thôn mới tại địa phương. Kết cấu đề tài: gồm 3 phần chính: Phần mở đầu; phần nội dung; phần kiến nghị kết luận 2 PHẦN NỘI DUNG I. ĐẶC ĐIỀM TÌNH HÌNH HUYỆN ĐAM RÔNG 1. Đặc điểm tự nhiên Vị trí địa lý: Đam Rông là huyện miền núi, nằm về hướng Tây Bắc của tỉnh Lâm Đồng, Phía Đông và Đông Nam giáp huyện Lạc Dương, phía Tây Nam giáp huyện Lâm Hà. Mặt phía Tây là huyện Đắk Glong của tỉnh Đắk Nông. Phía Bắc giáp với các huyện Lắk (ở hướng Tây Bắc và Bắc), Krông Bông (ở hướng Đông Bắc) của tỉnh Đắk Lắk. Dọc theo ranh giới với các huyện này (đồng thời là một phần ranh giới giữa hai tỉnh) là con sông Đạ M'Rông (nhánh đầu nguồn của dòng sông Ea Krông Nô). Địa hình: Có hướng thấp từ phía Nam và Tây Nam xuống phía Bắc và Đông Bắc, chủ yếu là núi cao, đồi thấp và thung lũng, có thể phân thành 03 dạng địa hình: + Địa hình núi cao: Diện tích khoảng 63.400 ha, chiếm 73.4 % diện tích toàn huyện phân bố theo hình cánh cung từ phía Nam kéo sang Đông Bắc và Tây Bắc, độ cao phổ biến từ 1000 – 1300m. + Địa hình đồi thấp: diện tích 18.000 ha, chiếm 20.8 % diện tích toàn huyện, phân bố tập trung ở khu vực giữa và phía Bắc của huyện, độ cao trung bình từ 600 – 700 m. + Địa hình thung lũng: Diện tích 5.000 ha, chiếm 5.8 % diện tích toàn huyện, phân bố tập trung ở khu vực phía Đông Bắc. Khí hậu: thời tiết mang đặc trưng của vùng chuyển tiếp từ khí hậu nhiệt đới vùng núi cao mát lạnh quanh năm xuống vùng khí hậu nhiệt đới núi thấp nằm sâu trong nội địa phân hóa khá rõ thành 2 tiểu vùng: + Tiểu vùng phía Nam: khí hậu mát và ôn hòa quanh năm, nhiệt độ trung bình từ 20.5°C- 21.5°C, thích hợp với cây trồng xứ lạnh.cà phê, chè. + Tiểu vùng phía Bắc: nhiệt độ trung bình khoảng 22°C- 23°C thích hợp với các loại cây trồng nhiệt đới. Dân cư: Tính đến năm 2017 dân số toàn huyện là 48.820 người, trong đó hầu hết là người đồng bào dân tộc thiểu số với 8.787 hộ/35.018 nhân khẩu (chiếm 74,4% dân số của toàn huyện) chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số gốc Tây Nguyên và một số đồng bào dân tộc thiểu số di cư từ các tỉnh miền núi phía Bắc đến sinh sống, như: Tày, Nùng, Dao, Mường, Thái, Hoa và H’Mông tạo nên cộng đồng với trên 20 thành phần dân tộc chung sống, đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển. Tôn giáo: Trên địa bàn huyện, cộng đồng các dân tộc sinh hoạt tín ngưỡng theo 04 nhóm tôn giáo với 34.492 tín đồ/21 chức sắc, trong đó: Thiên chúa giáo có 19.885 tín đồ/07 chức sắc với 02 nhà thờ và 04 giáo điểm; Phật giáo có 1.639 phật tử/02 chức sắc, với 02 chùa; Tin Lành có 12.905 tín hữu/12 chức sắc với 01 cơ sở thờ tự và Đạo Cao Đài là có 63 tín đồ. Các tín ngưỡng trên địa bàn huyện 3 sinh hoạt chấp hành theo đúng pháp luật, hoạt động đúng theo khuôn khổ, nề nếp và thực hiện theo phương châm tốt đời đẹp đạo. 2. Đặc điểm kinh tế, xã hội Huyện Đam Rông được thành lập theo Nghị định số 189/2004/NĐ-CP ngày 17/11/2004 của Chính phủ, trên cơ sở chia tách 5 xã vùng sâu, vùng xa của huyện Lâm Hà (Liêng Srônh, Đạ Rsal, Phi Liêng, Đạ Knàng, Rô Men) và 3 xã của huyện Lạc Dương (Đạ Mrông, Đạ Tông, Đạ Long). Là huyện thuộc vùng khó khăn theo Quyết định số 1049/QĐ – TTg, ngày 26/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ, với 08 đơn vị hành chính xã và 56 thôn, trong đó còn 07 xã thuộc diện xã khu vực III, 01 xã khu vực II và 38 thôn thuộc diện thôn đặc biệt khó khăn. Hiện tại, cơ cấu kinh tế của huyện bao gồm: Nông nghiệp chiếm 48,76%; công nghiệp - xây dựng 13,56% và dịch vụ 37,68%. Giá trị sản xuất nông nghiệp trên một đơn vị diện tích đạt 84,2 triệu đồng/ha/năm, tăng gấp 2,63 lần so với năm 2008. Có được con số như vậy, huyện đã có những bước đột phá trong phát triển nông nghiệp, chỉ đạo đẩy mạnh phát triển sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng của cây trồng, vật nuôi; đồng thời nhân rộng các mô hình sản xuất có hiệu quả phù hợp với từng tiểu vùng. Cùng với sự nỗ lực, quyết tâm của cả hệ thống chính trị, nhân dân các dân tộc trên địa bàn huyện trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nên bộ mặt nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn có sự thay đổi rõ rệt. Tốc độ tăng trưởng kinh tế phát triển nhanh, kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh (giai đoạn 2008 - 2014 giảm bình quân 9,85%/năm; giai đoạn 2015 2017 giảm bình quân 4,82%/năm theo chuẩn nghèo đa chiều); thu nhập bình quân đầu người đạt 29 triệu đồng/người/năm, tăng gấp 5,7 lần; bình quân thu nhập trên một đơn vị diện tích canh tác tăng 2,3 lần so với năm 2008. Số người trong độ tuổi lao động ước khoảng 26.500 người, lao động chủ yếu ở khu vực nông, lâm nghiệp, 49 lao động đi nước ngoài làm việc. Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí mới cuối năm 2017 giảm từ 35,21% xuống còn 27,83% (giảm 7,38%) Về Y tế: Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được quan tâm, hệ thống y tế từ huyện đến xã được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và mua sắm trang thiết bị cơ bản phục vụ khám chữa bệnh cho nhân dân. 52/52 thôn toàn huyện có y tá, có 1 Trung tâm y tế, 2 phòng khám khu vực, 8/8 xã có trạm y tế, 8/8 xã có bác sỹ. Tổng số lượt người được khám bệnh năm 2018 là 90.472 lượt người; số bệnh nhân được điều trị là 7.478 bệnh nhân. Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình được tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân, tỷ lệ sinh con thứ 3 giảm, số người áp dụng các biện pháp tránh thai tăng, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 1,54%, giảm 0,06% so cùng kỳ; tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế toàn dân đạt 92%. Về Giáo dục: Tổng kết năm học 2016-2017, toàn huyện có 37 trường, 9 trường đạt chuẩn Quốc gia; tổng số 15.002 học sinh, trong đó: mầm non 3.170 học sinh, tiểu học 6.167 học sinh, THCS 3.838 học sinh, THPT 1.827 học 4 sinh. Tỷ lệ duy trì sỹ số và lên lớp các bậc học khá cao. Năm học 2017-2018, toàn huyện có 37 trường/524 lớp học với 15.168 học sinh, trong đó 10 trường được công nhận đạt chuẩn Quốc gia; các trường đã ổn định nề nếp, sắp xếp, bố trí đội ngũ, phân công chuyên môn và tổ chức giảng dạy theo kế hoạch. Về Văn hóa - Thông tin: Các hoạt động văn hóa thông tin, tuyên truyền cổ động được triển khai đồng bộ theo kế hoạch. Tiếp tục thực hiện tốt phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; hiện nay toàn huyện có 50/56 thôn văn hóa, chiếm 88,92%; cơ quan đơn vị văn hóa 74,5%, gia đình văn hóa 70,55%; có 01 xã đạt chuẩn văn hóa cấp tỉnh. Công tác truyền thanh - truyền hình được chú trọng đầu tư, nâng cao chất lượng, đáp ứng kịp thời cho công tác tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tuyên truyền cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, việc thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ, các hoạt động kinh tế - xã hội của địa phương đã đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Về Thực hiện các chính sách xã hội: thường xuyên tổ chức thực hiện công tác chi trả trợ cấp cho các đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn huyện, làm tốt công tác quản lý, chi trả trợ cấp hàng tháng, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của đối tượng để có hướng giải quyết và hỗ trợ: cụ thể, hỗ trợ các đối tượng bảo trợ xã hội trên 5,8 tỷ đồng, người có công trên 5,3 tỷ đồng. Năm 2017 đã cấp 41.590 thẻ bảo hiểm y tế cho các đối tượng thụ hưởng (trong đó, bảo trợ xã hội 1.609 thẻ, thân nhân người có công 307 thẻ, cận nghèo 3.215 thẻ, người có công 124 thẻ, hộ nghèo 32.151 thẻ, trẻ em dưới 6 tuổi 4.210 thẻ). 3. Đặc điểm về hệ thống chính trị, quốc phòng, an ninh Hệ thống chính trị: Tổng số Đảng viên trong toàn Đảng bộ là 1.426 Đảng viên, trong đó 1.112 đảng viên chính thức, 134 đảng viên dự bị, sinh hoạt tại 30 tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc Huyện ủy; trong đó đảng viên là người đồng bào dân tộc thiểu số chiếm gần 33,1%. 52/52 thôn đã có chi bộ Đảng, số lượng và chất lượng đảng viên, nhất là đảng viên người đồng bào dân tộc thiểu số không ngừng được nâng cao. Đảng bộ, chính quyền địa phương nhiều năm được công nhận là trong sạch, vững mạnh, đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị địa phương. Quốc phòng: Đam Rông là địa phương có vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, quốc phòng an ninh của tỉnh Lâm Đồng và Quân khu 7; là địa bàn trọng điểm mà các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng vấn đề “dân tộc, tôn giáo”, “dân chủ, nhân quyền” để tuyên truyền chống phá, thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, mục đích nhằm làm giảm uy tín của Đảng, Nhà nước và phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Do đó, công tác đảm bảo quốc phòng toàn dân luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền từ huyện đến cơ sở quan tâm. Huyện có 8/8 Ban Chỉ huy quân sự xã, với 8/8 đơn vị tự vệ cũng đã tổ chức huấn luyện dân quân cơ động năm thứ II, dân quân tại chỗ và tự vệ. Năm học 2017 - 2018 các trường THPT tổ chức dạy và kiểm tra môn Giáo dục Quốc phòng và An ninh cho 1.639 học sinh; kết quả kiểm tra giỏi 367 em đạt 22,4%, khá 1.112 em đạt 66,1%, đạt yêu cầu 157 em đạt 9,6%. Hàng năm, Ban Chỉ huy 5 Quân sự huyện Đam Rông đã tổ chức các đợt tập huấn, huấn luyện quân sự cho các đối tượng gồm: tập huấn cán bộ phân đội Dân quân tự vệ năm; Huấn luyện Dân quân binh chủng năm; Dân quân cơ động năm thứ I; Tập huấn cán bộ và huấn luyện cán bộ B3 và Dự bị động viên. An ninh trật tự: Đam Rông là huyện giáp ranh với các địa phương thuộc tỉnh Ðắc Nông (huyện Đắc Glong) và Ðắc Lăk (huyện Lăk). Ðịa hình giáp ranh chủ yếu là đồi núi hiểm trở, các loại tội phạm thường móc nối, chọn nơi ẩn náu, phát sinh nhiều tệ nạn xã hội. Qua nắm tình hình, thường xuyên trao đổi thông tin, lực lượng chức năng kịp thời phòng ngừa, ngăn chặn các hoạt động của tội phạm, giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn và vùng giáp ranh. Cấp ủy, chính quyền từ huyện đến xã đã thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 09/NQ-CP và chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, phòng chống ma túy một cách rộng rãi trong quần chúng nhân dân. Các ban chỉ đạo 130, 138, 139, Nghị quyết liên tịch đã tăng cường các biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật; vận động các đoàn thể, tổ chức xã hội và quần chúng tích cực phòng ngừa, đấu tranh, tố giác tội phạm, tệ nạn xã hội; tham gia quản lý, giáo dục đối tượng tại địa bàn dân cư. Trong năm 2018, quần chúng nhân dân đã cung cấp tin cho các cơ quan chức năng, giúp điều tra, khám phá, bắt giữ 02 vụ, 04 đối tượng vận chuyển trái phép chất ma túy với tang vật là 191,6g heroin; vận động 02 đối tượng truy nã ra đầu thú, đưa 23 đối tượng ra kiểm điểm trước nhân dân. Nhờ đó, tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội tại địa phương ổn định, không phát sinh điểm nóng. 4. Đặc điểm xây dựng nông thôn mới của huyện Đam Rông 4.1. Hệ thống các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Thực hiện Chương trình hành động số 68/CTr ngày 24/10/2008 của Tỉnh ủy Lâm Đồng về “Thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”, UBND Tỉnh Lâm Đồng đã ban hành Quyết định số 2242/QĐ-UBND ngày ngày 05/10/2011 “Ban hành Kế hoạch tổ chức, phát động phong trào thi đua “Cùng cả nước, Lâm Đồng chung tay xây dựng nông thôn mới” Thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020. Huyện ủy Đam Rông đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/HU ngày 11/7/2012 về “Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới huyện Đam Rông”. Và ban hành các nghị quyết, quyết định, chương trình, kế hoạch, văn bản liên quan đến thực hiện nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới huyện Đam Rông. UBND huyện đã ban hành Quyết định số 270/QĐ-UBND ngày 29/2/2012 “Phê duyệt chương trình xây dựng nông thôn mới 2012-2020”; Kế hoạch số 45/KH-UBND ngày 15/11/2012 “Triển khai thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/HU ngày 11/7/2012 của Huyện ủy” và các văn bản chỉ đạo nhằm định hướng, giao nhiệm vụ các phòng ban, các địa phương triển khai thực hiện chương trình. Định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết để đánh giá kết quả thực hiện và đề ra phương hướng, giải pháp đảm bảo thực hiện Chương trình theo đúng mục tiêu, kế hoạch. Trong năm 2013, Huyện ủy đã ban hành Quyết định số 1342/QĐ-HU ngày 6 11/4/2013 “Kiện toàn Ban chỉ đạo Chương trình xây dựng nông thôn mới thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa huyện Đam Rông giai đoạn 20102020”; Thành lập Tổ thẩm định đề án phát triển sản xuất nâng cao thu nhập cho dân cư; các văn bản chỉ đạo đôn đốc hoàn quy hoạch của 4 xã: Phi Liêng, Đạ K’Nàng và Rô Men; Thông báo số 08-TB/BCĐ ngày 27/6/2013 “Phân công nhiệm vụ của Ban chỉ đạo”; Công văn số 892/UBND ngày 03/10/2013 “Triển khai thực hiện các công trình áp dụng cơ chế đầu tư đặc thù về xây dựng nông thôn mới”; Đến năm 2016, Huyện tiếp tục thực hiện Kế hoạch số 11-KH/BCĐNTM ngày 22/12/2016 của Ban chỉ đạo xây dựng chương trình nông thôn mới về “Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới huyện đam rông giai đoạn 2016-2022” 4.2. Tổ chức bộ máy thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới Huyện ủy đã thành lập Ban chỉ đạo Chương trình xây dựng nông thôn mới gồm 23 thành viên là lãnh đạo của các phòng, ban, ngành, đoàn thể. Đồng chí Bí thư Huyện ủy làm trưởng ban. Đồng chí Phó Bí thư Huyện ủy và Phó chủ tịch UBND huyện giữ chức phó ban. Ban chỉ đạo thực hiện phân công nhiệm vụ cho các thành viên để chỉ đạo, hướng dẫn, triển khai cụ thể hóa chương trình đến cấp ủy, chính quyền địa phương. Đồng thời UBND huyện thành lập Tổ công tác giúp các xã xây dựng nông thôn mới, gồm 13 thành viên là lãnh đạo thuộc các phòng, ban chuyên môn. Đồng chí Phó Chủ tịch UBND huyện làm tổ trưởng. Đồng chí Trưởng phòng NN&PTNT làm tổ phó. Tổ công tác có trách nhiệm tuyên truyền, hướng dẫn các xã xây dựng đề án nông thôn mới và xử lý kịp thời những phát sinh xảy ra trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Huyện đã chỉ đạo 8/8 xã thành lập Ban chỉ đạo, Ban quản lý xây dựng nông thôn mới cấp xã. Ban chỉ đạo cấp xã do đồng chí Bí thư Đảng ủy xã làm trưởng ban; đồng chí Phó chủ tịch UBND xã là phó ban. Thành viên là lãnh đạo một số các ban, ngành của xã. Ban quản lý cấp xã do đồng chí Chủ tịch UBND xã làm trưởng ban. Đồng chí Phó chủ tịch UBND xã là phó ban. Thành viên là lảnh đạo một số các ban ngành, đoàn thể chính trị trong xã và trưởng thôn. Ban phát triển (giám sát) cấp thôn do cộng đồng thôn trực tiếp bầu và Chủ tịch UBND xã ra quyết định công nhận. Nhìn chung Ban chỉ đạo cấp huyện, cấp xã hoạt động thường xuyên, duy trì chế độ hoạt động theo quy chế. 5. Thuận lợi và khó khăn trong triển khai chương trình xây dựng Nông thôn mới tại Đam Rông 5.1. Thuận lợi Huyện nằm trên trên trục đường Quốc lộ 27 từ Lâm Đồng đi Đăk Lăk rất thuận lợi cho phát triển thương mại, và dịch vụ. Tổng diện tích tự nhiên là 86.090 ha, trong đó diện tích đất lâm nghiệp là 66.909 ha, chiếm 77,1% diện tích tự nhiên, rất thận lợi cho phát triển kinh tế lâm nghiệp. Dân cư có một số nghề truyền thống như đan lát, dệt vải, mộc, trồng dâu nuôi tằm… Đảng bộ chính quyền và nhân dân trong huyện đã nỗ lực phấn đấu , từng 7 bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất. Cơ sở hạ tầng nông thôn từng bước được đầu tư, đặc biệt là giao thông nông thôn. Các trường học cơ bản tốt và các thôn đều có nhà văn hóa… Điều kiện nhà ở, điện nước sinh hoạt của nhân dân được đảm bảo, đời sống được cải thiện rõ rệt. An ninh chính trị, trật tự xã hội của nhân dân được đảm bảo - Người dân trong huyện có kinh nghiệm trong sản xuất và tiếp cận thị trường, mạnh dạn đầu tư để phát triển sản xuất, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới. 5.2. Khó khăn Địa hình tương đối phức tạp, dốc và chia cắt khá mạnh nên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tốn kém, đặc biệt là hệ thống đường giao thông, các công trình lưới điện, các công trình văn hóa xã hội. Diện tích đất nông nghiệp chưa được khai thác phục vụ sản xuất một cách có hiệu quả cao nhất. Diện tích đất canh tác thường bị chia nhỏ, chưa tập trung, gây khó khăn cho việc chăm sóc và thu hoạch… Hoạt động chăn nuôi chủ yếu nhỏ lẻ ở các hộ gia đình. Một số hộ phát triển theo quy mô tập trung vừa và khá, nhưng chưa có quy hoạch. Khu chăn nuôi tập trung nằm xa khu dân cư nên năng suất chăn nuôi thấp. Chăn nuôi chưa theo hướng công nghiệp, vẫn giữ tập quán chăn nuôi truyền thống, tốn nhiều thời gian và chi phí để có sản phẩm đầu ra. Giống lợn, bò là giống của địa phương chưa phát triển theo hương hiện đại hóa, chưa đưa được giống có năng suất, chất lượng cao vào trong chăn nuôi. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm dẫn đến đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn. Hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội, hạ tầng kỹ thuật xây dựng chưa có quy hoạch, nhiều công trình chưa được đầu tư, hoặc đầu tư chưa đồng bộ gây ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế xã hội, văn hóa và điều kiện sản xuất sinh hoạt của người dân. Quy mô nền kinh tế của huyện nhìn chung còn nhỏ, nguồn vốn đầu tư còn hạn hẹp nên khó khăn cho việc phát triển kết cấu hạ tầng của nền kinh tế. Nhiều tiêu chí nông thôn mới chưa đạt hoặc đạt ở mức thấp. II. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐAM RÔNG GIAI ĐOẠN 2016 - 2018 1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo 1.1. Quán triệt, phối hợp thực hiện các nhiệm vụ Sau khi tổng kết thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2015, Huyện đã tiến hành kiện toàn Ban chỉ đạo chương trình xây dựng nông thôn mới thời kì CNH-HĐH huyện Đam Rông giai đoạn 2010-2020. UBND huyện đã ban hành “Quyết định thành lập Ban chỉ đạo các Chương trình mục tiêu quốc gia huyện giai đoạn 2016-2020”; Kế hoạch số 11-KH/BCĐNTM ngày 22/12/2016 của Ban chỉ đạo xây dựng chương trình nông thôn mới về 8 “Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới huyện đam rông giai đoạn 2016-2022”; xây dựng và tổ chức thực hiện “Chương trình công tác của Ban chỉ đạo nông thôn mới năm 2016”. Khi xây dựng nông thôn mới, huyện đã quán triệt mục tiêu cuối cùng là nhân dân chính là người hưởng lợi trực tiếp từ Chương trình xây dựng nông thôn mới, nhằm tạo sự hưởng ứng tích cực tham gia đóng góp sức người, sức của xây dựng nông thôn mới và trực tiếp kiểm tra, giám sát quá trình triển khai thực hiện xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thôn. Chủ trương của Huyện ủy - UBND huyện về xây dựng nông thôn mới theo phương châm: Dễ làm trước, khó làm sau; những hạng mục, công việc gì phù hợp với đặc điểm của địa phương, nguyện vọng của nhân dân thì kiên quyết làm; chưa bức xúc, chưa cần thiết và không hiệu quả thì kiên quyết không làm và với quan điểm để dân chủ động lựa chọn các hạng mục công trình trong đầu tư xây dựng nông thôn mới, theo phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” Huyện đã đẩy mạnh thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới tập trung nâng cao chất lượng tiêu chí quy hoạch; xây dựng và phát triển hợp tác xã, tổ hợp tác; đẩy nhanh tiến độ thực hiện tiêu chí về thủy lợi, trường học, môi trường; triển khai thực hiện kế hoạch tái cơ cấu ngành nông nghiệp, phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập và giảm nghèo… Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội huyện tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt trong chỉ đạo, tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên hăng hái thi đua, lao động sản xuất; thực hiện tốt các phong trào “Cùng cả nước, Lâm Đồng chung sức xây dựng nông thôn mới”; “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; “Dân vận khéo”; xây dựng “Gia đình 5 không 3 sạch”; các mô hình “Thắp sáng dường quê”, “Con đường hoa”, “Giúp nhau phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững”… Nhờ vậy, việc triển khai thực hiện quan điểm, chủ trương, chỉ đạo của Huyện ủy - UBND huyện trong xây dựng nông thôn mới ở Đam Rông đạt được kết quả khả quan. 1.2. Công tác tuyên truyền, tập huấn, đào tạo Công tác tuyên truyền được xác định là nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên, được triển khai sâu rộng đến các tâng lớp nhân dân thông qua nhiều hình thức như tuyên truyền trên hệ thống loa truyền thanh, hội nghị, các buổi họp thôn, các phong trào thi đua yêu nước, các phong trào phát triển kinh tế xã hội được Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể huyện phát động. Hàng năm, huyện đã cử các đồng chí lãnh đạo các phòng, ban chuyên môn, mặt trận Tổ quốc, các hội đoàn thể cấp huyện, lãnh đạo Ban chỉ đạo, Ban quản lý nông thôn mới các xã tham dự Hội nghị tập huấn chương trình xây dựng nông thôn mới do Văn phòng điều phối nông thôn mới của tỉnh tổ chức. Tổ chức các lớp tập huấn về kỹ thuật nuôi trồng, chăm sóc cây trồng, vật nuôi cho công chức phụ trách lĩnh vực nông nghiệp cấp xã; mặt trận Tổ quốc và các hội đoàn thể xã, Bí thư và trưởng thôn. Ngành lao động và thương binh xã hội mở các lớp dạy nghề cho lao động phổ thông như trồng và chăm sóc cà phê, kĩ thuật trồng dâu nuôi tằm, kĩ thuật 9 nuôi một số loại thủy sản, móc len, sửa chữa các loại máy cơ khí... Tổ chức những chuyến đi học tập kinh nghiệm về xây dựng nông thôn mới gồm cồng tác chỉ đạo điều hành, công tác phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, học tập mô hình điển hình tại những địa phương như Đơn Dương, Lạc Dương, Đức Trọng.. Biểu công tác tập huấn, đào tạo qua các năm (ĐVT: đợt/học viên) Năm 2016 2017 2018 Lớp đào tạo Hội nghị tập huấn chương trình xây dựng 1đợt / 110 học viên 1 đợt/165 học viên 1 đợt/168 học viên nông thôn mới Tham quan, học tập kinh nghiệm về xây dựng 1 đợt / 21 học viên 1 đợt / 21 học viên 1 đợt / 23 học viên nông thôn mới Tập huấn về kỹ thuật nuôi trồng, chăm sóc 4 đợt / 242 học viên 4 đợt / 310 học viên 4 đợt / 385 học viên cây trồng, vật nuôi Đào tạo nghề cho lao 6 đợt / 220 học viên 8 đợt / 410 học viên 8 đợt / 385 học viên động phổ thông (Nguồn: Ban chỉ đạo xây dựng chương trình nông thôn mới huyện Đam Rông) Thông qua công tác tuyên truyền, vận động đã xuất hiện ngày càng nhiều những cách làm hay, những mô hình mới được triển khai thực hiện trên tất cả các lĩnh vực. Hiện nay, trên địa bàn huyện đã có 143 mô hình, trong đó có 20 mô hình tiêu biểu, những mô hình này chủ yếu tập trung trên các lĩnh vực: Phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh trật tự, bảo vệ môi trường, xây dựng đời sống văn hóa gắn với xóa bỏ tập tục lạc hậu… 1.3. Công tác huy động nguồn vốn xây dựng nông thôn mới Nguồn vốn được phân bổ được triển khai thực hiện kịp thời, đảm bảo tiến độ, kế hoạch đề ra. Việc đóng góp của nhân dân chủ yếu thông qua các hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất; xây dựng, chỉnh trang nhà ở; đóng góp bằng tiền mặt, công lao động, hiến đất, cây trồng trên đất dể xây dựng đường giao thông, nhà văn hóa và chi phí cho một số hoạt động khác như thu gom xử lý rác thải, trồng cây, đèn điện chiếu sáng tại các trục đường chính, bảo vệ môi trường và an ninh nông thôn Biểu tổng hợp kết quả huy động nguồn lực thực hiện chương trình nông thôn mới tại huyện Đam Rông qua các năm (ĐVT: Triệu đồng) S TT I 1 2 3 I Nội dung chỉ tiêu TỔNG SỐ NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG Đầu tư phát triển Sự nghiệp Trái phiếu chính phủ NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG Ước kết quả thực hiện đến 31/12/2016 272.830,9 10.987 790 638,85 9.558 865 10 Ước kết quả thực hiện đến 31/12/2017 684.008 4.230 3.160 100 1.000 5.650 Ước kết quả thực hiện đến 31/12/2018 336.932,2 9.773 7.393 2.380 0 5.775 I II 1 Tỉnh 2 Huyện 3 Xã I VỐN LỒNG GHÉP I V I VỐN TÍN DỤNG V VỐN DOANH NGHIỆP V CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ 0 865 0 4.650 1.000 0 4.775 1.000 0 123.847 145.705 177.394,4 128.278 526.205 141.990 8.090 0 0 8.845 2.218,3 1998,7 1 Đối ứng phát triển sản xuất 2.262,12 1.513,5 1661,5 2 Xây dựng cơ sở hạ tầng 6.582,76 704,7 337,2 (Nguồn: Ban chỉ đạo xây dựng chương trình nông thôn mới huyện Đam Rông) Ngoài việc năng động, sáng tạo trong cách vận động, huy động vốn, tổ chức thực hiện, việc phân bổ nguồn vốn hợp lý cho các địa bàn, các hạng mục công trình và việc kiểm tra, giám sát sử dụng vốn đúng mục đích, hiệu quả đã mang lại lòng tin của người dân, từ đó tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội 2. Kết quả thực hiện các tiêu chí quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Đam Rông giai đoạn 2016 – 2018 Trong giai đoạn 2011-2015, cơ sở hạ tầng thiết yếu, đặc biệt là các hạng mục về hạ tầng kinh tế - xã hội như giao thông, thủy lợi, trường học...được huyện tập trung đầu tư, hoàn thành và đưa vào sử dụng phát huy hiệu quả, đàm ứng nhu cầu dân sinh. Đề án hỗ trợ sản xuất, nâng cao thu nhập dân cư thường xuyên được kiểm tra, đôn đốc thực hiện, phát huy có hiệu quả các nguồn vốn hỗ trợ sản xuất (30a, 135...) là một trong những nội dung trọng tâm, quyết định thành công giảm nghèo nhanh và bền vững. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện, văn hóa dịch vụ có nhiều tiến bộ. Bộ mặt nông thôn của huyện có sự thay đổi rõ rệt so với trước khi triển khai chương trình. Tính đến tháng 12/2015: - Số xã đã đạt từ 15 tiêu chí trở lên: 01 xã (Đạ R’sal) - Số xã đạt từ 10 đến 14 tiêu chí: 02 xã (Đạ K’nàng, Rô Men) - Số xã đạt từ 02 đến 09 tiêu chí : 05 xã (Liêng Srônh, Đạ Long, Đạ Tông, Phi Liêng, Đạ Mrông) Đây là những tiền đề để giai đoạn 2016 - 2018, huyện Đam Rông thực hiện thắng lợi những mục tiêu đã đặc ra trong xây dựng Nông thôn mới theo bộ tiêu chí điều chỉnh của Chính phủ 2.1 Kết quả thực hiện theo các nhóm tiêu chí trong xây dựng Nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2018 - Nhóm tiêu chí quy hoạch 8/8 xã trên địa bàn huyện đã được phê duyệt, công bố, công khai đồ án quy hoạch chung xây dựng nông thôn mới. Hoàn thành việc cắm mốc chỉ giới hạ tầng các công trình theo quy hoạch tại 8/8 xã. Đối với quy hoạch nông thôn mới cấp huyện, hiện nay huyện đã lập quy hoạch, dự kiến triển khai thực hiện quy hoạch bắt đầu từ quý IV nằm 2019 và 11 hoàn thành vào cuối năm 2019. *Đánh giá: Khi triển khai đề án quy hoạch, các xã còn lúng túng, UBND huyện chỉ đạo việc thực hiện không vội vàng, cần phải đảm bảo chất lượng, nên nhiều xã phải chỉnh sửa, xin ý kiến nhiều lần đã ảnh hưởng tiến độ thực hiện ban đầu về quy hoạch. Công tác lập Đề án xây dựng nông thôn mới của các xã đã được Ban chỉ đạo huyện quan tâm và hướng dẫn sát sao. Sau khi rà soát, kiểm tra lại thì có 2/8 xã (Rô Men; Đạ K’nàng) phải chỉnh sửa cho phù hợp với chỉ tiêu sử dụng đất. Nhìn chung, chất lượng đề án quy hoạch các xã cơ bản đảm bảo yêu cầu. Năm 2016 chỉ có 3 xã (Đạ Rsal; Đạ Tông, Phi Liêng) cắm mốc chỉ giới hạ tầng các công trình xây dựng nông thôn mới và chưa có xã nào có quy chế quản lý quy hoạch. Đến tháng 12/2018, 8/8 xã đã hoàn thành cắm mốc chỉ giới và xây dựng được quy chế quản lý phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương và được UBND huyện phê duyệt. - Nhóm tiêu chí hạ tầng kinh tế - xã hội Giao thông: Trong giai đoạn 2016-2018, huyện đã huy động từ nhiều nguồn vốn khác nhau để đầu tư xây dựng mới khoảng 50,11km đường giao thông; cải tạo và nâng cấp 78,93km đường giao thông. Thực hiện phương thức nhà nước và nhân dân cũng làm, từ đầu năm 2016 đến nay, huyện đã cũng với nhân dân địa phương thực hiện triển khai bê tông hóa 24 tuyến đường thôn, ngõ xóm với tổng chiều dài trên 15 km, tổng khối lượng 2.200 tấn xi măng, giá trị thành tiền hơn 3,3 tỷ đồng. Hiện nay có 5/8 xã cơ bản đạt chuẩn tiêu chí về giao thông, các xã còn lại hoàn thành tiêu chí vào giai đoạn 2018-2020. Thủy lợi: Việc xây dựng, nâng cấp, tu bổ, nạo vét kênh mương nhằm đảm bảo phục vụ phát triển sản xuất và đời sống dân sinh được UBND huyện, và UBND các xã quan tâm chỉ đạo thường xuyên. Trong giai đoạn 2016-2018 đã cải tạo, nâng cấp 06 hồ đập giữ nước và hơn 50 km kênh mương nội đồng, đáp ứng trên 75% diện tích tưới. Đến này 8/8 xã cơ bản đạt tiêu chí về thủy lợi Điện nông thôn: Hệ thống điện cơ bản đáp ứng yêu cầu kĩ thuật của ngành và nhu cầu sử dụng điện trên địa bàn huyện từ 98% trở lên. Trong giai đoạn 2011 - 2015, điện lực Đam Rông đã triển khai nhiều dự án đầu tư xây dựng, cải tạo, sửa chữa và nâng cấp lưới điện nông nông thôn. Giai đoạn 2016-2018, ngành Điện tiếp tục tập trung đầu tư xây dựng mới và cải tạo hệ thống đường dây hạ thế, thay thế công tơ. Lưới điện của các xã sau khi đầu tư cơ bản đảm bảo yêu cầu kỹ thuật theo tiêu chí điện nông thôn. Đến nay 7/8 xã đã đạt tiêu chí về điện nông thôn. Xã còn lại sẽ hoàn thành tiêu chí vào năm 2019. Trường học: Từ 2016 đến nay, huyện đã đầu tư xây mới trên 50 phòng học và mua sắm bàn, ghế, trang thiết bị đồ dùng học tập. Toàn huyện có 37 trường, trong đó có 15/36 trường đạt chuẩn quốc gia. Tuy nhiên tỷ lệ trường đạt chuẩn tại các xã còn thấp nên hiện tại chỉ có 3 xã đạt được tiêu chí này (Đạ R’sal, Rô Men, Phi Liêng). Các xã còn lại phấn đấu đạt tiêu chí này vào năm 2020. Cơ sở vật chất văn hóa: Ngoài vốn hỗ trợ của nhà nước, các xã đã tích cực thực hiện chủ trương huy động từ nguồn xã hội hóa để xây dựng cơ sở vật chất (nhà văn hóa, khu thể thao, khu vui chơi thiếu thi...). Hiện nay 8/8 xã đã có nhà 12 văn hóa, 6/8 xã có khu thể thao, 50/56 thôn có nhà văn hóa. Tuy nhiên, trang thiết bị phục vụ văn hóa, thể dục thể thao còn thiếu, diện tích khu thể thao ở xã và thôn chưa đáp ứng được yêu cầu. Đến nay mới có 3 xã ( Đạ R’sal, Rô Men, Đạ K’nàng) cơ bản đạt chuẩn tiêu chí này. Với điều kiện về kinh phí xây dựng, mua sắm trang thiết bị , bố trí quỹ đất phục vụ văn hóa, thể thao hiện nay của địa phương thì việc hoàn thiện tiêu chí cơ sở vật chất văn hóa còn khó khăn và lâu dài. Chợ nông thôn: Đã có 2 xã đạt tiêu chí. Hiện nay huyện đang tiến hành xây dựng chợ Đạ K’nàng và tiếp thục thu hút các cá nhân, tổ chức vào đầu tư xây dựng chợ Bằng Lăng, Đạ Tông để hoàn thành tiêu chí về chợ nông thôn đối với các xã. Thông tin và truyền thông: Hiện nay 8/8 xã đều đạt chuẩn tiêu chí này. Các xã đều có bưu điện và phòng máy kết nối internat phục vụ miễn phí nhu cầu tra cứu thông tin của bà con nhân dân. Mạng lưới intrernet cơ bản đã phủ rộng khắp trên địa bàn huyện phục vụ nhu cầu học tập, lien lạc, vui chơi giải trí cho người dân. Nhà ở dân cư: Nhà ở dân cư trên địa bàn huyện đáp ứng được tiêu chuẩn 3 cứng (nền cứng, khung cứng, mái cứng) chiếm 85%, không có nhà tạm và nhà dột nát. Tuy nhiên, nhà chủ yếu dựng bằng vật liệu gỗ, tre nứa nên thời gian sử dụng chưa đảm bảo theo yêu cầu. Bên cạnh đó tình hình dân di cư tự do chưa bố trí được nhà ở nên vẫn còn tồn tại một số nhà tạm. Hiện nay, toàn huyện chỉ mới có 4 xã đạt được tiêu chí này (Đạ Rsal, Đạ K’nàng, Phi Liêng, Đạ Tông). *Đánh giá: Sau khi tổng kết xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2015, Ban chỉ đạo cấp huyện đã tập trung các nguồn lực để đầu tư hoàn thiện, đồng bộ kết cấu hạ tầng phát triển kinh tế - xã hội, trong đó bố trí vốn ưu tiên thi công hoàn thành các công trình chuyển tiếp; công trình trọng điểm; lập thủ tục đầu tư các công trình có chủ trương và quyết định đầu tư, các công trình theo quy hoạch được duyệt. Tổng vốn huy động và vốn đã thực hiện xây dựng cơ sở cơ bản giai đoạn 2011-2015 là 499.360 triệu đồng đầu tư cho 366 công trình. Giai đoạn 2016-2018 là 512.836 triệu đồng đầu tư cho 365 công trình. Trong đó tập trung vào nhóm các công trình xây dựng về giao thông, trường học, thủy lợi, chợ nông thôn. Biểu so sánh đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội qua các năm STT NỘI DUNG 1 2 Nguồn vốn phân bổ Khối lượng thực hiện 3 Giá trị giải ngân 4 Số công trình đã đầu tư NĂM 2016 NĂM 2017 NĂM 2018 161.348 triệu đồng 167.817 triệu đồng 183.616 triệu đồng 120.715 triệu đồng 159.942 triệu đồng 182.616 triệu đồng 120.992 triệu đồng 159.213,22 triệu đồng 176.500 triệu đồng (đạt 74,94%) (đạt 96,6%) (đạt 96,65%) 106 120 139 (Nguồn: Ban chỉ đạo xây dựng chương trình nông thôn mới huyện Đam Rông) Nhìn chung, việc đầu tư xây dựng các nhóm công trình trọng điểm này đã giúp cho nhân dân địa phương thuận lợi trong việc đi lại, sản xuất, vận chuyển và trao đổi hàng hóa, thuc đẩy phát triển kinh tế. Nhờ đó, bộ mặt nông thôn của huyện Đam Rông cũng dần đổi thay. Đây chính là tiền đề vững chắc để huyện hoàn thành nhanh hơn chỉ tiêu về nông thôn mới. - Nhóm tiêu chí kinh tế và tổ chức sản xuất 13 Tiếp tục tập trung chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện công tác tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo Quyết định số 2777/QĐ-UBND ngày 24/12/2015 của UBND tỉnh, Kế hoạch 67/KH-UBND ngày 15/6/2016 của UBND huyện nhằm nâng cao năng suất, chất lượng nông sản và thu nhập cho nông hộ. Ngành nông nghiệp, các địa phương, mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp đã tăng cưởng phối hợp vận động, đôn đốc nông hộ sản xuất lúa đồng trà, đồng vụ, trao đổi kỹ năng sản xuất. Thu nhập: Đến hết năm 2018, thu nhập bình quân đầu người toàn huyện đạt 29 triệu đồng/người/năm. Cơ cấu nguồn thu nhập của người dân chủ yếu từ nông nghiệp. Hiện nay đã có 4/8 xã đạt tiêu chuẩn về thu nhập (Đạ R’sal, Rô Men, Phi Liêng, Đạ K’nàng), các xã còn lại dự kiến sẽ đạt tiêu chí trong năm 2019-2020. Hộ nghèo: Đến hết năm 2018, tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều của huyện là 19,2% giảm 7, 55% so với năm 2017. Tuy nhiên, tỉ lệ hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số còn chiếm tỉ lệ khá cao 13%. Toàn huyện có 2 xã đạt tiêu chí ( Đạ R’sal và Đạ K’nàng). Các xã còn lại phấn đấu đạt tiêu chí vào năm 2020. Việc làm: Số người trong độ tuổi lao động của huyện ước tính 26.500 người. Trong đó lao động trong ngành nông nghiệp chiếm 85%. Tỉ lệ lao động có việc làm thường xuyên đạt 90%. Giai đoạn 2016-2018, dã mở 22 lớp đào tạo nghề cho 1015 lượt học viên (Trồng và chăm sóc cà phê, Kĩ thuật trồng dâu nuôi tằm, Kĩ thuật nuôi một số loại thủy sản, Móc len, Sửa chữa các loại máy cơ khí...). Tổ chức tập huấn nâng cao năng lực cho 178 cán bộ thôn, xã, huyện làm công tác xuất khẩu lao động. Phối hợp, tổ chức đưa 48 người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (Nhật, Đài Loan, A rập Xê út, Malaysya). Hiện 8/8 xã đã đạt tiêu chí này. Tổ chức sản xuất: Các cơ quan chức năng đã hướng dẫn bà con nhân dân thành lập hợp tác xã gắn với xây dựng chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ nông sản. Đến nay, đã thành lập được 4 hợp tác xã (hợp tác xã nông nghiệp Đạ K’nàng; hợp tác xã nông nghiệp Bằng Lăng; hợp tác xã Laba Banana; hợp tác xã thủy sản Rô Men) bước đầu hoạt động có hiệu quả. Các hợp tác xã đã chủ động, tích cực ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất theo hướng ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP), qua đó tạo việc làm và thu nhập ổn định cho các thành viên, hộ dân tham gia. Phát triển kinh tế hộ gia đình được chú trọng (kinh tế trang trại, mô hình VAC, kinh tế nông lâm kết hợp) theo hướng sản xuất hàng hóa, đáp ứng nhu cầu thị trường. Đã xuất hiện một số mô hình tiêu biểu, hiệu quả, dễ nhân rộng, cho năng suất chất lượng và hiệu quả kinh tế cao như: Mô hình cà phê Robusta tại Đạ K’nàng, Phi Liêng, Đạ Rsal; mô hình cây ăn quả (sầu riêng, mít nghệ, bơ ghép) tại Đạ R’sal, Rô Men; mô hình thâm canh ngô, lúa tại Đạ Long, Đạ Tông, Đạ Mrông; mô hình cánh đồng mẫu lớn tại Đạ Long, Đạ Tông, Đạ Mrông, Rô Men, Liêng Srônh, Đạ K’Nàng. Hiện nay, mới có 3 xã đạt được tiêu chí này: Đạ R’sal. Rô Men, Đạ K’nàng. Các xã còn lại phấn đấu đạt tiêu chí vào năm 2020. 14 *Đánh giá: Việc phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn luôn được cấp ủy, chính quyền từ huyện đến cơ sở tập trung đẩy mạnh bằng những việc làm cụ thể như đưa nhiều loại cây trồng, vật nuôi có giá trị, hiệu quả cao vào sản xuất, quan tâm phát triển kinh tế trang trại, triển khai Đề án chăn nuôi tập trung xa khu dân cư ; mở mang ngành nghề: chế biến lương thực, thực phẩm, mộc dân dụng và dịch vụ, thương mại, góp phần nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của cư dân nông thôn Biểu so sánh đầu tư phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất qua các năm STT 1 2 2.1 2.2 2.3 3 4 5 6 7 NỘI DUNG NĂM 2016 NĂM 2017 NĂM 2018 Nguồn vốn phân bổ Tổng khối lượng thực hiện Nhà nước đầu tư hỗ trợ Nhân dân đóng góp Giá trị giải ngân so với kế hoạch Số lượng Hợp tác xã Tập huấn về kỹ thuật nuôi trồng, chăm sóc cây trồng, vật nuôi Hộ nghèo 16.144,53 triệu đồng 17.136,46 triệu đồng 14.904,3 triệu đồng 2.232,119 triệu đồng 92,32% 1 20.489,7 triệu đồng 20.365,6 triệu đồng 18.852 triệu đồng 1.513,6 triệu đồng 92% 2 12.926,5 triệu đồng 12.901 triệu đồng 12.283,9 triệu đồng 618 triệu đồng 95,03% 4 4 đợt / 242 học viên 4 đợt / 310 học viên 4 đợt / 385 học viên 35,21% 27,83% 28 triệu đồng/ 28,6 triệu đồng/ Thu nhập người/năm người/năm Tạo việc làm mới cho lao động 1.250 người 1.280 người (Nguồn: Ban chỉ đạo xây dựng chương trình nông thôn mới huyện Đam Rông) 19,2% 29 triệu đồng/ người/năm 1.250 người Bảng so sánh Tỷ trọng cơ cấu nông nghiệp huyện Đam Rông qua các năm STT Năm 1 2 3 2016 2017 2018 Cơ cấu ngành nông nghiệp Trồng trọt Chăn nuôi, thủy sản 43,0% 57% 42,5% 57,5% 41,2% 58,8% Biểu đồ Tỷ trọng cơ cấu nông nghiệp huyện Đam Rông qua các năm Nguồn: B/c UBND Huyện Qua biểu đồ trên, có thể thấy tỷ trọng ngành nông nghiệp huyện Đam Rông luôn có sự thay đổi qua các năm: giảm dần tỷ trọng ngành trồng trọt và tăng dần tỷ trọng ngành chăn nuôi, thủy sản. Trong đó, năm 2018 có sự chuyển dịch cơ cấu ngành trong nông nghiệp mạnh nhất và đây cũng là năm nước rút của huyện để hoàn thành chỉ tiêu có thêm 2 xã đạt chuẩn nông thôn mới vào năm 2019. - Nhóm tiêu chí văn hóa – xã hội – môi trường 15 Giáo dục và đào tạo: Công tác giáo dục đào tạo thường xuyên được quan tâm chỉ đạo, thực hiện, ưu tiên bố trí nguồn kinh phí để xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất trường học. Trung tâm dạy nghề huyện đã bám sát nhu cầu, kịp thời phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức dạy nghề cho lao động nông thôn theo đề án, kế hoạch được phê duyệt. 100% xã phổ cập về mầm non cho trẻ 5 tuổi. 100% xã đạt chuẩn giáo dục tiểu học mức độ 1 và 2.100% xã đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 1; tỉ lệ học sinh tốt nghiệp THCS trên 99%, trong đó 70% tiếp tục học lên THPT. Tỉ lệ giáo viên các bậc học đạt chuẩn 100%. Tỉ lệ lao động trong độ tuổi qua đào tạo toàn huyện đạt trên 38% (các xã đều đạt trên 25%). Đến nay 8/8 xã đã đạt tiêu chí này. Y tế: Công tác khám chữa bệnh cho nhân dân được duy trì thực hiện có hiệu quả, thường xuyên giám sát và chú trọng công tác phòng chống dịch bệnh. Hoàn thành cấp phát 49.633 thể bảo hiểm y tế cho các đối tượng bảo trợ xã hội, hộ nghèo, hộ cận nghèo, người cao tuổi, thân nhân người có công, trẻ em. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế toàn huyện đạt 97%. 8/8 xã có trạm y tế, có bác sỹ, y tế thôn bản. Các cơ sở dịch vụ y tế tư nhân phát triển rộng khắp trên địa bàn huyện. Tuy nhiên các trạm y tế xã hiện nay chưa đảm bảo đầy đủ trang thiết bị y tế khám chữa bệnh cơ sở theo yêu cầu nên chỉ có 5/8 xã đạt tiêu chí (Đạ R’sal, Đạ Tông, Rô Men, Đạ K’nàng, Phi Liêng) Văn hóa: Tiếp tục thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, đến nay, tỉ lệ thôn đạt chuẩn văn hóa là 50/56 thôn, chiếm 89,3%. Trong đó có 43 thôn giữ vững danh hiệu “Thôn văn hóa” 5 năm liên tục. Hiện nay 8/8 xã đều đạt tiêu chí này. Môi trường và an toàn thực phẩm: các hoạt động bảo vệ môi trường được quan tâm và triển khai thực hiện như : Vận động bà con giữ gìn vệ sinh dường làng, ngõ xóm, thu gom xử lý rác thải; tổ chức các hoạt động hưởng ứng ngày Môi trường thế giới 05/6, ngày Đại dương thế giới 08/6, chiến dịch làm cho thế giới trong sạch hơn, ra quân trồng cây xanh, phát quang các tuyến đường giao thông. Thực hiện tốt kiểm soát tiêu chuẩn môi trường của các cơ sở kinh doanh, các xưởng sản xuất trên địa bàn huyện. Tỷ lệ cơ sở sản xuất kinh doạnh đạt tiêu chuẩn vệ sinh môi trường đạt 37%. Tỉ lệ hộ chăn nuôi có chuồng trại đảm bảo vệ sinh môi trường đạt quy định của vùng là 50%. 8/8 xã có nghĩa trang theo quy hoạch và có quy chế quản lý. Hiện nay đã giải quyết nhu cầu nước sinh hoạt hợp vệ sinh trên 91,5% cho dân số toàn huyện. Bảng so sánh chỉ tiêu về văn hóa - xã hội - môi trường qua các năm STT NỘI DUNG 1 Trường đạt chuẩn quốc gia Tỷ lệ tốt nghiệp THPT Tồng số học sinh 2 3 4 5 Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuồi suy dinh dưỡng NĂM 2016 NĂM 2017 NĂM 2018 7 trường 10 trường 15 trường 89,65% 38 trường/503 lớp/13.934 học sinh 96,8% 37 trường/524 lớp/15.168 học sinh 95,34% 36 trường/473lớp/15.686 học sinh 1,62% 1,54% 1,54% 16,9% 15,58% 15,58 16 6 7 8 9 10 11 12 Tỷ lệ tham gia bảo 99,7% 95,53% hiểm y tế toàn dân Tỷ lệ hộ được nghe đài truyền thanh và 96% 98% xem truyền hình Thôn đạt chuẩn văn 45/56 thôn 49/56 thôn hóa chiếm 85,7% chiếm 87,5% Cơ quan /đơn vị đạt 85/102 80/102 chuẩn văn hóa chiếm 83,3% chiếm 18,4% Gia đình đạt chuẩn 8.855/11.540 hộ 9.025/11.850 hộ văn hóa chiếm 76,73% chiếm 76,16% Tỷ lệ độ che phủ rừng 64,3% 63,9% Tỷ lệ hộ sử dụng nước 91% 90,06% sinh hoạt hợp vệ sinh (Nguồn: Ban chỉ đạo xây dựng chương trình nông thôn mới huyện Đam Rông) 97% 98,5% 50/56 thôn chiếm 89,3% 87/101 chiếm 85,3% 9.059/11.615 hộ chiếm 77,99% 64,64% 91,5% *Đánh giá: Những năm qua, công tác phát triển giáo dục, y tế, văn hóa và bảo vệ môi trường luôn được huyện quan tâm. Đời sống văn hóa, tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao. Tỷ lệ hộ dân được tiếp xúc với các phương tiện truyền thanh, truyền hình luôn vượt mức 95%. Các giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học, thực hiện các chế độ chính sách đối với học sinh vùng khó khăn, vùng đồng bào DTTS được thực hiện tốt. Sỹ số tại các bậc học luôn duy trì ở mức cao. - Nhóm tiêu chí hệ thống chính trị và an ninh, quốc phòng Hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh: Hệ thống chính trị từ huyện đến xã là một khối đoàn kết, hoạt động tương đối mạnh. Đảng bộ các cấp thể hiện tốt vai trò hạt nhân lãnh đạo toàn diện ở địa phương, nhiều năm liền đạt danh hiệu tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, trên 80% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ. Bộ máy chính quyền được củng cố, kiện toàn, đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước ở các cấp từ huyện đến xã. Đội ngũ cán bộ, công chức cơ bản đạt chuẩn đáp ứng yêu cầu về mọi mặt. Hàng năm, tổ chức đào tạo, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ cấp huyện và xã. Hiên nay 8/8 xã đạt tiêu chí này. An ninh trật tự xã hội: Công tác an ninh trật tự luôn được củng cố và giữ vững; thường xuyên vận đồng các tầng lớp nhân dân tham gia tốt công tác bảo vệ an ninh Tổ quốc, phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội. Hàng năm, đều đảm bảo chỉ tiêu tuyển chọn công dân ngũ và các chương trình huấn luyện thường kỳ. Các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương đã chủ động phát hiện, giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh tại cơ sở; đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; quan tâm giải quyết những đơn thư tồn đọng, kéo dài gây bức xúc trong nhân dân. Hiện nay đã có 8/8 xã đạt tiêu chí này. *Đánh giá: Thời gian qua, Đảng bộ huyện đặc biệt quan tâm tới việc lãnh đạo, chỉ đạo củng cố, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh toàn diện, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng của địa phương. Đảng bộ huyện đã chỉ đạo các đảng bộ cơ sở tập trung đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tăng cường hiệu quả của tổ dân vận cơ sở, quan tâm giải quyết tốt các vấn đề bức xúc trong nhân dân; thực hiện nghiêm túc việc phân tích, đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng 17 viên một cách xác thực, bảo đảm đúng quy định, quy trình, phát huy tốt vai trò của cán bộ đảng viên, đặc biệt đối với cán bộ lãnh đạo trong xử lý, giải quyết công việc được giao. Huyện ủy Đam Rông đã tập trung lãnh đạo triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện. Các lực lượng chức năng đã chủ động đấu tranh ngăn chặn các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; giải quyết tốt an ninh nội bộ, an ninh nông thôn, an ninh trong tôn giáo; xử lý kịp thời nhiều vụ việc phức tạp, bức xúc không để đột biến, bất ngờ, gây rối, phá hoại, ảnh hưởng đến an ninh trật tự. Qua đó kiềm chế, đẩy lùi các hoạt động của nhiều loại tội phạm… Bảng so sánh một số nội dung an ninh, quốc phòng qua các năm STT 1 2 3 4 5 6 NỘI DUNG Tuyển chọn, gọi công nhân nhập ngũ Xử lý hành chính vi phạm an toàn giao thông Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật Tập huấn công tác hòa giải cơ sở Công tác tiếp dân Đơn thư khiếu nại, tố cáo đã giải quyết NĂM 2016 NĂM 2017 NĂM 2018 50 chiến sĩ 40 chiến sĩ 40 chiến sĩ 1.711 trường hợp 1.091 trường hợp 924 trường hợp 12 buổi/ 1.150 lượt người 11 buổi/ 1.000 lượt người 45 buổi/ 3.000 lượt người 4 buổi/ 750 người 2 buổi/332 người 2 buổi/ 325 người 318 lượt người 325 lượt người 301 lượt người 37/44 đơn thư 93/109 đơn thư 141/155 đơn thư Nguồn: B/c UBND Huyện Nhờ thực hiện tốt được tiêu chí này, đã góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ của hệ thống chính trị, qua đó thúc đẩy triển kinh tế, xã hội ngày càng phát triển, an ninh quốc phòng ngày càng được giữ vững 2.2. Vai trò của Mặt trận, các đoàn thể và nhân dân trong xây dựng nông thôn mới - Công tác tuyên truyền vận động Mặt trận và đoàn thể các cấp đã chú trọng phối hợp đẩy mạnh công tác tuyên truyền. Nhiều hình thức tuyên truyền được triển khai rộng rãi, sáng tạo qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua hội họp, qua các cuộc thi tìm hiểu dưới hình thức sân khấu hóa. Mặt trận các cấp đã tổ chức nhiều lớp tập huấn về nội dung xây dựng nông thôn mới, trao đổi về phương pháp tuyên truyền vận động nhân dân đóng góp ủng hộ. Nhiều phong trào đã được phát động tạo nên một không khí sôi nổi, hào hứng trong cộng đồng, khu dân cư. Do công tác tuyên truyền được chú trọng nên đã tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong các cấp, các ngành và trong các tầng lớp nhân dân về nội dung, ý nghĩa của chương trình, vai trò chủ thể của người dân nông thôn trong xây dựng nông thôn mới. Qua công tác tuyên truyền, tạo được sự đồng thuận, chia sẻ của nhân dân để cùng chung sức xây dựng nông thôn mới. 18 Thông qua công tác tuyên truyền, vận động đã xuất hiện ngày càng nhiều những cách làm hay, những mô hình mới được triển khai thực hiện trên tất cả các lĩnh vực. Hiện nay, trên địa bàn huyện đã có 143 mô hình, trong đó có 20 mô hình tiêu biểu, những mô hình này chủ yếu tập trung trên các lĩnh vực: Phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh trật tự, bảo vệ môi trường, xây dựng đời sống văn hóa gắn với xóa bỏ tập tục lạc hậu… Trong đó, tiêu biểu như mô hình trồng măng tây của hộ ông Phạm Hùng Thắng, thôn Đạ Pin, xã Đạ K’nàng; mô hình nuôi hưu sao hộ ông Ngô Văn Vượng, thôn 3, xã Rô Men; mô hình lai ghép cây cà phê chi hội Phụ nữ thôn Bóp La, xã Phi Liêng. Ngoài ra, nhiều phong trào liên quan đến công tác môi trường được các đoàn thể phát động, triển khai và thực hiện có hiệu quả như: Mô hình “Hàng rào cây xanh”, xã Đạ Long; mô hình “Tuyến đường hoa” xã Rô Men; mô hình “Tuyến đường không rác” xã Đạ K’nàng; mô hình “Sáng – xanh – sạch – đẹp” thôn Liên Hương, xã Đạ Rsal. - Thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” gắn với phong trào “Xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” do mặt trận các cấp chủ trì đã được thực hiện rộng rãi trên phạm vi toàn huyện trong một thời gian dài. Cuộc vận động này đã tạo được sự chuyển biến sâu rộng trong nhân dân về đời sống văn hóa, góp phần hình thành lối sống mới, phát huy những truyền thống văn hóa quý báu của dân tộc, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh. Thực hiện cuộc vận động này cũng chính là thực hiện xây dựng nông thôn mới. Đoàn kết giúp đỡ nhau phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo. Phát triển kinh tế là một nội dung quan trọng trong xây dựng nông thôn mới. Để phát triển kinh tế cần phải phát huy được sức mạnh từ cộng đồng kết hợp với sự hỗ trợ của nhà nước. Muốn phát huy sức mạnh cộng đồng cần khơi dậy tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau trong khu dân cư. Cuộc vận động này đã tạo nên sự đoàn kết nhất trí trong nhân dân để hỗ trợ cùng nhau phát triển kinh tế gia đình, kinh tế trang trại. Nhiều địa phương đã có cách làm thiết thực, như giúp đỡ ngày công, con giống, về vốn, về kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt góp phần giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động, giảm tỷ lệ hộ nghèo. Đoàn kết phát huy truyền thống tương thân tương ái, đẩy mạnh các hoạt động đền ơn đáp nghĩa. Thực hiện nội dung này chính là góp phần hoàn thiện tiêu chí về văn hóa trong xây dựng nông thôn mới. Mặt trận và đoàn thể các cấp trong huyện luôn quan tâm đến việc thăm hỏi, động viên các gia đình nghèo, gia đình chính sách, người có công với cách mạng. Công tác chăm sóc thương binh, thân nhân liệt sỹ và các hoạt động đền ơn đáp nghĩa được triển khai sâu rộng tại các địa phương. Công tác vận động cứu trợ, giúp đỡ đồng bào bị thiên tai, bão lũ được phát động kịp thời đã đóng góp sức người, sức của hỗ trợ cho bà con nhân dân bị thiên tai trong huyện. Đoàn kết phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương, mọi người sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật. 19 Mặt trận và các đoàn thể ở cơ sở đã phối hợp với các trưởng thôn, già làng, người có uy tín trong cộng đồng dân cứ xây dựng hoàn chỉnh quy ước, hương ước. Bên cạnh việc vận động, Mặt trận các cấp đã chú trọng giám sát việc thực hiện hương ước, quy ước, thực hiện Pháp lệnh Dân chủ cơ sở. Ban Công tác Mặt trận khu dân cư đã quan tâm tuyên truyền chủ trương, chính sách, pháp luật trong nhân dân, vận động các tầng lớp nhân dân học tập, tìm hiểu và chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, thực hiện dân chủ ngay từ địa bàn khu dân cư thông qua các hình thức: dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và các hoạt động tự quản. Đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thực hiện nội dung này góp phần hoàn thiện tiêu chí về văn hóa trong xây dựng nông thôn mới. Mặt trận và đoàn thể các cấp đã tổ chức tốt việc đăng ký gia đình văn hoá, khu dân cư tiên tiến; tích cực vận động nhân dân các khu dân cư thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, các hoạt động văn hoá, thể thao, tham gia xây dựng thiết chế văn hoá, nhà văn hoá... Đoàn kết chăm lo sự nghiệp giáo dục, chăm sóc sức khoẻ ban đầu, phát triển thể dục thể thao và chương trình dân số - kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ môi trường. Mặt trận, các đoàn thể ở khu dân cư tiếp tục phát huy truyền thống hiếu học, với sự quan tâm của gia đình, dòng họ, của cộng đồng dân cư để chăm lo cho sự nghiệp giáo dục của con em. Chăm lo, duy trì việc phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và phấn đấu phổ cập giáo dục bậc trung học. Tích cực vận động nhân dân tự nguyện đóng góp công sức, tiền của cùng với Nhà nước chăm lo xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà trẻ, trường học, tạo môi trường giáo dục toàn diện. Thực hiện nội dung này đã góp phần hoàn thiện tiêu chí về giáo dục, y tế. Đoàn kết xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân trong khu dân cư. Thực hiện nội dung này, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp và các tổ chức thành viên đã tập trung tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng được chú trọng hơn. Các hoạt động giám sát đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức tại cộng đồng dân cư được đẩy mạnh. Mặt trận, các đoàn thể phát hiện và đóng góp những ý kiến quý báu cho đội ngũ cán bộ các cấp, ngành tại cộng đồng dân cư. - Giám sát quá trình thực hiện xây dựng nông thôn mới . Trong quá trình xây dựng nông thôn mới khó tránh khỏi những sai lầm trong vận động đóng góp, trong sử dụng vốn, trong triển khai thực hiện. Vì vậy, để khắc phục những hạn chế này, vai trò của Mặt trận, đoàn thể trong hoạt động giám sát rất quan trọng. Trong thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng là một trong những tiểu ban ở cơ sở giám sát việc thực hiện chương trình này. Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng thực hiện giám sát việc thực hiện quy hoạch xây dựng, vấn đề thu chi tài chính, đền bù giải phóng mặt bằng, sự đóng góp của nhân dân, bảo đảm 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng