Trêng ®¹i häc b¸ch khoa hµ néi
Khoa Kinh tÕ vµ Qu¶n lý
----o0o----
Môn học
Quản trị Chiến lược
THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC &
LỰA CHỌN CƠ CẤU TỔ CHỨC
Nhóm 9: Vũ Thị Minh Nhật
Văn Thị Quỳnh Nga
Phan Trọng Nghĩa
Trần Đức Minh
Lê Quý Dũng
Hµ Néi 12/2011
Quản trị chiến lược
Thực hiện chiến lược ( I ):
Lựa chọn Cơ cấu Tổ chức
TÓM TẮT CHƯƠNG
Tình huống 1: Công ty ô tô FORD
Tình huống 2: Công ty ABB ( Asea Brown
Boveri ).
Giới thiệu :
1.Tại sao phải nghiên cứu thực hiện Chiến lược ?
- Thực hiện chiến lược và quản lý của công ty
-Thực hiện Chiến lược của Công ty và nhân viên
2. Một khuôn khổ cho sự hiểu biết về cơ cấu tổ
chức.
3. Thành phần chính của cơ cấu tổ chức
-Chuyên môn hóa
- Tiêu chuẩn hóa
-Tập chung hóa
4. Các hình thức của cơ cấu tổ chức.
-Cấu trúc chức năng
-Bộ phận sản xuất
-Tính đa dạng của các bộ phận sản xuất
-Cấu trúc địa lý của các bộ phận
-Cấu trúc ma trận
5. Tổ chức các hoạt động chung.
6. Ứng dụng liên hiệp công ty giữa Công ty ô tô
Ford và Công ty ABB.
-Công ty ô tô Ford
-Công ty ABB
7. Không có cấu trúc đơn lẻ nào là hoàn hảo.
8. Tổng quan về cơ cấu tổ chức.
9. Quy cách về kích thước.
10. Bản tóm tắt.
11. Thảo luận và các câu hỏi sử dụng.
BẠN SẼ HỌC GÌ
Tại sao thực hiện chiến lược lại
quan trọng.
Thực hiện chiến lược tạo nên
lợi thế cạnh tranh cho công ty.
Tại sao các quan điểm tổ chức
là một phần quan trọng của thực
hiện chiến lược.
Cơ cấu tổ chức đặt nền móng
cho thực hiện chiến lược như
thế nào.
Các dạng mở của cơ cấu tổ
chức mà các công ty có xu
hướng sử dụng.
Tại sao lại không một cơ cấu
đơn lẻ nào lại phù hợp với tất cả
các công ty.
( Tình huống 1 ): Công ty ô tô FORD
Trải qua hơn 90 năm phát triển, hãng ô tô ford đã trở thành
một trong những công ty sản xuất ô tô lớn nhất thế giới
(năm 1997 đạt doanh số: 153 tỷ, lợi nhuận đạt: 6.9 tỷ).
Trong suốt lịch sử phát triển lâu dài đó, Ford rất tự hào với
những cải tiến và fát minh hữu ích được sử dụng để thiết kế
những chiếc xe hơi bán chạy nhất và phổ biến nhất trên thế
giới. Ví dụ, trong những năm 60, cơn bão của cuộc cách
mạng hóa trong thiết kế xe Ford từ những chiếc xe thể thao
Mustang trên thế giới. Những chiếc xe Ford nameplates
thần kỳ đã phát triển trong suốt hai thập kỷ 60 và 70 như:
Thunderbird (T-bird), Fairlance, Galaxy, Mustang và
Lincoln Continenal vẫn còn rất đặc biệt trong lịch sử các sự
kiện sản xuất xe hơi của Mỹ.
Cả 3 Công ty sản xuất ô tô lớn nhất của Mỹ (Ford, General
Motor và Chrysler) đã phát triển rất nhanh chóng trong vòng
20 năm sau chiến tranh thế giới thứ 2. Ngành công nghiệp ô
tô của Mỹ đã phát triển rất nhanh chóng không chỉ thị
trường Mỹ mà rộng rãi trên toàn thế giới. G.M và Ford đặc
biệt tập trung đầu tư cho thị trường Châu Âu sau chiên tranh
vì tốc độ phát triển nhanh chóng và thịnh vượng của nền
kinh tế tại đây, đối tượng khách hàng đa dạng và thực tế là
các quốc gia như Pháp, Mỹ, Italia có nền tảng vững chắc là
nhiều nhân tài cơ khí đã tạo ra rất nhiều đổi thủ cạnh tranh
trong ngành xe hơi tại Châu Âu như: BMW, Daimler-Benz,
Fiat, Ferarri và Renault). Trong suốt những thập kỷ 60 và
70, cả GM và Ford đã thành lập những trung tâm phát triển
sản phẩm và các nhà máy ở Châu Âu để bất đầu phát triển
và thiết kế xe hơi cho thị trường tại các quốc gia khác bằng
cách hình thành khối tập trung những chuyên gia và các
nhân tài cơ khí. Riêng Ford tập trung nguồn lực để xây dựng
khu sản xuất tại Châu Âu để thiết kế và phát triển công nghệ
máy móc tự động và những sản phẩm được thu hút bởi
những cấu kiện đặc biệt được ưa chuộng phù hợp với sở
thích, điều kiện khí hậu, thói quen lái xe và các yêu cầu về
vận hành phù hợp với môi trường tại Châu Âu. Vì xu hướng
đường ở Châu Âu thường hẹp hơn ở Mỹ nên và địa hình
cũng rất khác nhau từ vùng này sang vùng khác, các xe hơi
bán cho khách hàng Châu Âu yêu cầu phải khác về thiết kế,
sản xuất, và hình thức so với xe bán tại thị trường US. Riêng
vềphần động cơ, bộ truyền lực, hệ thống giảm sóc, các chi
tiết an toàn và cá bộ phận khác được thiết kế cho xe hơi
Châu Âu thường rất khác so với xe hơi bán tại Hoa kỳ. Hơn
nữa, xe hơi cấp cho thị trường Châu Âu thường chủ yếu
quan tâm đến vấn đề kinh tế, tiết kiệm nhiên liệu, vì giá
xăng dầu tại thị trường này đặc biệt Vì vậy, xe hơi cấp cho
thị trường Châu Âu thiết kế khu chứa thường nhỏ hơn, động
cơ tiết kiệm nhiên liệu hơn (và thường khỏe hơn) những
chiếc xe bán tại US.
. Thêm vào đó, bộ truyền lực và hệ thống giảm sóc thường
“chặt” hơn, có nghĩa là chiếc xe tạo cho người lái cảm giác bám
sát đường hơn. Điều này đặc biệt quan trong đối với đặc điểm
các chi tiết vì đối với đường hẹp và điều kiện thời tiết xấu, có
nghĩa là lái xe có thể xử lý được nhiều sự cố trong điều kiện lái
xe bất lợi, đặc biệt với các quốc gia khác nhau. Vì vậy, việc
thiết kế, các bộ phận, và yêu cầu vận hành đối với xe Châu Âu
thường khác nhiều so với việc sản xuất và phát triển động cơ
cho những chiếc xe bán tại thị trường US.
CƠ CẤU TỔ CHƯC SƠ KHAI
Để kiểm soát những điểm điểm khác biệt quan trọng khi thiết
kế, phát triển và sản xuất xe hơi tại Mỹ và Châu Âu, Ford đã
thuê 1 cơ sở sản xuất của một tổ chức trên 4 thập kỷ. Cơ sở
hoạt động tại châu Âu của Ford chịu trách nhiệm về khâu phát
triển, sản xuất và kinh doanh tại Châu Âu. Tiếp đó, trụ sở chính
tại Bắc Mỹ của Ford chịu trách nhiệm về việc phát triển, sản
xuất và kinh doanh xe ở Mỹ và một số nơi khác. Theo cách
này, Chi nhánh của Ford tại Châu Âu và và Bắc Mỹ hoạt động
độc lập (tự trị). Vì những mục tiêu thiết thực, Chi nhánh của
Ford tại Châu Âu đóng vai trò gần như là một công ty xe hơi
hoàn toàn riêng biệt với Cơ sở của Ford tại Bắc Mỹ. Mỗi bộ
phận do Công ty thiết kế, thực hiện, các trung tâm phát triển
sản phẩm, trung tâm thiết kế, nhà máy và hoạt động mua bán
đều phục vụ cho nhu cầu trên thị trường. Tuy nhiên, đối với chi
nhánh tại US, Ford lại sử dụng mốt cấu trúc bộ phận sản xuất
để quản lý 2 bộ phận riêng biệt, Ford và Lincoln/Mercury.
Mỗi bộ phận sản xuất này cung cấp một dây chuyền sản xuất xe
hơi phục vụ cho các phân khúc thị trường khác nhau (Ford cung
cấp dòng xe nhỏ và trung bình, Lincoln/Mercury cung cấp dòng
xe lớn hơn, sang trọng hơn. Lượng hàng bán ra thị trường Châu
Á/Thái Bình Dương sau chiến tranh giảm dần, vì vây khu vực
này được báo cáo trực tiếp đén trụ sở chính ở Bắc Mỹ thông
qua 1 bộ phânj quốc tế nhỏ.
Qua thời gian, việc tách biệt giữa chi nhánh Ford tại Châu Âu
và Bắc Mỹ kết dẫn đến việc tăng thêm những nỗ lực và hoạt
động của hai bộ phận này. Có nhiều trường hợp, việc thiết kế
chiếc xe Ford giống nhau phát triển ở US lại thường được lắp
đặt lại trên đất Châu Âu, với những nỗ lực phát triển và thời
gian thiết kế đáng kể như thế để tiếp cận thị trường. Thậm chí
những bộ phận và chi tiế tự động được sản xuất tại Mỹ ngày
càng không tương thích với những thiết kế riêng biệt và đặc
điểm kỹ thuật sản xuất được làm tại Chi nhánh của Ford ở Châu
Âu. Sự tách biệt trong hoạt động sản xuất của Mỹ và Âu cũng
cho thấy sự cải tiến được tạo ra trong xã hội không được
chuyển đổi một cách dễ dang cho cái khác.
Ví dụ như, Những cải tiến trong thiết kế và tiết kiệm nhiên
liệu của động cơ của Ford tại Châu Âu không thật sự thích
hợp với ford tại Bắc Mỹ trong những năm 70. Ngoài ra,
những cải tiến trong việc giới thiệu loại sơn mới, và công
nghệ lắp ráp mới của nhà máy sản xuất Ford tại Mỹ đã
không bắt nguồn từ cách thức hoạt động của nó tại Châu
Âu, mà cứ để mặc cho công ty trong tình trạng khi mà kinh
nghiệm, nhân tài và các kỹ năng trong xã hội không áp
dụng được cho mô hình khác. Toàn Công ty gặp khó khăn
để phản ứng nhanh chóng với sự nỗ lực của cả hai bộ phận
tách biệt giữa 2 vùng miền này để có được sản phẩm chất
lượng hơn, giá rẻ hơn xe hơi nhật nhập khẩu tại thị trường
Mỹ và Châu Âu trong suốt 2 thập kỷ qua. Hơn thế, những
tên sản phẩm giống nhau được dùng cho 1 chiếc xe Ford
cũng có những bộ phận khác nhau, đặc điểm thiết kế khác
nhau, và thậm chí thị trường mục tiêu giữ hai chi nhánh của
công ty. Ví dụ như, Chiếc Ford Écort ở Mỹ đã thu hút thị
phị phần ở việc chuyên chở thiết yếu với một vài đặc điểm
được tìm thấy ở những model hạng trung hoặc theo cách
thức phương đông. Mặt khác, chiếc xe Ford Escort tại Châu
Âu là xe gia đình hạng trung có đầy đủ sự lựa chọn nhưng
lại không có ở model sản xuất tại Mỹ. Sự kết hợp trong
thiét kế, phát triển và sản xuất giữa 2 khu vực đã được thực
hiện đối với toàn bộ các sản phẩm của Ford. Hơn nữa, việc
duy trì thiết kế phương tiện vận chuyển và các trung tâm
phát triển độc lập tại Châu Âu có nghĩa là toàn bộ chi phí
của Ford bị đội lên và là khoản gánh nặng tài chính trong
suốt thời gian đó. Việc kết hợp các thiết kế và hoạt động
phát triẻn được nghiên cứu trong suốt những năm 80, Công
ty nhận ra rằng nó có trên 82 mẫu thiết kế ô tô khác nhau,
không cái nào có nắp bộ tản nhiệt có kích thước giống
nhau. Vì vậy, Việc tách biệt giữa chi nhánh của Ford tại Âu
và Bắc Mỹ tiêu biểu cho phương pháp tổ chức mà công ty
không còn khà năng, đặc biệt là ngành công nghiệp ô tô trở
lên phổ biến toàn cầu.
Hình thành tổ chức chung
Tháng 4/1994, sau khi CEO (người lãnh đao cao nhất trong
công ty) Alex Trotman đã đưa ra một kết cấu tổ chức mới
cho toàn bộ công ty. Được biết đến như là Ford 2000 tái tổ
chức lại công ty liênt kết Ford tại Châu Âu và Bắc Mỹ
thành một
Bằng việc xác nhập những bộ phận riêng biệt thành một thể
thống nhất., Ông Trotman hi vọng chuyển đổi Ford thành 1
công ty năng động hơn rất nhiều và có thể cạnh tranh được với
các xe hơi của Nhật tốc độ cao, và các đối thủ cạnh tranh khác
trên thế giới. Bộ phận ô tô đơn lẻ sẽ được thiết lập gần 5 trung
tâm phát triển xe ô tô. 4 ở Mỹ và 1 ở Châu Âu. Mỗi trung tập
phát triển sẽ chịu trách nhiệm một loại xe (ví dụ như dòng xe
nhỏ, xe hạng trung, xe hạng sang, xe thể theo, xe tải chuyên
chở), sau đó được páht triển và bán trên toàn thế giới dưới sự
quản lý của người cầm quyền. Ví dụ, Với cơ cấu mới này,
trung tâm phát triển xe tại Châu Âu sẽ tập trung vào việc thiết
kế dòng xe nhỏ, bánh trước, tiết kiệm nhiên liệu và được bán ở
bất kỳ thị trường nào có nhu cầu về loại xe đó. Dòng xe kích
thước trung bình và lớn hơn, xe tải, xe thể theo sẽ được phát
triển ở 4 trung tâm phát triển đặt tại Mỹ. Mỗi trung tâm trong
số 5 trung tâm đó giám sát việc thiết kế sản phẩm, sản xuất và
bán các dòng xe hơi, xe tải theo các hạng mục. Mục đích của
việc tái tổ chức là để tạo ra 1 công ty trong đối độ ngũ sản
phẩm chung sẽ thiết kế kiểu xe theo mẫu và dòng xe, có thể
được bán trên toàn thế giới mà việc sửa đổi là nhỏ nhất. Theo
hình dung ban đầu, các kỹ sư và đội ngũ nhân viên kỹ thuật
của Ford sẽ có 2 nhiệm vụ: một là chuyên giá riêng biệt trong
khu vực chức năng và kỹ thuật (động cơ, hệ thống làm lạnh,
hệ thống giảm sóc...) và trung tâm để thực hiện báo cáo (xe
nhỏ, xe kích thước trung bình, xe hạng sang, xe thể thao, xe
tải...). Cuối cùng là họ sẽ phải báo cáo đến người giám sát ở
trung tâm, từ đó họ sẽ chỉ định. Thay vì thiết kế 2 dây chuyền
của dòng xe kích thước trung bình Tuarus để bản sang Mỹ và
Châu Âu, Công ty dự định tao ra một cơ sở cho dòng xe hạng
trung tại Bắc Mỹ, sau đó thay đổi đối với từng thị trường riêng
trên toàn thế giới. Ngược lại, đồng thời trung tâm phát triển
của Ford tại Châu Âu sẽ tập trung vào việc thiết kế cho nhu
câu dòng xe nhỏ và thay đổi nó phù hợp với điều kiện đường
xá và nhu cầu khách hàng đối với từng từng thị trường. Đến
cuối thế kỷ CEO Trotman hi vọng rằng các kỹ sư thiết kế xe
nhỏ (đặt tăị Châu Âu) sẽ tạo ra dòng xe nhỏ cho toàn thị
trường Châu Âu, Mỹ, và các thị trường khác trên toàn thế giới
sử dụng có mẫu thiết kế xe cơ bản như nhau.
Để chắc chắn rằng công ty có thể thực hiện đầy đủ tầm nhìn
của Ford 2000, Trotman rất tâm huyết đầu tư một cơ sở xe
hơi mới mà có thể thực hiện nhiều bộ phận từ một mẫu
sang các mẫu khác. Thêm nữa, Công ty đã bắt đầu đầu tư
rất nhiều vào việc thiết kế trên máy vi tính, và công nghệ
sản xuất có thể giúp các kỹ sư kiểm tra các phương nguyên
mẫu, độ tin cậy, hình thức trước khi đưa vào sản xuất thực
tế tại nhà máy. Ưu tiên việc ứng chất lượng nghiêm ngặt
của công ty, độ an toàn, hoạt động và nhu cầu có thể sản
xuất được, các kỹ sư trong nhà máy có thể trực tiếp tải các
Gầndữđây
nóthiết
mở rộng
phần
của tien
nó đạt
được
liệu
kế vàthịcác
thông
khác
từ trong
trung truyền
tâm phát
tải triển
điện và
hệ
thống
phân
phối.Ban
đầu,
ABB
đã
được
haigian
sang nhà máy, do đó tiết kiệm được rất nhiều thời
công
ty
riêng,
ASEA
(một
nhóm
kỹ
sư
người
Thụy
Điển)
và công sức. Sự kết hợp nguồn lực này cho phép sử dụng
và các
Brown-Boveri
manu
Sĩ-acturer
của kết
độnghợp
cơvới
mẫu thiết kế(a xe
rộngThụy
rãi hơn
và sản xuất
điện).
hiện
đờicho
vàotham
năm vọng
1987 với
thiếtCác
bị ABB
điện tử
là nay
nền ra
tảng
của một
Fordsáp
giảm
nhập
của
công
ty.
Mặc
dù
có
lịch
sử
lâu
dài
và
tăng
trưởng
được lượng xe thiết kế từ 24 xuống còn 16, và còn
tăng số
mà lượng
cả haicác
công
ty xe
được
hưởng
ngàykhác
của nhau
riêng trên
mình,
mẫu
thực
tế từ những
nhiều mẫu
50%.
cácBằng
ABBviệc
mớisử
là dụng
một mô
hình
quản
lý
hoạt
động
khắp
thế
những mẫu nền cơ bản cho các dòng xe
giới.
Trong
mười
ABB
đã gắng
cơ cấu
khác
nhau,
hàngnăm
nămqua,
công
ty cố
tốnlạiít opeations
thời gian và
châu
Âu
của
mình
để
đạt
được
chi
phí
thấp
hơn các
tiền bạc cho việc tái thiết kết mỗi mẫu mới riêng
biệt.nền
Bằng
kinhcách
tế của
quy
mô
cho
sản
phẩm
của
mình.
Nó
cũng
đãcủa
liên kết các thiết kế, kỹ sư và hoạt động sản xuất
thựcFord
hiệnchặt
mộtchẽ
chiến
lại tích
cực đểrằng
xâycông
dựngtythị
hơn,lược
Ôngmua
Trotman
hi vọng
sẽ có
phần
ở
nước
ngoài.
Năm
1989,
ABB
mua
các
truyền
thể phản ứng nhanh nhạy hơn với sở thích của kháchtải
hàng
điệnvà Westinghouse
Electric
và thị
kinh
doanh
phân
tăng thêm thị phần
ở nhưng
trường
khác
trên phối.
thế giới.
Trong
cùng
đó,cách
nó mua
Cơ khí
đốt, bộ
mộtphận
côngchung
ty Hoahơn
Thêm
đó,năm
bằng
sử dụng
nhiều
Kỳ trong
sáng tạo
với
các
công
nghệ
chuyên
ngành
tuabin
điện
và sẽ
quá trình hoạt động sản xuất, công ty cũng hy vọng
tự động
hóa
lĩnh
vực.
Năm
1991,
nó
mua
lại
các
doanh
tiết kiệm trên 1 tỷ bằng nhờ hiệu quả kinh tế hơn trong việc
nghiệp
từtận
Cincinnati
những
mua robot
sắm và
dụng cácMilacron,
vụ thươngmột
thảotrong
với nhà
cunglớn
cấp.
nhấtSựHoa
Kỳ
sản
xuất
máy
công
cụ
và
hệ
thống
nhà
chuyển đổi của Côn ty Ford thành 1 trong những máy
công
sảntyxuất
suốttrên
giữathế
những
1990,
ABB
sảntích
xuấthợp.
ô tô Trong
mạnh nhất
giới năm
tiếp tục
trong
thời
đã mở
rộng
thị
trường
đạt
trên
khắp
thế
giới
bằng
cách
hình
kỳ hoàng kim mới. Dưới sự quản lý của CEO mới, Jacqué
thành
liên người
minh chiến
đối tác
khác
cácphát
nasser
đã tiếplược
quảnvàtừquan
năm hệ
1997),
Ford
tập với
trung
chính
phủ
và
các
công
ty
khác
để
khai
thác
vào
thị
trường
triển tất cả các loại, cả Mỹ và nước ngoài. Với việc hợp
đang
phát
phát điện
và hệcầu,
thống
phối
Mỹra
nhất
nềntriển
côngđểnghiệp
ô tô toàn
Fordphân
đã bắt
đầuở đưa
Latinh
và bước
Đôngchuyển
Nam chính
Á. Như
gầnđầu
đâysức
là mạnh
thángmới
10 ởnăm
những
sẽ bắt
Châu
1998,
ABB
dành
hơn
$
1500000000
để
mua
kỹ
thuật
và các
Âu, Á.
công ty sản xuất ở Hà Lan sẽ cung cấp cho các công ty truy
cập nhiều hơn đến tài năng và các thị trường trên thế giới.
Qua những sự thu nhận, ABB có nhiều nhà máy, các trung
tâm R & D, và các phương tiện khác trên thế giới, do đó, nó
hiện đang quản lý một đế chế toàn cầu của các công ty.
Công ty tiếp tục mở rộng và tìm kiếm cơ hội kinh doanh
mới và thị trường.
Các nhiệm vụ tổ chức và áp lực phải đối mặt với các nhà
quản lý ABB là rất lớn. Một mặt, họ cần phải đảm bảo rằng
( Tình huống 2 ) Asea-Brown-Boveri (ABB)2
mỗi doanh nghiệp ABB vẫn đáp ứng cho các thị trường
riêng lẻ mà nó phục vụ. Mặt khác, ABB phải phát triển và
ASEA-Brown-Boveri (ABB) là một trong những nhà sản
sản xuất sản phẩm với chi phí thấp, đủ để cạnh tranh với gã
xuất châu Âu hàng đầu của thế hệ thiết bị điện, hệ thống tự
khổng lồ thiết bị điện khác trên toàn cầu. Nói cách khác,
động hóa nhà máy, người máy và máy công cụ, xe lửa tốc
ABB để cân bằng nhu cầu sản xuất chi phí thấp với phản
độ cao, và hệ thống giám sát môi trường. Công ty đang trở
ứng nhanh với thị trường địa phương. Điều này đại diện
nên nổi tiếng với nhiều loại của các sản phẩm chất lượng
cho một nhiệm vụ khó khăn thách thức lớn của tổ chức
cao và cơ cấu tổ chức của nó.
Ví dụ, Tháng 1/1999, Ford đã trả 6.45 tỷ USD để mua cơ sở
kinh doanh ô tô của Volvo Thụy Điển, do đó giúp cho Ford
tăng sức cạnh tranh hơn đối với thị trường xe hơi hạng
trung. Thành quả đạt được từ Volvo rất quan trọng với Ford
vì nó cho phép công ty đạt được nhièu thành tựu trong cải
tiến độ an toàn, lao động và công nghệ sản xuất hiện đại mà
công ty Thụy điểm đã thực hiện. (tuy nhiên, Fỏd đã không
lựa chọn viẹc mua bộ phận sản xuất xe tải của Volvo).
Với kết những gì Volvo đã đạt được, Ford trở lên cạnh
tranhthích
hơn ứng
nhiềuhai
vớimục
các Daimler
và khối
liên minh
Để
tiêu (chiChryslẻ
phí thấp
và phản
ứng
giữa
Renaul
của
Pháp
và
Nissan
của
Nhật.
Những
kếtchức
quả
nhanh), ABB được tổ chức dọc theo một ma trận, tổ
đạt được
của Volvo
hỗ trợ
nhánh
Fordlàtạiphát
châutriển
Âu
toàn
cầu lưới.
Ý tưởng
đằngchisau
một của
ma trận
công
nghệ
cốt lõi
sản xuất
chi phí
mà không
bị mất
trả cho
Jagủa
vàvàAston
Martin
đầuthấp
những
năm 90.
Rất
khả
năng
của
công
ty
để
đáp
ứng
thị
trường
địa
phương.
nhiều nhà phân tích tin rằng Ford sẽ quản lý volvo theo
Bản chất của ABB của ma trận là mỗi người báo cáo cho
cách tương tự là sẽ duy trì thừa kế và kiểu cách, trong khi
hai ông chủ đồng thời: quản lý một đất nước và quản lý một
phù hợp với tài sản thuộc quyền sở hữu của Volvo và giúp
sản phẩm. Mỗi quốc gia quản lý điều hành các hoạt động
hãng
này trởvới
lêncác
cạnh
tranh
thếmình
giới.các chiến lược
địa
phương
thiết
lậphơn
củatrên
riêng
để đối phó với thị trường địa phương, khách hàng, đối thủ
ở Châu á, Sự lớn mạnh của Ford về thị trường, quản lý tài
cạnh tranh, luật pháp quy định, và các vấn đề khác. Mỗi
chíh và công nghệ đã đưa nó đến tầm cao hơn so với đối tác
giám đốc sản phẩm giao dịch trên một cơ sở trên toàn thế
nhật Mazda. Cuối những năm 90, ford đã đưa 1 De Facto
giới với các thông số kỹ thuật và chi phí thiết kế sản phẩm
kiểm soát lợi nhuận ở Mazda băng cách sở hữu 33% vốn
và sản xuất. Cả hai loại nhà quản lý phải làm việc cùng
công ty nhật, và thay thế nhiều người mỹ trong các vị trí
nhau để thiết kế hàng đầu cạnh các sản phẩm phù hợp với
quản lý cấp cao trong công ty nhật. Rất nhiều nhà phân tích
điều kiện thị trường địa phương. Trong thực tế, hệ thống
cho răng Việc thắt chặt mối quan hệ và cung tiền sang
ma trận thường được "nghiêng" về phía người quản lý đất
Mazda để cứu công ty nhật bên bờ vực khủng hoảng tài
nước productor tùy thuộc vào chiến lược cần thiết cho một
chính do sự suy yếu của nền kinh tế Nhật và Nam Á. Tháng
sản phẩm cụ thể tại những thời điểm khác nhau.
3/1999, Ford thông báo sẽ hợptác chặt chẽ hơn với Mazda
Như ABB di chuyển vào thế kỷ tiếp theo, Giám đốc điều
để cùng nhau phát triển 1 dây chuyền sản xuất hãng xe mới
hành Goeran Lindahl đang xây dựng sau khi nỗ lực của
mà có thề làm cho các công ty cùng xúc tiến phát triển sản
người tiền nhiệm của mình theo hướng này. Trước ABB
phẩm và cùng nhau sản xuất các kết cấu quan trọng để nâng
CEO Percy Barnevik tin rằng ma trận toàn cầu cho ABB
cao hiệu quả kinh tế. Kết quả là, Mazda đã trở thành chi
một lợi thế cạnh tranh, bất chấp thực tế là nó đòi hỏi nhiều
nhánh của Ford chuyêng giúp công ty oto khổng lồ ở Mỹ
hơn và các cuộc họp tham vấn giữa các nhà quản lý từ sản
trở lên ngày càng cạnh tranh hơn trên thị trường Viễn Đông
phẩm khác nhau và các khu vực địa lý. Các định dạng ma
trận cho phép ABB phối hợp hoạt động của nó đối với
General Electric, Siemens, Toshiba, Hitachi và Mitsubishi.
Các công ty này cạnh tranh trực tiếp với ABB ở nhiều thị
trường. Ngoài ra, ma trận khuyến khích một sự đa dạng của
những quan điểm, ý tưởng, và nền văn hóa. Sự đa dạng này
sẽ trở thành quan trọng để kích thích sản phẩm mới và
những ý tưởng thị trường. Bằng việc sử dụng ma trận một
cách cẩn thận, ABB đang cố gắng để trở thành một công ty
toàn cầu thực sự với cả lãnh đạo công nghệ và sự hiện diện
mạnh mẽ của địa phương. ABB đã được mô tả như là
không1997,
Thụy Sĩ
Thụy thu
Điểncủa
cũngcông
không,
Năm
doanh
ty không,
vượt ngay
quá cả
$
châu
Âu;
các
ngôn
ngữ
chính
là
tiếng
Anh
nói.
31.000.000.000. Nó có gần 200.000 nhân viên trên toàn thế
giới. ABB dành gần 8 phần trăm của doanh số bán hàng
trên R & D (265.000.000.000 $) / năm. Nó là một lãnh đạo
công nghệ quan trọng trong sự phát triển của các hệ thống
tự động hóa nhà máy
PART 3
Lựa chọn cơ cấu tổ chức
GIỚI THIỆU
Cho đến nay, chúng tôi đã tập trung vào cách thức một công ty có thể xây dựng
và mở rộng các nguồn lợi thế cạnh tranh của mình. Chúng tôi đã phân tích làm
thế nào các công ty từ các ngành công nghiệp xây dựng chiến lược cụ thể để
tạo nguồn mới có giá trị từ các hoạt động của họ. Tuy nhiên, chiến lược xây
dựng chỉ là một phần của phương trình trong việc phát triển lợi thế cạnh tranh.
Một khi một chiến lược cụ thể đã được chọn, sau đó công ty phải dành nỗ lực
đáng kể để đảm bảo rằng các nhà quản lý và nhân viên là đoàn kết trong nỗ lực
của họ để thực thi chiến lược. Người quản lý phải thấy rằng hoạt động cá nhân Thực hiện chiến lược: là quá
trong một tổ chức làm việc với nhau để giúp đạt được lợi thế cạnh tranh. Công trình mà các chiến lược được đổi
thành những hành động mong
việc này được gọi là thực hiện chiến lược.
Chương này là lần đầu tiên của hai tập trung vào các thành phần thực hiện
chiến lược hiệu quả. Trong định nghĩa đơn giản nhất, thực hiện chiến lược đề
cập đến chiến lược chuyển đổi thành những hành động và kết quả mong muốn.
Trong một nghĩa rộng hơn, thực hiện chiến lược này liên quan đến nỗ lực xây
dựng một tổ chức hiệu quả hơn. Sự hiểu biết thực hiện chiến lược là rất quan
trọng bởi vì sự thành công của bất kỳ tổ chức tốt như thế nào phụ thuộc vào
người làm việc cùng nhau để dịch các chiến lược thành hành động. Quản lý và
nhân viên là nguồn cuối cùng của lợi thế cạnh tranh của một công ty, bởi vì lợi
thế cạnh tranh chỉ phát sinh khi các nhà quản lý, nhân viên trong một tổ chức
làm việc cùng nhau trong một cách thức tích hợp để đạt được hiệu suất cao. Vì
vậy, các vấn đề của chiến lược thực hiện và lợi thế cạnh tranh là gắn bó chặt
chẽ.
Chúng tôi bắt đầu bằng cách cung cấp một số lý do tại sao chiến lược thực hiện
là một vấn đề cấp bách. thực hiện chiến lược hiệu quả xảy ra khi người dân từ
các bộ phận khác nhau và hoạt động của một công tác tổ chức và hành động
với nhau để đạt được các chiến lược mong muốn. Trong phần thứ hai, chúng
tôi tập trung đặc biệt vào các chủ đề về cơ cấu tổ chức. Chúng tôi xem làm thế
nào một công ty có thể lựa chọn một cơ cấu tổ chức cụ thể để hỗ trợ chiến lược
của nó. Trong phần thứ ba, chúng tôi xem xét làm thế nào các công ty với các
hoạt động phong phú, toàn cầu có thể thay đổi cơ cấu tổ chức của họ. Cuối
cùng, chúng tôi xem lại Ford và ABB để xem cách họ đã sử dụng cấu trúc cụ
thể tổ chức để hỗ trợ chiến lược của họ.
TẠI SAO NGHIÊN CỨU THỰC HIỆNCHIẾN LƯỢC?
Thực hiện chiến lược là một chủ đề quan trọng cho các nhà quản lý và nhân
viên ở các cấp hiểu. thực hiện chiến lược thành công phụ thuộc vào cả hai tổ
chức quản lý tốt và một cơ sở vững chắc của các cam kết, nhân sự có thẩm
quyền. Quản lý có thể xây dựng bất kỳ số lượng các chiến lược để xây dựng lợi
thế cạnh tranh, nhưng sự thành công của bất kỳ chiến lược đưa ra chỉ tốt như
muốn.
các tổ chức và những người đứng sau nó. Nếu không có một cơ sở vững chắc
của người có thẩm quyền những người hiểu và hỗ trợ chiến lược của công ty,
nó vẫn không có gì nhiều hơn lời trên giấy. Hiệu quả của việc thực hiện cuối
cùng quyết định sự thành bại của bất kỳ chiến lược nào.
CHIẾN LƯỢC THỰC HIỆN VÀ QUẢN LÝ CỦA CÔNG TY
Một nhiệm vụ thực hiện chính cho quản lý cấp cao là thiết kế một tổ chức mà
cho phép người dân sử dụng tài năng, khả năng của mình, và hiểu biết sâu sắc
với đầy đủ trong việc hỗ trợ chiến lược của công ty. Các công ty, đặc biệt là
các công ty lớn, là các tổ chức phức tạp gồm nhiều chức năng, hoạt động, các
doanh nghiệp, và quan trọng nhất, mọi người. Nhiều người, không phải do lỗi
của riêng mình, sẽ không phải luôn luôn hiểu được giá trị và vai trò của cá
nhân như thế nào các bộ phận của tổ chức đóng góp vào chiến lược tổng thể
của công ty.
CHAPTER 9
Thực hiện chiến lược (I): Lựa chọn cơ cấu tổ chức
Thông qua một tổ chức được thiết kế tốt, quản lý cấp cao có thể hướng dẫn và
kênh nỗ lực của người dân của họ để làm việc cùng nhau trong một cách thức
tích hợp cố kết, mà tốt nhất hỗ trợ chiến lược của công ty. Xây dựng một tổ
chức, trong đó nhiều người làm việc cùng nhau suốt không phải là một nhiệm
vụ dễ dàng.
Trước tiên, các nhà quản lý bản thân phải thực hiện các bước để cẩn thận hiểu
làm thế nào loại khác nhau của chiến lược sẽ yêu cầu cấu hình cụ thể tổ chức,
thiết kế để đạt được thực hiện thành công. Cũng như mọi chiến lược của công
ty có khả năng là đặc biệt, vì vậy sẽ cần cho một tổ chức hợp lý phù hợp. Cơ
cấu tổ chức, hệ thống, nhân viên, đại diện cho những viên gạch và vữa mà thực
hiện và duy trì một chiến lược. Mỗi công ty có khả năng sẽ đòi hỏi một bộ tùy
chỉnh hoặc sắp xếp của các khối xây dựng tổ chức "" tốt nhất phù hợp với
chiến lược của nó. Nói cách khác, sự lựa chọn của làm thế nào để thiết kế và
xây dựng một tổ chức sẽ phụ thuộc chủ yếu dựa vào chiến lược của công ty. Ví
dụ, các công ty có đơn vị sự nghiệp đang theo đuổi chiến lược chi phí thấp có
khả năng lãnh đạo sẽ đòi hỏi một loại khuôn khổ tổ chức không giống như của
các doanh nghiệp cạnh tranh thông qua sự khác biệt hoặc tập trung. Ngược lại,
các công ty rất đa dạng sẽ không yêu cầu cùng loại của tổ chức thiết lập như
những công ty mà ít đa dạng. thực hiện chiến lược hiệu quả phụ thuộc vào một
sự phù hợp chặt chẽ giữa chiến lược của công ty và hình dạng hoặc cấu trúc
của tổ chức hỗ trợ nó.
Thứ hai, các nhà quản lý phải đảm bảo rằng sự lựa chọn của họ về một thiết
lập trong nội bộ tổ chức là nhất quán. Nói cách khác, tất cả các thành phần của
tổ chức phải phù hợp với chặt chẽ với nhau, trong cách tương tự như các phần
của một động cơ đốt trong hiệu suất cao. Tổ chức thống nhất có nghĩa là các
thành phần khác nhau của một tổ chức phù hợp với nhau và làm cho tinh thần
hợp lý. Tất cả các phần của tổ chức phải được sắp xếp, đặt lại với nhau, và điều
chỉnh tiền phạt theo một cách mạch lạc để làm cho việc thực hiện chiến lược
mịn và mạnh mẽ. Thực hiện, như là một nhiệm vụ liên tục, đòi hỏi phải quản lý
để giám sát tốt như thế nào nhiều chức năng của công ty, hoạt động, và mọi
người đang phối hợp thuận lợi để hỗ trợ một chiến lược nhất định. Công việc
này là gần như tương đương với một máy tính có màn hình onboard ô tô và
điều khiển các bộ phận khác nhau của động cơ nhiên liệu-the / không khí hỗn
hợp, nhiệt độ, các RPMs, và tốc độ nhàn rỗi tất cả đều phải làm việc cùng nhau
để đạt được sự cân bằng, kiểm soát, và nhanh chóng phản ứng để cung cấp
hiệu suất mịn.
THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC CỦA CÔNG TY VÀ NHÂN VIÊN
Đối với nhân viên, giá trị của các doanh nghiệp trực tiếp trên bản lề như thế
nào họ hiểu và hỗ trợ chiến lược của công ty trong việc tiến hành công việc của
mình. Tài năng và nhân viên có khả năng là nền tảng của mọi tổ chức. Những
nhân viên này là những người làm việc trên một cơ sở hàng ngày để dịch chiến
lược của công ty thành các sản phẩm hữu hình hoặc dịch vụ cho khách hàng.
Quan trọng không kém, nhân viên đại diện cho nhiều hơn chỉ đơn giản là đếm
đầu hoặc nhân viên của công ty. Họ đại diện cho các nguồn quan trọng của
kiến thức và là những đôi mắt "và tai" của tổ chức.
Nhân viên gần gũi và liên hệ với khách hàng và tiếp tục hoạt động cho họ một
activitiesmakes wellspring kiến thức và ý tưởng cho công ty. liên lạc hàng
ngày của họ với khách hàng tạo cho họ một cạnh hơn quản lý cao cấp trong
công ty cảm nhận hay không xuất hiện để được di chuyển đúng hướng. Những
người này cùng có thẩm quyền có thể nhanh chóng xác định các
PART 3
Lựa chọn cơ cấu tổ chức
khu vực tiềm năng của các cải tiến trong các hoạt động của công ty. Ví dụ,
công nhân nhà máy trên một dây chuyền lắp ráp đang ở trong một vị trí hoàn
hảo để phát hiện những điểm yếu tiềm năng và khuyết tật trong một nghề
không khí hoặc ô tô. Họ cũng là những người sẽ có nhiều khả năng biết làm
thế nào tốt nhất để đối phó với vấn đề này và đề nghị các cách để cải thiện.
công ty Nhật Bản là huyền thoại trong những nỗ lực của họ, họ làm để lắng
nghe và thu thập ý tưởng từ nhân viên của họ. Nhân viên là nguồn gốc của chất
lượng và tiếp tục cải tiến quy trình trong các nhà máy Nhật Bản.
Như vậy, chiến lược thực hiện dưới hình thức hiệu quả nhất của nó là một nỗ
lực chung. Tốt nhất, người đàn ông-các Giám đốc và nhân viên làm việc cùng
nhau trong sự hiểu biết và hỗ trợ chiến lược của công ty theo sự nỗ lực của họ.
thực hiện chiến lược bền vững hơn lựa chọn đúng loại khuôn khổ tổ chức, đó
là nhà quản lý và nhân viên làm việc cùng nhau trong một hướng đi rõ ràng và
mạch lạc. Thực hiện thành công phụ thuộc vào những nỗ lực phối hợp của
nhiều người từ tất cả các phần của công ty
KHUÂN KHỔ CHO SỰ HIÊU BIẾT VỀ CƠ CẤU TỔ CHỨC
Căn cứ để thực hiện chiến lược thành công dựa trên thiết kế một tổ chức có
hiệu quả. Người làm việc trong một tổ chức phải có khả năng hiểu hành động
của họ như thế nào interrelate với các hành động của người khác để hỗ trợ và
thực hiện chiến lược của công ty. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, tài năng,
ngay cả những người trong công ty quản lý tốt nhất đôi khi trái groping để hiểu
vai trò của mình trong việc hỗ trợ chiến lược của công ty. Cơ cấu tổ chức là rất
quan trọng trong việc làm rõ vai trò của nhà quản lý và nhân viên giữ các công
ty với nhau.
Mặc dù cấu trúc từ thường gợi lên hình ảnh của các quy tắc cứng nhắc và kiểm
soát chặt chẽ, khái niệm về cơ cấu tổ chức thực sự là phong phú hơn nhiều.
Phát triển một cơ cấu phù hợp để phù hợp chặt chẽ và hỗ trợ chiến lược của
công ty là một trong những nhiệm vụ chính của ban quản lý cấp cao. Trong
một số cách, sự lựa chọn của cơ cấu tổ chức là rất quan trọng và lâu dài cho
công ty mà nó có thể ảnh hưởng đáng kể cách thức công ty sẽ xây dựng và
thực hiện chiến lược trong khoảng thời gian sau đó.
Cấu trúc đề cập đến định nghĩa chính thức của các mối quan hệ làm việc trong
một tổ chức của ngày. Cơ cấu tổ chức là một thành phần quan trọng trong bất
kỳ tổ chức và phục vụ một mục đích hai lần. Ngày ông một tay, cơ cấu phân
biệt và chia tách các nhiệm vụ cụ thể tạo nên hoạt động của công ty: những gì
mọi người nên làm. Mặt khác, cơ cấu cung cấp cơ sở để tích hợp các nhiệm vụ
này vào một toàn bộ mạch lạc: làm thế nào mọi người nên làm việc cùng nhau.
Cấu trúc cân đối nhu cầu tách và kết hợp nhiệm vụ trong một tổ chức.
Cơ cấu tổ chức là cực kỳ quan tâm đến các mối quan hệ giữa các hoạt động.
Phân nhóm cùng nhau hoạt động cốt lõi quan trọng thành các đơn vị tổ chức
các hình thức cơ sở cho một chiến lược bền vững. Bằng cách này, quản lý tốt
hơn có thể hiểu được thành phần của những gì cấu thành nguồn chính của lợi
thế cạnh tranh của nó. Một cấu trúc được thiết kế tốt tạo điều kiện cho việc
thực hiện các hoạt động của công ty trung ương bổ sung thêm rất nhiều giá trị
gia có thể hỗ trợ quản lý để xây dựng và mở rộng thẩm quyền đặc biệt của
công ty vào các lĩnh vực mới hoạt động trong khoảng thời gian sau đó. Công ty
sẽ chọn một cấu trúc phù hợp nhất với nhóm đặc biệt của họ hoạt động. Ví dụ,
hãy xem xét các minh họa của Exxon và AT & T từ một chương trước đây về
chiến lược công ty. Việc thăm dò, sản xuất và tinh chế các sản phẩm dầu khí
Exxon của kinh doanh là quan trọng đơn nhất. Mặt khác, AT & T ngày càng
tham gia vào các sản phẩm khác nhau dựa trên viễn thông và dịch vụ theo
nhiều cách khác nhau đáng kể từ kinh doanh cốt lõi lịch sử của nó. Một trong
những mong chờ rằng quản lý của Exxon sẽ thích một loại cấu trúc tổ chức các
hoạt động của Exxon liên quan chặt chẽ trong khi AT & T của quản lý sẽ chọn
khác trong việc quản lý mảng của nó rộng hơn của các doanh nghiệp và công
nghệ.
CHAPTER 9
Thực hiện chiến lược (I): Lựa chọn cơ cấu tổ chức
Vì vậy, bất kỳ chiến lược được sẽ đòi hỏi một hình thức cụ thể của cơ cấu tổ
chức để hỗ trợ cho vay tốt nhất để thực hiện. Nói cách khác, chiến lược của
công ty là một yếu tố lớn ảnh hưởng như thế nào các nhà quản lý cấp cao lựa
chọn để tổ chức và hoạt động của nhóm chính thêm giá trị gia và các nhiệm vụ.
Chiến lược này một công ty sẽ lựa chọn, trong đo lớn, xác định các nhóm hoạt
động và nhiệm vụ, quyền lựa chọn các thực hành và thủ tục để đạt được sự
nhất quán về hiệu suất, và phái đoàn của chính quyền trong công ty. Một khi
cơ cấu tổ chức của một công ty được đặt ra, tuy nhiên, nó có thể rất tốn kém để
sửa đổi hoặc thay thế nó.
THÀNH PHẦN CƠ BẢN CỦA CƠ CẤU TỔ CHỨC
Ba thành phần quan trọng, hoặc kích thước, soạn cơ cấu tổ chức: (1) chuyên
môn, (2) tiêu chuẩn hóa, và (3) tập trung. Mỗi của các thành phần của cơ cấu tổ
chức ảnh hưởng như thế nào các nhà quản lý và nhân viên tương tác (xem
Hình 9-1).
Chuyên môn
Chuyên ngành liên quan đến xác định và phân công các hoạt động cụ thể hoặc
nhiệm vụ cho các cá nhân thích hợp, các đội, đơn vị có khả năng thực hiện
chúng. Khi được sử dụng có hiệu quả,
Kích thước của Cơ cấu tổ chức Hình ( 9 – 1 )
Chuyên môn
Kết hợp hoạt động với những người tốt nhất có thể thực hiện chúng
Tìm thấy ở tất cả các cấp trong một tổ chức
Tiêu chuẩn
Thực tiễn, thủ tục, và hướng dẫn cung cấp cơ sở để thực hiện nhất quán
Tập trung vào việc đạt được thứ tự nội bộ bên trong một cấu trúc nhất định
Tập trung
Đoàn đại biểu của chính quyền trong cả cấp bậc của tổ chức
cho phép một tổ chức chuyên môn để phân chia nhiều hoạt động và nhiệm vụ
và phân bổ chúng vào những người giỏi nhất được trang bị để xử lý. Kích
thước của chuyên môn có thể được tìm thấy ở tất cả các cấp trong một tổ chức.
Mọi công ty đều sử dụng khái niệm chuyên môn một cách nào đó. Ví dụ, trong
một nhà máy sản xuất ô tô, thợ hàn thực hiện chỉ những nhiệm vụ có liên quan
đến hàn, lắp ráp làm công việc của họ bằng cách đặt các bộ phận của xe với
nhau; họa sĩ làm việc các máy móc chuyên ngành mà mỗi loại sơn xe đến một
kết thúc sáng. Những kỹ năng của các hoạ sĩ khác nhau (chuyên ngành) từ
những người lắp ráp. Trong một tiệm thời trang, khách hàng cũng có thể tìm
thấy tại nơi làm việc chuyên môn. Ví dụ, một số phong cách đặc biệt kỹ năng
cắt và tạo dáng tóc đến phong cách hiện tại, phong cách khác tốt hơn được đào
tạo tại các lựa chọn kết hợp bên phải của thuốc nhuộm thay đổi màu tóc theo
màu da hay giai điệu của một khách hàng, trong khi phong cách khác chuyên
về chăm sóc cho bàn tay và bàn chân như manicurists và pedicurists. Nhân dân
tiến hành các hoạt động cụ thể theo kỹ năng và khả năng của mình.
Chuyên ngành cũng được tìm thấy khi chúng tôi kiểm tra các đơn vị lớn hơn
của một doanh nghiệp. Ví dụ, một nhà sản xuất ô tô có thể quyết định tất cả
các nhóm hoạt động lắp ráp của mình trong một phần của nhà máy, trong khi
đặt máy móc chuyên ngành sơn khác. Trên một quy mô lớn hơn, công ty ô tô
cũng có thể nhóm tất cả các hoạt động lắp ráp tại một trong những đơn vị báo
cáo cho quản lý cấp cao, trong khi đặt tất cả các hoạt động sản xuất động cơ
của nó trong một đơn vị khác dành riêng cho chuyên ngành sản xuất động cơ.
PART 3
Lựa chọn cơ cấu tổ chức
Trong ví dụ salon tóc, một công ty như Supercuts có thể nhóm tất cả các tiệm
Mỹ và các cửa hàng của mình trong một đơn vị, trong khi đặt tất cả các tiệm
Mỹ Latinh trong một đơn vị khác. Supercuts có thể chọn cách này vì thời trang
và phong cách tóc yêu cầu của khách hàng Mỹ (thời gian dành cho việc makeup, thời gian dành cho perms, loại dầu gội sử dụng, loại hình quảng cáo) có thể
khác nhau từ những khách hàng người Mỹ Latin. Như vậy, cho Supercuts như
một công ty, chia nhau thị trường của nó có thể giúp quản lý để hiểu rõ hơn
điều kiện thị trường cụ thể. Chuyên ngành là quan trọng để tổ chức bất kỳ, bởi
vì nó phù hợp hoạt động với những người và đơn vị tốt nhất có thể thực hiện
chúng.
Tiêu chuẩn
Tiêu chuẩn là quá trình xác định công việc, thủ tục của tổ chức, và thực hành
trong một cách mà người ta làm công việc của họ một cách nhất quán. Tiêu
Tiêu chuẩn: quá trình xác định
chuẩn này liên quan đến trật tự nội bộ và đạt được hiệu năng trong một cấu
thực tiễn công việc và thủ tục của
trúc nhất định. Khái niệm về tiêu chuẩn hóa tập trung vào việc bảo đảm rằng
tổ chức để người dân liên tục có
thể thực hiện chúng ở một mức độ mọi người, các đội và các đơn vị lớn hơn thực hiện "lên đến một tiêu chuẩn
nhất định" Nó được tìm thấy dưới nhiều hình thức và ở các cấp, thậm chí trong
nhất định hoặc biện pháp thực
một công ty duy nhất.. Ví dụ, tiêu chuẩn về chất lượng và hành vi đạo đức tồn
hiện
tại ở cấp độ cá nhân, trong khi tiêu chuẩn hiệu suất tài chính được sử dụng cho
các đơn vị lớn hơn trong một công ty. Bất kể mức độ, mục đích đằng sau là đạt
được tiêu chuẩn hóa và thống nhất để đo hiệu suất.
Tiêu chuẩn có thể lấy mẫu của các quy tắc, thông lệ, thủ tục, và các tiêu chuẩn
mà theo đó người được đánh giá và đo về hiệu suất của chúng. Ví dụ, chất
lượng hàn và lắp ráp tại nhà máy ô tô sẽ được đánh giá theo đòi hỏi về yêu cầu,
chính xác quy định các biện pháp phù hợp của xe, trong khi chất lượng của
một công việc sơn sẽ được đánh giá theo ánh và nhất quán của sự xuất hiện của
xe. Trong ví dụ tiệm thời trang, tạo mẫu tóc được đánh giá theo một khá đầy
thách thức thiết lập các tiêu chuẩn, những người của khách hàng. Khách hàng
có thể cho biết nếu tóc của họ "nhìn và cảm thấy đúng" khi họ nhìn vào gương.
Tuy nhiên, trong nhà máy cả hai chiếc xe và ví dụ tiệm thời trang, một định
nghĩa tập các thực hành, thủ tục, và tiêu chuẩn được sử dụng để đo lường và
đảm bảo thực hiện nhất quán.
Khái niệm về tiêu chuẩn hóa cũng được áp dụng cho các đơn vị lớn hơn trong
công ty. Ở đây, trọng tâm của tiêu chuẩn hóa có xu hướng được thống nhất về
đo hiệu suất tài chính, điều hành. Ví dụ, một bộ phận tại một công ty ô tô sản
xuất xe hơi sang trọng có thể có một tiêu chuẩn khác nhau cho lợi nhuận so với
một bộ phận sản xuất subcompact, xe ô tô nền kinh tế cho những người trẻ
trong công việc đầu tiên của họ. Ví dụ, tại Ford, quản lý cấp cao có lẽ sẽ tổ
chức các bộ phận sản xuất xe hơi sang trọng đến một tiêu chuẩn cao hơn lợi
nhuận hơn so với việc phân chia sản xuất xe ô tô nền kinh tế cho một nhóm ít
giàu có của khách hàng. Như vậy, tiêu chuẩn hóa là có liên quan với thông lệ
tổ chức, thủ tục, và tiêu chuẩn cung cấp cơ sở để thực hiện nhất quán.
Tập trung
Tập trung đề cập đến mức độ mà các nhà quản lý cấp cao có quyền quyết định
cho toàn bộ tổ chức. Ủy quyền cho nhân viên cấp dưới là một khía cạnh quan
trọng của cơ cấu tổ chức bởi vì nó liên quan đến lựa chọn mà người dân có
quyền quyết định và hành động. Trong một tổ chức rất tập trung, cao cấp quản
lý giữ lại hầu hết các thẩm quyền để quyết định cách tiểu đơn vị sẽ hành động.
các nhà quản lý cao cấp trong một công ty quyết định tập trung chiến lược và
mục tiêu, ngay cả đối với tiểu đơn vị nhỏ hơn trong công ty. Ngược lại, một tổ
chức phi tập trung cao điểm theo ý rộng với cấp dưới quản lý và nhân viên.
Quản lý cấp cao đóng một vai trò nhỏ hơn trong việc thiết lập mục tiêu và mục
tiêu cho các tiểu đơn vị của công ty.
CHAPTER 9
Thực hiện chiến lược (I): Lựa chọn cơ cấu tổ chức
Các cấu trúc chức năng
Trong một cơ cấu chức năng, mỗi tiểu đơn vị được giao trách nhiệm cho các
hoạt động công ty trên toàn liên quan đến một chức năng cụ thể. Chức năng
nhiệm vụ được mở rộng mà mọi tổ chức thực hiện để tạo ra giá trị: sản xuất,
tiếp thị, kỹ thuật, tài chính, nguồn nhân lực. cơ cấu chức năng quản lý nhóm và
người lao động theo khu vực chuyên môn của họ và các nguồn lực mà họ sử
dụng để thực hiện công việc của họ. Ví dụ, trong một cấu trúc chức năng, tất cả
các công ty hoạt động sản xuất được giao cho cùng một tiểu đơn vị không phân
biệt nơi họ được thực hiện hoặc áp dụng những gì họ sản phẩm; tất cả các công
ty hoạt động tiếp thị được nhóm lại theo tiểu đơn vị khác mà đề duy nhất với
các vấn đề tiếp thị; tất cả các công ty phát triển và các hoạt động kỹ thuật được
nhóm lại trong một tiểu đơn vị phổ biến và vv..( xem hình 9 – 2 ).
Một cơ cấu chức năng cho phép công ty để đạt được một mức độ cao của
chuyên ngành chính thêm giá trị gia hoạt động. cơ cấu chức năng thường được
tìm thấy trong các công ty tham gia vào các cao khối lượng sản xuất của một
loạt đơn hoặc thu hẹp sản phẩm hoặc dịch vụ. Như vậy, cơ cấu chức năng là
đặc biệt hữu ích trong việc hỗ trợ các chiến lược lãnh đạo chi phí thấp. Thẩm
quyền và chuyên môn kỹ thuật của kỹ năng giá trị gia thêm các hoạt động tập
trung trong từng chức năng. Phân nhóm hoạt động theo cách của một cấu trúc
chức năng có hiệu quả và hiệu quả chi phí khi kỹ thuật, tiếp thị, hoặc giám
định phát triển sản phẩm rất khan hiếm. cơ cấu chức năng triển lãm một mức
độ cao của tiêu chuẩn hóa các thủ tục. Kiểm soát chi phí chặt chẽ, thường
xuyên báo cáo chi tiết về hiệu quả điều hành, và phân công rõ ràng trách nhiệm
là điểm nổi bật của một cấu trúc chức năng trong công ty đang tìm cách giảm
chi phí của họ. thực tiễn điều hành, chẳng hạn như cải tiến chất lượng và hiệu
quả luồng công việc, có xu hướng làm theo thủ tục chặt chẽ trong từng chức
năng. Ngoài ra, cơ cấu chức năng trong lãnh đạo công ty chi phí thấp có xu
hướng được đánh giá cao tập trung. Top quản lý theo dõi, giám sát, và làm cho
các quyết định liên quan đến tất cả các hoạt động chức năng xảy ra trong công
ty.
Cơ cấu chức năng cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ các chiến lược khác biệt,
nhưng ứng dụng của nó trong việc thiết lập như vậy được không giống như
việc sử dụng nó trong các công ty thực hành các chiến lược lãnh đạo chi phí
thấp. Nhớ lại rằng các chiến lược khác biệt đặt một phí bảo hiểm cao về chất
lượng, kỹ năng tiếp thị mạnh mẽ, tinh tế sáng tạo, công nghệ tiên tiến, và
thường là một công ty danh tiếng khác biệt. Các công ty thực hành sự khác biệt
do đó có thể sử dụng một cấu trúc chức năng để phát triển tiếp thị đặc biệt là
đặc biệt hoặc chuyên ngành hoặc R & D kỹ năng. Sản xuất hiệu quả, trong khi
quan trọng cho các công ty mà thực hành sự khác biệt, là ít có khả năng được
là quan trọng như các vấn đề khác như thiết kế sản phẩm, khả năng tiếp thị, và
công nghệ tiên tiến. Thay vào đó, các khu vực này sau của hoạt động có khả
năng nhận được sự chú ý liên tục từ quản lý hàng đầu.
Sơ đồ của một cấu trúc chức năng tiêu biểu Hình ( 9 – 2 )
Công
Công ty
ty
R&D
R&D
Sản
Sản phẩm
phẩm
Marketing
Marketing
Bán
Bán hàng
hàng
Dịch
Dịch vụ
vụ
Mỗi chức năng có trách nhiệm thiết lập riêng của mình các nhiệm vụ và các hoạt động.
Mỗi chức năng đã thiết lập riêng của mình các mục đích và mục tiêu đó có yêu cầu phối
hợp với các chức năng khác
PART 3
Lựa chọn cơ cấu tổ chức
cơ cấu chức năng đặc biệt phổ biến trong dầu khí, khai thác mỏ, và ngành công
nghiệp khác tài nguyên khai khoáng. Những công ty tổ chức hoạt động của
mình thêm giá trị gia theo các giai đoạn cụ thể của thăm dò, sản xuất, tinh chế,
phân phối, và tiếp thị. Exxon, Chevron, Texaco, và các công ty dầu lớn khác sử
dụng một cấu trúc chức năng để tổ chức các hoạt động của mình dựa trên dầu
mỏ. cơ cấu chức năng cũng thường gặp trong các công ty khác mà có mức độ
hội nhập cao thẳng đứng. Thép, thủy tinh, và các công ty cao su có truyền
thống dựa vào cấu trúc chức năng để quản lý các khâu sản xuất, tinh chế, và
chế tạo các sản phẩm của họ. Các công ty trong ngành công nghiệp viễn thông
cũng thường xuyên sử dụng một cấu trúc chức năng, bởi vì nó cho phép họ để
đạt được chi phí thấp, quản lý hiệu quả của các hoạt động truyền dẫn của họ.
Tất cả các "địa phương Baby Bell" (hoặc khu vực điều hành công ty Bell) các
công ty, chẳng hạn như Southwestern Bell, Ameritech, Mỹ Tây, Bell Atlantic,
và Bell South, sử dụng một cấu trúc chức năng quản lý hoạt động điện thoại
của họ. Một cơ cấu chức năng là một phương tiện rất hiệu quả phối hợp hoạt
động, chẳng hạn như sửa chữa, lắp đặt, và chuyển cho gia đình và doanh
nghiệp.
cơ cấu chức năng là đặc biệt thích hợp cho các công ty có dung lượng nhỏ. Họ
là như nhau phù hợp cho các công ty không đa dạng hóa vào các doanh nghiệp
mới hoặc các khu vực hoạt động. Nói cách khác, cấu trúc chức năng hỗ trợ các
nhu cầu của một công ty duy nhất-kinh doanh khá tốt. Một cơ cấu tiêu thụ ít
funtional phí bởi vì nó chỉ có một người quản lý nói chung và thiết lập một
trong những chức năng mà các nhà quản lý giám sát hoạt động cho toàn bộ
công ty (tập trung cao). Khi các doanh nghiệp là rất nhỏ hoặc bị giam trong
hoạt động của mình cho một phạm vi hẹp của sản phẩm / thị trường, cấu trúc
chức năng làm việc tốt để tập trung chuyên môn (chuyên môn cao và tiêu
chuẩn hóa). Ví dụ, các công ty chế biến thực phẩm nhỏ, chẳng hạn như bánh
và đồ hộp, thường tổ chức các chức năng cho những lý do này.
Ưu điểm của cấu trúc chức năng. cơ cấu chức năng cung cấp các nền kinh tế
của quy mô quản lý, điều hành của từng chức năng, do vậy, họ rất tuyệt vời
trong việc giảm chi phí trên không cho một công ty. cơ cấu chức năng giữ chi
phí hành chính vì tất cả mọi người trong một bộ phận cổ phần đào tạo, kinh
nghiệm và nguồn lực dành cho một chức năng cụ thể. Ngoài ra, quản lý cấp
cao có thể dễ dàng xác định và thúc đẩy những người có chuyên môn kỹ thuật
cần thiết để quản lý các chức năng cụ thể của mình. Một lợi thế quan trọng của
cơ cấu chức năng là mức độ cao quyết định tập trung làm cho nó cho phép
trong từng khu vực chức năng. cơ cấu chức năng là những cấu trúc đơn giản và
rất phù hợp cho các công ty nhỏ, các công ty ít đa dạng (lớn và nhỏ), và đang
phát triển bắt đầu-up công ty. Đối với các công ty lớn, chẳng hạn như những
người trong ngành công nghiệp dầu khí và viễn thông, cơ cấu chức năng rất
tuyệt vời trong việc hỗ trợ khối lượng cao, chi phí thấp dành riêng cho sản xuất
hoặc hoạt động. cơ cấu chức năng hỗ trợ nền kinh tế lớn có quy mô cho từng
hoạt động chức năng.
Nhược điểm của cấu trúc chức năng. Các 'gót chân Achilles của một cấu trúc
chức năng là những khó khăn nó đặt ra để phối hợp, nhất là khi công ty mở
rộng sang một loạt các sản phẩm. Khi một cấu trúc chức năng được sử dụng,
cá nhân trong đơn vị chức năng sẽ có xu hướng phát triển trung thành với đặc
sản của họ, mà thường xuyên làm cho họ không sẵn sàng thích ứng với nhu
cầu của các đơn vị chức năng khác. Xem xét, ví dụ, một đề xuất của nhân viên
tiếp thị để mở rộng dòng sản phẩm của công ty. Như một sự thay đổi sẽ làm
phức tạp nhiệm vụ của nhân viên sản xuất bằng cách tăng số lượng thiết kế,
linh kiện, thiết bị biến thể, và thiết lập sản xuất thì phải xử lý. Sản xuất nhân sự
do đó có khả năng đối tượng để thay đổi như vậy. Do đó, một bất lợi lớn trong
cơ cấu chức năng là mỗi chức năng có khả năng riêng của mình đã thiết lập các
giá trị, ưu tiên, mục tiêu, và thậm chí thời gian quan điểm về những gì cấu
thành một vấn đề cấp bách so với thường lệ. Điều này thường giới hạn hẹp
quan điểm quản lý chức năng 'liên quan đến hoạt động của toàn bộ công ty.
Chức năng
CHAPTER 9
Thực hiện chiến lược (I): Lựa chọn cơ cấu tổ chức
Đặc điểm chính của một cơ cấu chức năng
Hình ( 9 – 3 Khó
) khăn
Thuận lợi
Nền kinh tế của quy mô trong chi phí
hành chính / hoạt động
Tốt cho các công ty quy mô nhỏ
Dễ dàng để xác định tài năng
Nuôi dưỡng tập trung cao của việc ra
quyết định
Thúc đẩy nhiệm vụ và chuyên môn cao
hoạt động
Hỗ trợ một lãnh đạo chiến lược chi phí
thấp
Hỗ trợ hội nhập theo chiều dọc trong
một doanh nghiệp duy nhất
Tốt nhất cho các công ty undiversified
Phối hợp khó khăn phát sinh khi
công ty đa dạng hóa
Khó khăn đối với từng chức năng
để đáp ứng nhu cầu của các chức
năng khác
Mục tiêu và mục tiêu khác nhau
dựa trên từng chức năng
Không linh hoạt với các chiến
lược trên diện rộng toàn cầu hay
multidomestic
Nhu cầu phong phú, sửa đổi để hỗ
trợ các chiến lược khác biệt
Người nghèo phù hợp cho các
công ty rất đa dạng
các nhà quản lý nói chung sẽ đặt ưu tiên của họ ở trên đó của người khác để bổ
sung nguồn lực, đôi khi gây thiệt hại cho toàn bộ công ty. (Xem triển lãm 9-3
cho một bản tóm tắt các lợi thế và bất lợi của một cấu trúc chức năng.).
Trong một số cách, quản lý, kiểm soát các hoạt động mở rộng chức năng có thể
khó khăn để đạt được, bởi vì không có tiêu chuẩn hiệu suất thông thường có
sẵn theo đó để đo lường, ví dụ, tiếp thị hiệu quả và hiệu quả sản xuất. Đo hiệu
suất liên quan đến việc so sánh táo và cam trong cảm giác rằng mỗi chức năng
là không giống nhau. Mặc dù tiêu chuẩn hiệu suất là dễ cài đặt và đo lường
trong phạm vi chức năng một, họ không kết hợp tốt khi so sánh giữa chức năng
Các đơn vị sản phẩm
Là một công ty mở rộng thành các sản phẩm mới, các doanh nghiệp, hoặc các
khu vực của hoạt động không liên quan, cơ cấu chức năng thường mất nhiều
lợi thế của nó. Sản phẩm đa dạng cao thường dẫn đến phục vụ nhiều loại khách
hàng và liên quan đến công ty trong nhiều công nghệ. Đáp lại những phát triển,
quản lý cấp cao thường sẽ sử dụng một sản phẩm phân chia cấu trúc. đơn vị
sản phẩm là những cấu trúc mà chia thành các đơn vị tổ chức khép kín chịu
trách nhiệm phát triển, sản xuất, phân phối, và bán sản phẩm của riêng và dịch
vụ của họ cho các thị trường riêng của họ.( xem hình 9 – 4).
Đơn vị sản phẩm: hình thức
cơ bản nhất của cơ cấu sản
phẩm, trong đó mỗi bộ phận
nhà ở tất cả các chức năng cần
thiết cho nó để thực hiện chiến
lược riêng của mình và sứ mệnh
Một cơ cấu phân chia sản phẩm thiết lập một tiểu đơn vị tổ chức riêng biệt (và
quản lý đội) cho mỗi sản phẩm (hoặc nhóm sản phẩm liên quan) trong công ty.
đơn vị sản phẩm là phổ biến nhất là sử dụng cơ cấu tổ chức trong các tập đoàn
lớn của Mỹ. Hầu hết các công ty trong Fortune 500 đã mở rộng vào các doanh
nghiệp mới tại một số điểm và triển lãm một số mức độ đa dạng hóa có liên
quan hoặc không liên quan. Sản phẩm có xu hướng phân chia cấu trúc để phù
hợp với các công ty trưng bày đa dạng hóa rộng khắp bởi vì mỗi đơn vị kinh
doanh cá thể có thể sẽ phải đối mặt với một bộ khác nhau của sản phẩm, công
nghệ, thị trường, và các yêu cầu của khách hàng.
đơn vị sản phẩm có hiệu lực đại diện nhỏ, khép kín các doanh nghiệp trong
công ty. Mặc dù một công ty lớn có thể có nhiều đơn vị sản phẩm, các đơn vị
có xu hướng vẫn còn khá tự trị. Vì vậy, các nhà quản lý và cá nhân được giao
cho một bộ phận sản phẩm cụ thể thường xuyên trở thành chuyên gia về điều
đó phân chia sản phẩm và thị trường. Tuy nhiên, mỗi bộ phận báo cáo cho
quản lý cấp cao. Mỗi bộ phận sản phẩm cũng chứa các chuyên gia của riêng
chức năng của nó
CHAPTER 9
Thực hiện chiến lược (I): Lựa chọn cơ cấu tổ chức
Công
Công ty
ty
Hình 9 – 4
Diagram of a Typical Product Division Structure
R&D
R&D
Sản
Sản phẩm
phẩm 11
Sản
Sản phẩm
phẩm 22
Sản
Sản phẩm
phẩm 33
Sản
Sản phẩm
phẩm
Marketing
Marketing
Bán
Bán hàng
hàng
Dich
Dich vụ
vụ
Mỗi bộ phận là khép kín và chịu trách nhiệm cho các sản phẩm riêng của mình và thị
trường nó phục vụ.
Mỗi bộ phận chứa các thiết lập riêng của mình chức năng
và các nguồn lực mà thường tổ chức thành các phòng ban. Các phòng chức
năng được thiết kế để hỗ trợ các nhu cầu của các sản phẩm khác nhau trong bộ
phận này. Hầu hết các đơn vị sản phẩm được đánh giá trên cơ sở hiệu quả tài
chính của mình và thành công các cạnh tranh của các sản phẩm của họ. Do đó,
mỗi bộ phận sản phẩm có cơ hội để phát triển thẩm quyền riêng biệt của nó
hoặc các nguồn lợi thế cạnh tranh cho các sản phẩm riêng của mình.
Đơn vị sản phẩm hiển thị một trình độ cao về chuyên môn dựa trên các sản
phẩm công ty phát triển và sản xuất. Không giống như cấu trúc chức năng,
trong đó chuyên môn dựa trên các hoạt động hoạt động và nhiệm vụ, đơn vị
sản phẩm được tổ chức theo cách thức mà các nhà quản lý và nhân viên trở
thành các chuyên gia và các chuyên gia về các sản phẩm mà họ phát triển, sản
xuất, và bán như vậy. Một cơ cấu sản phẩm, do đó, khuyến khích các hoạt
động chức năng thiết kế riêng cho nhu cầu của sản phẩm cụ thể. Một cấu trúc
hoàn toàn chức năng, ngược lại, không khuyến khích sự nhấn mạnh như vậy.
Kể từ khi các nhà quản lý của tiểu đơn vị chức năng được các chuyên gia chức
năng, họ có sự hiểu biết ít chi tiết về sản phẩm cá nhân. Một cơ cấu sản phẩm
do đó đặc biệt là mong muốn khi các hoạt động chức năng phải được dễ dàng
thích nghi để tạo điều kiện cạnh tranh thành công của sản phẩm trên thị trường.
Đơn vị sản phẩm cũng khác nhau từ cấu trúc chức năng về hiệu suất được đo
như thế nào. đơn vị sản phẩm được đánh giá trên cơ sở lợi nhuận của mình để
đóng góp toàn bộ tập đoàn. Vì mỗi bộ phận đại diện cho một sản phẩm hoặc
nhóm sản phẩm tương tự, quản lý cấp cao có thể dễ dàng cô lập các hoạt động
tài chính của mỗi bộ phận theo một số chuẩn hoặc hiệu suất tiêu chuẩn (thường
là một tỷ lệ hoàn vốn đầu tư hoặc tài sản). Trong nhiều trường hợp, đơn vị
được đánh giá theo các tiêu chuẩn hiệu suất tốt nhất hỗ trợ bộ phận của chiến
lược kinh doanh. Do đó, các đơn vị cá nhân có thể được đánh giá theo tiêu
chuẩn hiệu suất khác nhau, thậm chí trong cùng một công ty. Do đó, quản lý
cấp cao đã mất nhiều thời gian tuyệt vời trong việc áp dụng các tiêu chuẩn hiệu
suất trên đơn vị. Ví dụ, trong General Electric, tiêu chuẩn đối với lợi nhuận có
thể được khá cao cho các doanh nghiệp trưởng thành, như bóng đèn. Vì GE là
bóng đèn cũng được thành lập trên thị trường, quản lý cấp cao có thể đặt một
ưu tiên cao cho việc phân chia bóng đèn để kiếm lợi nhuận lớn về đầu tư. Mặt
khác, quản lý cấp cao của GE có thể xem xét sử dụng một tiêu chuẩn hiệu suất
cho một doanh nghiệp phát triển nhanh chóng, chẳng hạn như
CHAPTER 9
Thực hiện chiến lược (I): Lựa chọn cơ cấu tổ chức
thiết bị y tế hoặc plastic. Trong các doanh nghiệp, GE phải tiếp tục đầu tư một
số tiền lớn xây dựng nhà máy mới và các phòng thí nghiệm. Do đó, các đơn vị
có thể được đánh giá theo tiêu chuẩn hiệu suất khác, chẳng hạn như tăng
trưởng thị phần hoặc số lượng khách hàng nhất.
Mặc dù cấu trúc sản phẩm cho phép quản lý cấp cao để trộn và kết hợp các tiêu
chuẩn để đo lường hiệu suất tài chính, quản lý cấp cao vẫn có thể cần phải thiết
lập các mốc ratewide hướng dẫn, thực hành, và các thủ tục để đảm bảo tính
thống nhất của các hành động trên toàn đơn vị, nói ví dụ, trong các lĩnh vực
đạo đức và tiêu chuẩn chất lượng. Mép tổng công ty mà thực hành quản lý chất
lượng, như Motorola, AT & T, Texas Instruments, và IBM, tất cả các sản phẩm
sử dụng các cấu trúc phân chia. Tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm dịch vụ được
thống nhất hiểu, thực hành, và áp dụng trên tất cả các đơn vị.
Một số công ty sử dụng các đơn vị sản phẩm hiển thị một mức độ cao của tập
trung, với cấp cao quản lý chặt chẽ theo dõi và thậm chí tham gia vào việc hình
thành các đơn vị kinh doanh, chiến lược sản phẩm. Ví dụ, tại Motorola, quản lý
cao cấp thường làm việc chặt chẽ với các nhà quản lý trong bộ nhớ bán dẫn và
các sản phẩm đơn vị để lên kế hoạch tiến độ sản xuất và rollouts sản phẩm cho
các loại chip điện tử mới. quản lý cấp cao, thường với các nền tảng mạnh mẽ
trong ngành điện tử, đóng vai trò trực tiếp và chủ yếu trong việc hình thành
quyết định và hành động của các đơn vị sản phẩm cá nhân. các công ty khác
bằng cách sử dụng đơn vị sản phẩm có thể được phân cấp nhiều hơn nữa. Ví
dụ, tại PepsiCo, cao cấp quản lý yêu cầu mỗi đơn vị (nước giải khát và thực
phẩm snack Frito-Lay) để đạt được một biện pháp prespecified của lợi nhuận
nhưng lá các chi tiết vận hành lên tới quản lý của đơn vị. PepsiCo quản lý làm
cho vài quyết định về cung cấp sản phẩm, thời gian triển khai, giảm giá,
khuyến mãi, và các chi tiết cụ thể khác để phân chia. Do đó, việc sử dụng các
cấu trúc phân chia sản phẩm do mình không nói nhiều về mức độ tập trung.
Lợi thế của Khu vực hành sản phẩm. đơn vị cung cấp sản phẩm lợi thế rất lớn
trong cating-allo, chuyển nhượng, và xác định trách nhiệm bắt buộc đối với
mỗi sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm. Nó cho phép quản lý tập trung chuyên
môn của họ trên các sản phẩm của họ được giao hay thị trường dòng. Ngoài ra,
mỗi bộ phận sản phẩm riêng của mình đã khép kín các ngành chức năng được
thiết kế để hỗ trợ các nhu cầu cho các sản phẩm cá nhân. Do đó, đơn vị sản
phẩm cho phép chuyên môn đáng kể cho phép các công ty để phát triển một cơ
sở chuyên môn quản lý và kỹ thuật cho từng sản phẩm. Một lợi thế lớn của
việc phân chia sản phẩm là nó cho phép quản lý cấp cao để định vị và xác định
chi phí, lợi nhuận, và các vấn đề tiềm năng một cách chính xác trong mỗi
ngành nghề kinh doanh.
Đơn vị sản phẩm cũng có xu hướng để giúp các nhà quản lý phát triển một
quan điểm liên chức năng đó là rất quan trọng để đạt được phản ứng nhanh. Vì
mỗi bộ phận sản phẩm có chứa tự tập hợp các phòng chức năng, các nhà quản
lý có xu hướng để tìm hiểu nhanh và biết những gì nó cần để phối hợp các cơ
quan chức năng có hiệu quả để xây dựng lợi thế cạnh tranh.
Cơ cấu sản phẩm cũng được phân chia cơ chế tuyệt vời bởi đó để đào tạo và
phát triển các nhà quản lý cấp cao và tương lai chung, kể từ khi loại hình này
cơ cấu tổ chức quản lý từng bộ phận chịu trách nhiệm về kết quả của một
doanh nghiệp toàn bộ. Như vậy, cơ hội thăng tiến quà khuyến khích đáng kể
cho các nhà quản lý bộ phận để tìm hiểu làm thế nào để quản lý doanh nghiệp
của họ có hiệu quả.
Tổ chức cùng một định dạng phân chia sản phẩm cao cấp quản lý cho sự linh
hoạt đáng kể cho việc sắp xếp lại hình dạng của danh mục đầu tư của công ty
của các doanh nghiệp. Quản lý có thể quyết định bán phần khác nhau của công
ty đang hoạt động kém hoặc không có triển vọng hấp dẫn cho tương lai. Kể từ
khi đơn vị sản phẩm được khép kín các đơn vị có chức năng căn nhà của riêng
mình và các trung tâm chuyên môn, quản lý cấp cao hơn dễ dàng có thể đặt
đơn vị trên khối để bán nếu họ không còn phù hợp với chiến lược tầm xa của
công ty.
CHAPTER 9
Thực hiện chiến lược (I): Lựa chọn cơ cấu tổ chức
Nhược điểm của Khu vực hành sản phẩm. Một số nhược điểm quan trọng có
liên quan đến đơn vị sản phẩm. Đầu tiên là khả năng sử dụng không hiệu quả
các nguồn tài nguyên chức năng .
Hãy nhớ rằng mỗi bộ phận sản phẩm đã tự khép kín tập hợp các phòng chức
năng của nó. Nếu một của FIM sản phẩm được thực sự khá tương tự về phát
triển, sản xuất, hoặc tiếp thị, nhiều phòng ban chức năng trùng lặp thời gian và
nỗ lực trên có thể sẽ được đơn vị phấn đấu hoàn thành mục tiêu giống nhau.
Thứ hai, một cơ cấu phân chia sản phẩm bản sao hành chính, quản lý, và các
hoạt động nhân viên. Vì mỗi bộ phận sản phẩm bởi thiết kế rất tự trị, chi phí
trên không cao, được kết hợp với cấu trúc này. Mỗi bộ phận có thể sẽ có thiết
lập của riêng hành chính của mình, bao gồm kế toán và cán bộ các chức năng
khác.
- Xem thêm -