Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận probiotic thực phẩm chức năng...

Tài liệu Tiểu luận probiotic thực phẩm chức năng

.DOCX
29
46
146

Mô tả:

BỘ CÔNG THƯƠNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VIỆN CÔNG NGHỆ SINH HỌC – THỰC PHẨM TIỂU LUẬN Môn: Thực phẩm chức năng NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG CHẾ PHẨM PROBIOTICS CHO CHỨNG RỐI LOẠN TIÊU HÓA, TIÊU DIỆT HELICOBACTER, KÉM HẤP THU ĐƯỜNG LACTOSE VÀ BỆNH VIÊM RUỘT GVHD: Nguyễn Thị Minh Nguyệt Lớp: ĐHTP10B Nhóm: 17 TP. Hồ Chí Minh, 28 tháng 02 năm 2017 LỜI CẢM ƠN Được sự phân công của Viện Công nghệ Sinh học - Thực phẩm và sự đồng ý của cô giáo bộ môn cô Nguyễn Thị Minh Nguyệt, chúng em đã tiến hành thực hiện bài tiểu luận Thực phẩm chức năng với đề tài “Nghiên cứu lâm sàng chế phẩm Probiotics cho chứng rối loạn tiêu hóa, tiêu diệt Helicobacter, kém hấp thu đường lactose và bệnh viêm ruột”. Để làm được bài báo cáo này, chúng em xin chân chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy và tạo điều kiện tối đa cho chúng em trong suốt quá trình học tập, rèn luyện tại trường Đại học Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh. Chúng em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn Nguyễn Thị Minh Nguyệt đã tận tình, chu đáo hướng dẫn để chúng em có thể hoàn thành tốt bài tiểu luận này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn thành bài tiểu luận. Song do hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm, và khả năng tiếp cận với thực tế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà bản thân chưa thấy được. Chúng em rất mong nhận được sự góp ý của cô để bài báo cáo được hoàn chỉnh hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn! DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM STT 1 2 3 Họ và tên Lê Minh Châu Hồ Thị Diệu Hằng Nguyễn Thị Loan MSSV 14013941 14080211 14065431 Phân công nhiệm vụ 9.1 – 9.2.2 9.2.3 – 9.5 9.5.1 – 9.7 Chữ ký DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 1. Các công trình nghiên cứu về tác dụng của men vi sinh vật ngày càng nhiều MỤC LỤC 9.1 Giới thiệu.............................................................................................................1 9.1.1 Vi sinh vật đường ruột........................................................................................1 9.1.2 Định nghĩa của chế phẩm sinh học.....................................................................2 9.2 Probiotics cho rối loạn tiêu hóa...........................................................................3 9.2.1 Tiêu chảy cấp tính..............................................................................................3 9.2.2 Tiêu chảy............................................................................................................4 9.2.3. Kháng sinh và Clostridium liên quan đến bệnh tiêu chảy (CDAD)...................5 9.2.4. Táo bón.............................................................................................................7 9.2.5. Hội chứng kích thích đường ruột (IBS).............................................................8 9.3. Probiotics diệt trừ Helicobacter.........................................................................9 9.4. Probiotics cho bệnh nhân kém hấp thu lactose...............................................10 9.5. Probiotics cho bệnh viêm ruột (IBD) và các tình trạng liên quan.................10 9.5.1 Viêm loét đại tràng (UC)..................................................................................11 9.5.2 Bệnh CROHN (CD).........................................................................................12 9.5.3 Pouchitis (viêm túi ruột hồi).............................................................................13 9.5.4 Viêm ruột hoại tử (NEC)..................................................................................14 9.6 An toàn của probiotics.......................................................................................15 9.7 Kết luận và xu hướng tương lai........................................................................16 1 9.1 Giới thiệu Việc sử dụng vi sinh vật giúp tăng cường sức khỏe được phát hiện rất lâu đời từ thời kỳ của nền văn minh La Mã cổ đại, nơi thực phẩm lên men với vi sinh vật được sử dụng như là một tác nhân chữa bệnh. Sử dụng các chủng probiotics, prebiotics và synbiotics để sản xuất ra thực phẩm giúp tăng cường hệ vi sinh vật đường ruột.  Prebiotics là loại chất xơ thực phẩm không tiêu hóa, giúp kích thích sự phát triển một số vi khuẩn tốt ở ruột già và do đó cải thiện hệ tiêu hóa cho vật chủ. Hiện nay, prebiotics cũng được bổ sung vào một số sản phẩm sữa dùng cho trẻ nhỏ để giúp cải thiện độ mềm của phân và do đó giúp phòng ngừa chứng táo bón ở trẻ.  Probiotics là những vi sinh vật như vi khuẩn hay nấm men nếu được đưa vào cơ thể với số lượng được kiểm soát hợp lí sẽ đem lại sức khỏe cho người sử dụng. Probiotics là các vi khuẩn sống đã được chứng minh là tốt cho sức khỏe do chúng giúp cải thiện sự cân bằng của hệ vi khuẩn đường ruột. Khi sử dụng các loại men vi sinh, men tiêu hóa, ăn sữa chua hoặc ăn các loại thức ăn lên men chính là bạn đã bổ sung một lượng vi khuẩn tốt probiotics có lợi vào cơ thể.  Synbiotics được tạo thành dựa trên sự kết hợp giữa prebiotics và probiotics. Trong đó, probiotics chính là những vi khuẩn tốt, có vai trò tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể, giúp cơ thể nâng cao khả năng phòng chống bệnh tật. Còn prebiotics là thức ăn lý tưởng cho các vi khuẩn tốt sinh sôi và gia tăng quân số. Việc bổ sung synbiotics do đó sẽ giúp cơ thể hình thành một hệ thống vi khuẩn tốt hùng hậu, khỏe mạnh và hoạt động hiệu quả. Khi càng gần giống nhau về một chủng probiotics nhưng khác nhau hiệu quả lâm sàng, sự xác định chắc chắn các sinh vật ở mức độ chính xác cao là điều cần thiết cho các nghiên cứu lâm sàng. Lợi ích tốt từ một chủng mang lại có thể không có ở các chủng khác. 2 9.1.1 Vi sinh vật đường ruột Ruột được coi là “hệ sinh thái đông dân cư nhất trên Trái Đất”. Hệ tiêu hóa dài khoảng 6,5 m và diện tích bề mặt là 200 – 300 m 2 chứa 1013 – 14 vi khuẩn của 400 loài khác nhau và các loài phụ. Từ lâu chúng ta vẫn cho rằng sự phát triển của hệ vi sinh vật đường ruột chưa phát triển tới khi trẻ được sinh ra, đường tiêu hóa của thai nhi được coi là một môi trường vô trùng. Theo Gut Microbiota Worldwatch, đường tiêu hóa của trẻ sơ sinh sẽ nhanh chóng thích ứng với các vi sinh vật và môi trường xung quanh từ người mẹ. Ví dụ vi sinh vật đường ruột của trẻ có thể bị ảnh hưởng khi mẹ cho con bú. Các vi sinh vật đường ruột rất quan trọng cho trẻ sơ sinh phát triển. Bắt đầu là một hệ sinh thái năng động, chi phối bởi Bifidobacteria (một loại vi khuẩn “thân thiện” có lợi cho đường ruột) được ổn định trong 2 – 3 năm đầu tiên. Trong suốt cuộc đời các vi khuẩn tăng lên vô cùng đa dạng và phong phú. Ở người lớn khỏe mạnh, 80% vi sinh vật trong phân được phân loại thành ba ngành: Bacteroidetes, Firmicutes và Actinobacteria. Gần cuối giai đoạn trưởng thành số lượng vi khuẩn sẽ đạt sự ổn định. Mặc dù vi sinh vật tương đối ổn định nhưng các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng vẫn có sự thay đổi trong thành phần, đặc biệt là ở người cao tuổi. Vi sinh vật đường ruột có lợi gây ra một số chức năng: o Tổng hợp và bài tiết các vitamin (vitamin K, vitamin B12) dư thừa để cung cấp chất dinh dưỡng cho vật chủ của chúng. o Cạnh tranh cho vị trí gắn hoặc các chất dinh dưỡng cần thiết ngăn ngừa các mầm bệnh. o Kích thích sự phát triển của một số mô, đó là các mô bạch huyết ruột tịt và trong đường tiêu hóa. Chúng kích thích việc sản xuất các kháng thể và sản xuất nhiều loại chất, từ các acid béo và peroxide để Bacteriocins ức chế hoặc tiêu diệt các vi khuẩn khác. Các vi sinh vật đường ruột không được xem như một cơ quan bao gồm số lượng lớn của vi khuẩn của các loài khác nhau. Bộ gen của toàn 3 bộ hệ vi sinh vật đường ruột, được xem như "microbiome”. Trong 5 năm nghiên cứu để hiểu được vai trò quan trọng của hệ vi sinh vật đường ruột ở sức khỏe và bệnh tật bởi nhiều nghiên cứu metagenomic và sử dụng công nghệ cao, khối lượng và cộng hưởng từ hạt nhân (NMR) quang phổ đã được kích hoạt trong phân tích chiều sâu của ruột, thay đổi vi khuẩn thành phần, các yếu tố cấu trúc và các chất chuyển hóa trong sinh lý chủ và sự trao đổi chất trong các điều kiện khác nhau. 9.1.2 Định nghĩa của chế phẩm sinh học Thực phẩm lên men là một phần thực phẩm quan trọng trong lịch sử của con người, là một thành phần quan trọng của chế độ ăn uống trong nhiều nền văn hóa. Ý tưởng về tiêu diệt và thay thế vi khuẩn có hại trong ruột bằng cách uống chế phẩm sinh học giúp cải thiện sự cân bằng vi khuẩn, sức khỏe và tuổi thọ được tìm ra một thế kỷ trước bởi Carre, Tissier và Metchnikof. Thuật ngữ "probiotic" xuất phát từ tiếng Hy Lạp, chữ Latin "pro" và "bios," ý nghĩa cho cuộc sống. Năm 1965 Lilly và Stillwell sử dụng thuật ngữ này cho các vi khuẩn sống và bào tử bổ sung trong thức ăn gia súc giúp làm giảm việc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi gia súc. Họ định nghĩa probiotics là một chất được sản xuất bởi một loại vi sinh vật kích thích sự tăng trưởng của vi sinh vật khác. Fuller vào năm 1989 ông đã xác định probiotic là "một thức ăn bổ sung vi sinh vật sống mà tác động đến vật chủ bằng cách cải thiện sự cân bằng vi khuẩn đường ruột của nó”. Định nghĩa rộng hơn do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp Quốc: "Vi sinh vật sống khi dùng với số lượng đầy đủ giúp con người đạt được sức khỏe tốt." Theo hầu hết các định nghĩa, vi sinh vật probiotic phải có tính khả thi và phải gây ảnh hưởng tốt đến sức khỏe đã được chứng minh một cách khoa học. Tuy nhiên, không phải "tính khả thi" hay "sống sót" trong suốt quá đường tiêu hóa là một tính chất của các vi sinh vật cho sức khỏe, kể từ khi các tế bào chết và các thành phần tế bào cũng có thể gây một số tác dụng sinh lý. 4 Hình 1. Các công trình nghiên cứu về tác dụng của men vi sinh vật ngày càng nhiều 9.2 Probiotics cho rối loạn tiêu hóa Phần này sẽ xem xét các bằng chứng cho chế phẩm sinh học trong việc quản lý một loạt các rối loạn tiêu hóa, từ tiêu chảy đến táo bón. 9.2.1 Tiêu chảy cấp tính Bệnh tiêu chảy được định nghĩa bởi các WHO là đi nhiều phân lỏng hoặc chảy nước trong một khoảng thời gian 24 giờ. Bệnh tiêu chảy cấp tính kéo dài đến khoảng 14 ngày hoặc nhiều hơn. Tiêu chảy nhiễm trùng là một bệnh do tiêu chảy gây ra bởi một tác nhân lây nhiễm. Hơn 20 loại virus, vi khuẩn và ký sinh trùng có liên quan đến bệnh tiêu chảy cấp. Trên thế giới, Rotavirus là nguyên nhân phổ biến nhất của tiêu chảy nặng và gây tử vong ở trẻ em. Virus gây bệnh khác là Astrovirus, Caliciviruses ở người (gồm Norovirus và Sapovirus) và các Adenovirus ruột. Vi khuẩn gây bệnh quan trọng là Diarrhoeagenic Escherichia coli, Salmonella, Shigella, Yersinia, Campylobacter và Vibrio cholerae. Các nguyên nhân chính của ký sinh tiêu chảy là Cryptosporidium và Giardia. Hóa trị và xạ trị cũng có thể gây tiêu chảy cấp. 5 Lý do cho việc sử dụng chế phẩm sinh học trong tiêu chảy nhiễm trùng là do chúng chống lại tác nhân gây bệnh đường ruột bằng cách cạnh tranh các chất dinh dưỡng có sẵn và các liên kết, làm cho nội ruột chua, sản xuất các loại hóa chất và tăng cụ thể theo phản ứng miễn dịch. Việc sử dụng các vi sinh vật probiotic làm giảm sự phụ thuộc vào thuốc kháng sinh, tương đối rẻ tiền, và được sử dụng tốt, thậm chí có thể sử dụng lâu dài. Một số thử nghiệm ngẫu nhiên đã được thực hiện để xác định xem liệu chế phẩm sinh học có tác dụng trong tiêu chảy nhiễm trùng cấp tính; đặc biệt về hiệu quả của chế phẩm sinh học trong bệnh tiêu chảy cho trẻ em. Một số ý kiến có hệ thống và phân tích tổng hợp đã được công bố. Trong một phân tích tổng hợp các thử nghiệm sử dụng nấm men Saccharomyces boulardii probiotic để điều trị tiêu chảy cấp tính ở trẻ em, Szajewska giảm đáng kể trong thời gian tiêu chảy, nguy cơ tiêu chảy, số lượng phân mỗi ngày và thời gian nằm viện. Kết quả của hai phân tích tổng hợp lớn hơn về tiêu chảy của trẻ em cũng khẳng định lợi ích của probiotics trong việc giảm thời gian tiêu chảy khoảng 1 ngày. Một phân tích tổng hợp gần đây của Salari gồm 19 nghiên cứu trên trẻ em được sử dụng các loại chế phẩm sinh học khác nhau. Các tác giả kết luận rằng chế phẩm sinh học làm giảm thời gian tiêu chảy cho trẻ em, nó phụ thuộc vào liều lượng và loại probiotic và không có tác dụng phụ. Hơn nữa, kết quả các thử nghiệm được công bố chỉ ra rằng có lợi ích trong việc đưa chế phẩm sinh học để phòng ngừa tiêu chảy nhiễm trùng cấp tính ở trẻ sơ sinh khỏe mạnh và trẻ em. Hầu hết các nghiên cứu được tiến hành tại các trung tâm chăm sóc trẻ em, nơi phổ biến nhất của bệnh tiêu chảy cấp. Các chủng của chế phẩm sinh học sử dụng bao thermophilus, gồm Lactobacillus Lactobacillus rhamnosus casei, GG, Bifidobacterium Streptococcus lactis, hoặc Lactobacillus reuteri trộn với sữa công thức hoặc bổ sung trực tiếp qua ăn. Kết quả chỉ ra rằng cứ 7 trẻ em sẽ cần phải được đưa L. rhamnosus GG để ngăn chặn 1 đứa trẻ từ việc phát triển viêm dạ dày ruột. Cho đến nay, probiotics không hỗ trợ sử dụng thường xuyên để phòng ngừa. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp đặc biệt trong các cơ sở y tế hoặc 6 tại các trung tâm chăm sóc trẻ em, trong đó sử dụng thường xuyên có thể có lợi. 9.2.2 Tiêu chảy Tiêu chảy là một rối loạn sức khỏe phổ biến của các du khách khi đến các điểm đến du lịch. Tỷ lệ tiêu chảy xảy ra có thể dao động từ 5% đến hơn 50%. Thực phẩm, nước bị ô nhiễm, phân là nguồn chính của nhiễm trùng. Phân tích tổng hợp chế phẩm sinh học để phòng ngừa tiêu chảy bao gồm 12 nghiên cứu ngẫu nhiên. 6 thử nghiệm phòng ngừa bằng probiotic trong thử nghiệm, với hai thử nghiệm có nhiều thiết bị điều trị. Một nghiên cứu cho thấy xu hướng (p = 0,07) cho hiệu quả và 5 phương pháp điều trị khác được tìm thấy có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm probiotic và kiểm soát, với 2 thử nghiệm có nhiều thiết bị điều trị. Kết quả có sự mâu thuẫn có thể phát sinh từ sự khác biệt về dân số nghiên cứu, loại probiotic được điều tra hoặc khác biệt về liều probiotic và thời gian điều trị. Đối với tiêu chảy, yếu tố bổ sung chẳng hạn như là điểm đến chuyến đi, tiềm năng probiotic trong du lịch, tuân thủ dùng thuốc và hành vi của các du khách, có thể ảnh hưởng đến kết quả. Tuy nhiên, lợi thế lựa chọn một quần thể nghiên cứu không hạn chế là họ có thể đại diện cho khách du lịch nói chung. 10 thử nghiệm được trình bày dữ liệu về phản ứng phụ thông báo không có tác dụng phụ nghiêm trọng. Một nghiên cứu báo cáo, 2% đối tượng đau bụng là do L. rhamnosus GG. Xét theo loại probiotic và điều chỉnh những khác biệt về kích thước mẫu nghiên cứu, 3 (75%) thử nghiệm điều trị boulardii S là có hiệu quả, nhưng chỉ có 1 (13%) của các thử nghiệm Lactobacilli là bảo vệ. Kết quả hiệu quả không phù hợp cũng có thể là do khả năng bảo quản và sự ổn định của sản phẩm probiotic. Chế phẩm sinh học đông khô ổn định tốt ở nhiệt độ phòng. Tuy nhiên, các sản phẩm đó cần phải giữ lạnh có thể là một khó khăn cho du khách. McFarland kết luận rằng một số chế phẩm sinh học (S. boulardii và một hỗn hợp của Lactobacillus acidophilus và Bifidobacterium bifidum) có hiệu quả đáng kể và có thể cung cấp một phương pháp an toàn và hiệu quả để ngăn chặn tiêu chảy. 7 Hiệu quả của probiotic không khả thi cho việc ngăn ngừa tiêu chảy đã được điều tra trong một nghiên cứu ngẫu nhiên có kiểm soát bởi Briand. Du khách (147) được chọn ngẫu nhiên để nhận hoặc không khả thi L. acidophilus hoặc giả dược hai lần mỗi ngày từ 1 ngày trước khi khởi hành tới 3 ngày sau khi họ trở về. Không có hiệu quả điều trị bằng probiotic không khả thi. 9.2.3. Kháng sinh và Clostridium liên quan đến bệnh tiêu chảy (CDAD) Hệ tiêu hóa của con người chứa khoảng 400 loại vi khuẩn probiotic nhằm duy trì sự cân bằng tự nhiên của hệ vi sinh vật đường ruột, đồng thời làm giảm sự tăng trưởng của các vi khuẩn có hại gây bệnh như tiêu chảy. Chủ yếu là nhóm vi khuẩn lactic, được biết đến tốt nhất là Lactobacillus acidophilus. Tiêu chảy do kháng sinh là kết quả của sự mất cần bằng trong hệ vi sinh vật đường ruột do việc điều trị bằng kháng sinh. Một trong những hậu quả của việc sử dụng kháng sinh gây tiêu chảy là sự phát triển quá mức các hệ sinh vật gây bệnh như Clostridium difcile. Kháng sinh gây rối loạn hệ tiêu hóa (AAD) gây nên các triệu chứng lâm sàng của bệnh tiêu chảy, 5 – 30% trường hợp này xảy ra ở các bệnh nhân hay sớm hơn trong quá trình trị liệu, hoặc mãi cho đến 2 tháng sau khi kết thúc quá trình điều trị. Hầu hết các kháng sinh, đặc biệt là những loại hoạt động trên vi khuẩn kỵ khí, là nguyên nhân gây tiêu chảy, và dễ xảy ra hơn với các kháng sinh phổ rộng, gây chậm hấp thu ở đường ruột. Một loạt các biểu hiện lâm sàng của AAD từ tiêu chảy nhẹ, là biểu hiện thường thấy nhất, cho đến viêm giả mạc tối cấp. Tiếp theo là biểu hiện tiêu chảy nước, sốt (80% trường hợp), tăng bạch cầu (80%) và xuất hiện giả mạc khi nội soi. Các biến chứng xấu có chứa độc tố gây chứng to đại tràng, thủng và sốc. Một loại AAD cụ thể là CDAD. Các vi khuẩn kị khí Clostridium là mầm bệnh chủ yếu trong bệnh viện, là nguyên nhân của hầu hết các bệnh tiêu chảy lây nhiễm trong bệnh viện, nó chứa trong các loại thuốc kháng sinh điều trị các bệnh như viêm đại tràng và vô tình giết một phần lớn hệ vi sinh vật đường ruột. Nhiễm Clostridium gây nên một loạt các biểu hiện lâm sàng, từ không có biểu hiện cụ thể, tiêu chảy nhẹ, và nặng hơn là viêm 8 đại tràng giả mạc. Khoảng một phần ba các trường hợp AAD là do Clostridium gây nên. Sự can thiệp của các chế phẩm sinh học và các bằng chứng về hiệu quả của chúng trong việc ngăn ngừa hoặc điều trị AAD và CDAD ngày càng được quan tâm. Để xác định được hiệu quả của các chế phẩm sinh học trong việc ngăn ngừa kháng sinh và Clostridium liên quan đến bệnh tiêu chảy trong của các bệnh nhân trưởng thành, Avadhani đã phân tích tổng hợp tám nghiên cứu. Có 1220 người tham gia vào các nghiên cứu này. Các kết quả thu được đều cho thấy lợi ích của việc điều trị bằng chế phẩm sinh học. Việc sử dụng chế phẩm sinh học làm giảm 44% tần suất AAD và 71% tần suất CDAD. Videlock đã đánh giá được sự giảm nguy cơ gây hại của AAD, cho dù có sự hiện diện của Clostridium. 34 phân tích tổng hợp ngẫu nhiên hóa, bắt cặp ngẫu nhiên, các thử nghiệm kiểm soát giả đã được thực hiện với 4138 bệnh nhân được điều trị bằng kháng sinh và quản lý một probiotic cho ít nhất là trong thời gian điều trị kháng sinh. Tác dụng phòng ngừa của probiotic đã được nhận thấy trên hầu khắp các loài probiotic khác nhau. Tất cả các nghiên cứu trên người lớn và trẻ em đều chỉ ra rằng, các chế phẩm có tác dụng làm giảm nguy cơ tiêu chảy. Các phân tích tổng hợp này và các phân tích khác gần đây xác nhận kết quả sớm hơn, hỗ trợ tác dụng phòng ngừa của probiotics trong AAD và CDAD. Theo như TS. BS. Phạm Hùng Vân, Chủ tịch Hội Vi sinh Lâm sàng Tp. HCM, Chủ tịch Hội Sinh học Phân tử Y khoa Việt Nam, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện và chỉ ra hiệu quả của B. clausii – một loại trực khuẩn gram dương, ái khí tùy nghi – hội đủ các tiêu chuẩn của 1 probiotics thật sự hiệu quả. Tỷ lệ B. clausii có thể được tìm thấy tự nhiên trong ruột người (103 – 106/g phân) là 20%, đồng thời kháng được với yếu tố nhiệt độ lẫn môi trường acid dịch vị để đi xuống ruột, sinh sôi và phát huy tác dụng nhờ lợi thế sinh bào tử. Hơn nữa, hầu hết các dòng B. clausii đều có tính đề kháng với nhiều loại kháng sinh, nên có khả năng tồn tại trong cơ thể bệnh nhân đang điều trị với các loại thuốc chứa chất này. Hiện nay, các thực phẩm probiotics được sử dụng phổ biến trong việc làm giảm nguy cơ tiêu chảy, là các sản phẩm có chứa hệ vi sinh 9 vật như vi khuẩn hay nấm men, điển hình là sản phẩm yogurt có chứa vi khuẩn lactic acid (Lactobacilli), cho một hệ tiêu hóa khỏe mạnh. 9.2.4. Táo bón Táo bón mãn tính rất phổ biến, đặc trưng bởi việc đi tiêu thường xuyên, đi tiêu khó khăn, hoặc cả hai. Trong cộng đồng dân cư, táo bón mãn tính xảy ra từ 15 – 25%. Trong hầu hết các trường hợp, không tìm thấy các nguyên nhân hữu cơ tiềm ẩn. Mặc dù điều trị truyền thống được xác minh là khá hay nhưng không mang lại kết quả mong muốn cho nhiều bệnh nhân, do đó các phương pháp điều trị khác được quan tâm tìm hiểu. Probiotics được sử dụng ngày càng nhiều để điều trị táo bón, dựa vào dữ liệu chứng minh sự khác biệt của hệ vi sinh vật đường ruột giữa những người khỏe mạnh và bệnh nhân bị táo bón mãn tính. Mặc dù dysbiosis là biểu hiện thứ hai của táo bón, hay là nguyên nhân gây táo bón, thì vẫn đang được tìm hiểu làm rõ. Probiotics làm giảm pH trong kết tràng, tăng áp suất thẩm thấu, tăng cường nhu động ruột, có thể làm giảm thời gian qua kết tràng. Điều này đã được xác nhận trong các nghiên cứu liên quan đến việc quản lý B. lactis DN-173 010 hoặc B. lactis HN019, rút ngắn thời gian vận chuyển qua ruột ở cả người khỏe mạnh và bệnh nhân táo bón. Gần đây Chmielewska đã xem lại một cách hệ thống dữ liệu từ các thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát. Năm thử nghiệm tổng cộng có 377 đối tượng đáp ứng tiêu chuẩn thu nhận. Các tác giả kết luận rằng người lớn bị táo bón là do tiêu hóa B. lactis DN-173 010, L. casei Shirota và E. coli Nissle 1917. Mặc dù kết quả có ý nghĩa thống kê, nhưng các tác động tổng thể là khá khiêm tốn về mặt lâm sàng. Ví dụ, so với giả dược, B. lactis DN-173 010 làm tăng lượng phân mỗi tuần một lần. Các nghiên cứu cho kết quả khả thi hơn ở người trưởng thành. Còn ở trẻ em, sử dụng L. rhamnosus GG không có hiệu quả, trong khi sử dụng L.casei rhamnosus Lcr35 làm tăng lượng phân và giảm lượng phân cứng. Không có bất kỳ tác dụng phụ nào được phát hiện trong các nghiên cứu. 10 Các nhà nghiên cứu tại Đại học King ở London lùng sục các tài liệu y khoa và đã tìm được 14 nghiên cứu thỏa tiêu chí của họ để thực hiện một nghiên cứu. Tất cả những thử nghiệm lâm sàng được thực hiện trên các bệnh nhân táo bón ngẫu nhiên, cho họ sử dụng chế phẩm sinh học hay giả dược (hoặc điều trị kiểm soát khác). Bằng cách tổng hợp các kết quả nghiên cứu, các nhà nghiên cứu tìm thấy rằng trung bình, chế phẩm sinh học làm chậm lại "thời gian vận chuyển ruột" là 12,4 giờ, tăng số lần đi tiêu mỗi tuần lên 1,3 lần, và giúp làm mềm phân. Probiotics có chứa Bifidobacterium dường như là hiệu quả nhất. Trong nhiều nghiên cứu, đặc biệt là các nghiên cứu lặp lại với chủng probiotic thì đã chứng minh có hiệu quả, probiotics giúp giảm táo bón. 9.2.5. Hội chứng kích thích đường ruột (IBS) IBS là hội chứng rối loạn chức năng tiêu hóa phổ biến nhất, có thể ảnh hưởng 11 – 20% người trưởng thành ở các nước công nghiệp hóa. Nó thường bị nhầm lẫn với táo bón mãn tính. IBS gây đau bụng và rối loạn tiêu hóa, và không được giải thích bởi các cấu trúc hay hiện tượng hóa sinh bất thường. Những dấu hiệu ban đầu cho thấy sự thay đổi hệ vi sinh vật đường ruột ở bệnh nhân IBS; tuy nhiên vẫn còn tiếp tục nghiên cứu để xác định có chăng chúng là nguyên nhân hay hậu quả của sự thay đổi nhu động ruột và bài tiết. Các phân tích tổng hợp đưa ra các kết luận khác nhau về hiệu quả, một phần là do sự khác nhau về kích thước mẫu, thiết kế nghiên cứu thiếu thốn và sử dụng các chủng probiotic khác nhau. Một phân tích tổng của 20 thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát cho thấy rằng việc sử dụng các probiotics có thể cải thiện IBS nói chung và giảm chứng đau bụng. Một phân tích toàn diện 19 thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát công bố giữa năm 1966 và 2008 cũng đưa ra kết luận tương tự. Cả 2 thử nghiệm đều cho rằng probiotics có lợi trong việc điều trị IBS, nhưng lợi như thế nào và loài nào tốt nhất (hay kết hợp) thì vẫn chưa được xác minh. Brenner đã đánh giá 16 thử nghiệm kiểm soát ngẫu nhiên có chọn lọc một cách nghiêm ngặt và chỉ tìm thấy 11, trong thời gian quá ngắn, 11 cỡ mẫu quá nhỏ, và thiếu mục đích điều trị phân tích. Các tác giả đã kết luận rằng chỉ có 2 nghiên cứu là cho thấy sự cải thiện đáng kể so vơi giả dược trong đau bụng/khó chịu, đầy bụng/chướng, và đi tiêu. Trong cả hai nghiên cứu Bifidobacterium infaantis 3562a4 đều được sử dụng. Với những tranh cải trong sinh lý bệnh IBS, các thử nghiệm ngẫu nhiên bổ sung với các điểm cuối và thiết kế phù hợp là cần thiết để xác định mức độ điều trị của một probiotics đại diện. 9.3. Probiotics diệt trừ Helicobacter Helicobacter pylori là vi khuẩn Gram (-), có khả năng sinh bào tử, và có khả năng gây viêm loét, ung thư dạ dày. Tuy nhiên, khoảng 80% người nhiễm H. pylori không có những triệu chứng của các bệnh này. Khi niêm mạc bị tác động bởi các yếu tố môi trường như tăng nồng độ acid, tác nhân dược phẩm, các chất độc trong thức ăn, căng thẳng, khuẩn Helicobacter pylori xâm lấn vào đường tiêu hóa. Chúng xâm lấn dẫn đến loét niêm mạc nhầy và gây bệnh loét dạ dày tá tràng trong hơn 20% bệnh nhân. Ở các nước đang phát triển, dân số mang H. pylori chiếm 70 – 90%, ở các nước phát triển thì tỷ lệ nhiễm này thấp. Một trong những mục tiêu chính để điều trị bệnh loét dạ dày là loại bỏ H. pylori. Việc loại bỏ H. pylori vĩnh viễn có thể làm giảm nguy cơ phát triển của các bệnh liên quan. Nó đang được quan tâm để giảm chi phí, đưa ra các giải pháp với quy mô lớn nhằm ngăn chặn hay giảm sự xâm nhập của H. pylori. Bằng việc sản sinh các chất kháng khuẩn, probiotics có thể làm màng ngăn trở nên vững chắc. Hơn nữa, probiotics còn cạnh tranh với các thụ thể bám dính của H. pylori, kích thích sản xuất mucin và ổn định màng niêm mạc ruột. Trong một phân tích gần đây, Wang đã nghiên cứu xem Lactobacillus và Bifidobacterium có chứa các tiền probiotic, có thể làm tăng khả năng loại bỏ H. pylori và giảm tác dụng phụ. Mười thử nghiệm đối chứng song song được thực hiện để so sánh khả năng loại trừ H. pylori của probiotics trong các phân tích tổng hợp. Các tác giả đã kết luận rằng probiotics làm tăng tỷ lệ loại trừ và sự tác động đến mọi tác 12 dụng phụ. Các phân tích của Tong trước đó cũng cho thấy việc bổ sung probiotics làm tăng khả năng thải bỏ H. pylori. Các thử nghiệm phân tích tổng hợp sử dụng nhiều chủng probiotics. Cả hai phân tích đều cho thấy sự tác động chủ yếu của Lactobacillus GG; các probiotics khác có mức động ít hơn. Kể từ khi Lactobacillus chiếm ưu thế trong dạ dày người, Zou đã giả định rằng probiotics Lactobacillus là rất cần thiết để ức chế vi khuẩn H. pylori và kết luận rằng việc bổ sung Lactobacillus để loại bỏ H. pylori làm tăng tỷ lệ loại trừ cho bệnh nhân được điều trị đầu tiên và giảm các tác dụng phụ như tiêu chảy, đầy hơi và rối loạn vị trong quá trình điều trị. Một vài báo cáo khác đã chỉ ra rằng, sữa chua có chức Lactobacillus gasseri (OLL2716) có tác dụng ức chế nhiễm H. pylori. Szaijewska đã phân tích những tác dụng của nấm men Saccharomyces boul-ardii như loại bỏ H. pylori và điều trị các tác dụng phụ có liên quan. Năm thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên với 1307 người (trong đó có 90 trẻ em) đã đạt được tiêu chí thu. Việc bổ sung Saccharomyces boul-ardii làm tăng tỷ lệ loại bỏ, giảm các tác dụng phụ trong quá trình điều trị và giảm một số triệu chứng cá nhân như tiêu chảy. Kết quả có thể chỉ áp dụng được ở người trưởng thành vì đa số người thử nghiệm là người trưởng thành. 9.4. Probiotics cho bệnh nhân kém hấp thu lactose Không hấp thu lactose hay còn gọi là rối loạn hấp thu lactose với các triệu chứng lâm sàng như đầy bụng, đầy hơi, buồn nôn, tiêu chảy và đau bụng. Những triệu chứng này là do không tiêu hóa được đường lactose trong ruột già, lactose được sử dụng cho quá trình lên men cho hệ vi sinh vật và làm tăng khả năng hấp thụ nước vào bên trong. Hoạt tính của enzyme lactase cao lúc mới sinh, giảm ở thời niên thiếu và thấp khi trưởng thành. Những người không hấp thu lactose có thể dung nạp một lượng lactose nhất định mà không có các biểu hiện bất thường. Nhiều nghiên cứu của Vrese cho thấy các sản phẩm sữa lên men như sữa chua có thể cải thiện việc tiêu hóa lactose ở những đối tượng mắc chứng kém hấp thu lactose và được hấp thu tốt ở những đối tượng không có khả năng dung nạp lactose trong sữa. Đặc biệt là Lactobacillus acidophilus, tham gia vào quá trình tiêu hóa và hấp thu 13 lactose. Hiện tượng này có thể giải thích là do các vi khuẩn β – galactosidase có trong các sản phẩm lên men có thể sống sót khi đi qua dạ dày và giúp chuyển hóa lactose ở ruột non (Oozeer, 2002). Các sản phẩm probiotic có chứa một số chủng vi khuẩn không gây bệnh, ví dụ như S. thermophiles, L. bulgaricus có thể sản xuất lactase, làm giảm sự kém hấp thu lactose trong ruột. Tuy nhiên, đây không phải là một tác dụng cụ thể của probiotic mà tùy thuộc vào định nghĩa “probiotic”, do nó không phụ thuộc vào sự tồn tại của vi khuẩn trong ruột non. Hơn nữa, kém hấp thu lactose ít hay nhiều không phải là một bệnh, mà là một tình trạng sinh lý bình thường. 9.5. Probiotics cho bệnh viêm ruột (IBD) và các tình trạng liên quan IBD gồm bệnh viêm ruột mãn tính và các bệnh tái phát của ruột, gồm 2 biểu hiện tương tự là loét đại tràng (UC) và bệnh Crohn (CD). Chúng khác nhau ở vị trí ruột và đặc điểm tình trạng viêm. Các cơ chế đưa ra ở các vật chủ, di truyền tạo ra các phản ứng miễn dịch linh hoạt của tế bào với các thành phần của hệ vi sinh vật gồm làm mất chức năng màng ngăn biểu mô, sự hiện diện của nhiều chất trung gian tiền viêm trong tập con các chất tác động khác nhau của T lymphocyte, thiếu các tín hiệu bảo vệ và điều tiết, và/hoặc có sự hiện diện của các kháng nguyên bất thường. Các phương pháp điều trị IBD thông thường tập trung vào điều trị viêm và ức chế sự tăng cường miễn dịch với steroids, aminosalicylates và chống các kháng thể u hoại tử. Mặc dù các thuốc này mang lại hiệu quả mong muốn, song chúng cũng gây ra các tác dụng phụ liên quan đến ức chế miễn dịch mãn tính (bệnh ác tính và nhiễm trùng nghiêm trọng). Gần đây, việc sử dụng probiotics để thay đổi hệ thực vật đường ruột đang được quan tâm. Việc bổ sung các lợi khuẩn vào môi trường phức tạp này có thể có tác dụng, ví dụ, trong các phản ứng miễn dịch trên vật chủ, chức năng màng ngăn niêm mạc để giảm bớt sự tương tác với hệ thống miễn dịch vật chủ, hoặc trên các sản phẩm trao đổi chất cuối cùng của vi sinh vật. 14 9.5.1 Viêm loét đại tràng (UC) Viêm loét đại tràng (UC) là một bệnh mạn tính của ruột già, còn được gọi là đại tràng, trong đó niêm mạc đại tràng bị viêm và có nhiều vết lở nhỏ mở, hoặc loét, có mủ và nhầy. Sự kết hợp của viêm và loét có thể gây khó chịu ở bụng và làm cho đại tràng thấy rỗng. Viêm loét đại tràng là kết quả của một phản ứng lạ của hệ thống miễn dịch của cơ thể. Thông thường, các tế bào và protein, tạo nên hệ thống miễn dịch bảo vệ cơ thể khỏi bị nhiễm trùng. Tuy nhiên, ở những người bị viêm ruột, hệ thống miễn dịch, vi khuẩn, và các thành phần khác trong ruột cho các chất lạ xâm nhập. Khi điều này xảy ra, cơ thể sẽ chuyển các tế bào máu trắng vào niêm mạc ruột, nơi đây gây ra viêm mãn tính và loét. Probiotics đã được sử dụng ở những bệnh nhân UC, không những điều trị viêm tốt mà còn ổn định duy trì khi điều trị. Một số nghiên cứu cho rằng probiotics được lựa chọn có tác động tích cực cho phản ứng. Vài phản ứng nhỏ cũng cho thấy việc hỗ trợ sử dụng probiotic cho phản ứng và duy trì sự thuyên giảm ở bệnh nhi. Tuy nhiên những dữ liệu này dựa trên các nghiên cứu tương đối nhỏ nên chưa đủ để xác định lợi ích và tác hại liên quan của probiotic. Một tổng quan của Cochrane kiểm tra vai trò của probiotics trong việc gây thuyên giảm trong UC. Bốn nghiên cứu, quá trình nghiên cứu được phân tích trên 244 bệnh nhân. Qua đó xem xét và kết luận rằng việc thêm probiotics để điều trị, thông thường không cải thiện được tỷ lệ thuyên giảm trên tổng thể mà chỉ từ mức độ nhẹ đến trung bình của bệnh UC, nhưng có được một lợi ích nhỏ trong hoạt động làm giảm bệnh. Zigra đã có hệ thống đánh giá ngẫu nhiên thử nghiệm và so sánh ảnh hưởng của tác dụng probiotics của thuốc chống viêm hoặc giả dược trong các phản ứng và duy trì sự thuyên giảm của bệnh. Chín nghiên cứu đáp ứng được các tiêu chuẩn thu nhận và cung cấp dữ liệu về 972 đối tượng. Ba nghiên cứu ước tính phản ứng thuyên giảm như là kết quả. Các nghiên cứu kiểm soát được cung cấp đủ dữ liệu cho việc duy trì sự thuyên giảm. Hai trong số đó được báo cáo cao hơn về sự 15 thuyên giảm trong UC cho các probiotics so với nhóm chính. Bốn thử nghiệm khác đã không tìm thấy bất kỳ sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm probiotic và nhóm kiểm soát. Các tác giả đưa ra giả thuyết rằng các loại probiotic (hầu hết các thử nghiệm đánh giá phản ứng thuyên giảm như đo lường kết quả các lợi khuẩn Bifidobacteria được sử dụng, có thể liên quan đến phát hiện này. Hơn nữa, các thử nghiệm so sánh hiệu quả của probiotics với tác dụng của giả dược đã cho kết quả tốt hơn so với nghiên cứu so sánh tác dụng của chế phẩm sinh học với tác dụng của thuốc chống viêm. Các nghiên cứu đối chứng so sánh probiotics với các thuốc chống viêm, thử nghiệm đã cho thấy xu hướng tăng hiệu quả. Phân tích tổng hợp kết luận rằng, mặc dù có nhiều phương pháp khác nhau và có nghiên cứu đồng nhất đáng kể, probiotics không khác biệt đáng kể so với các loại thuốc kháng viêm cho hiệu quả và an toàn trong việc bệnh UC được thuyên giảm, phát hiện này rất có thể liên quan đến một hiệu quả tương tự như các probiotics và thuốc chống viêm, và không để các probiotics cụ thể được sử dụng trong các thử nghiệm mà có hiệu quả thấp. Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh viêm loét đại tràng: Khoảng một nửa số bệnh nhân bị viêm loét đại tràng có triệu chứng nhẹ, và có biểu hiện như dung dịch trong ruột trở nên lỏng hơn, tiêu chảy kéo dài kèm theo đau bụng và máu trong phân, bụng đau quặn, những người bị viêm loét đại tràng thường bị mất cảm giác ngon miệng và có thể giảm cân. Trong trẻ em, viêm loét đại tràng có thể làm chậm sự tăng trưởng và phát triển. Sử dụng probiotics UC làm kích thích và có lợi ích tiềm năng trong một số bệnh nhân. Tuy nhiên, mối quan tâm liên quan đến kết quả từ các thử nghiệm. Đối với những bệnh nhân không chứa 5 aminosalicylate, các sản phẩm probiotic xuất hiện để có nhiều lợi ích cho một phản ứng trong việc duy trì sự thuyên giảm của bệnh từ mức độ nhẹ đến vừa phải.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan