A. MỞ BÀI
Chào bán chứng khoán là hoạt động phát hành chứng khoán để thu hút vốn nhằm thỏa
mãn nhu cầu về vốn của chủ thể chào bán., đây là hoạt động đem lại những hiệu quả tích cực
không những cho chủ thể chào bán mà còn cho cả nền kinh tế. Có hai phương thức chào bán
chứng khoán là: chào bán chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ,
trong đó chào bán chứng khoán ra công chúng sẽ cho phép doanh nghiệp huy động vốn một
cách dễ dàng để đáp ứng nhu cầu đa dạng về vốn trong quá trình hoạt động. Tuy nhiên sự
thành bại của chủ thể phát hành trong quá trình kinh doanh lại có ảnh hưởng trực tiếp đến
nguồn lợi của các nhà đầu tư, do vậy để bảo vệ lợi ích thỏa đáng của các nhà đầu tư và cũng
là để củng cố lòng tin của họ vào thị trường chứng khoán, pháp luật đã đề ra những điều
kiện, trình tự thủ tục mà các tổ chức phát hành phải thỏa mãn, và tuân theo để được chào bán
chứng khoán ra công chúng. Trong bài viết này chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu về: “Điều kiện,
trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng” để có thể thấy rõ được những điểm
hợp lý và bất cập trong quy định của pháp luật từ đó đưa ra những hướng khắc phục những
điểm bất hợp lý trong hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng tạo điều kiện cho hoạt
động này phát triển hơn nữa.
I. Khái quát về Chào bán chứng khoán ra công chúng
1. Các khái niệm chung
* Khái niệm chứng khoán: Điều 6 LCK 2006 đưa ra khái niệm chứng khoán: “Chứng
khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản
hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thực hiện dưới hình thức chứng
chỉ, bút trái ghi sổ hoặc dữ liệu hóa đầu tư bao gồm các loại chung sau đây: Chứng khoán,
trái phiều, chứng chỉ quỹ; Quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, quyền chọn mua quyền chọn
bán hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán”.
* Khái niệm chào bán chứng khoán: Chào bán chứng khoán là hoạt động phát hành
chứng khoán để thu hút vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn của chủ thể chào bán.
* Chào bán chứng khoán ra công chúng: Chào bán chứng khoán ra công chúng là việc
bán chứng khoán rộng rãi ra cho một số lượng lớn công chúng đầu tư trong đó một tỷ lệ nhất
định chứng khoán được phân phối cho các nhà đầu tư nhỏ. Tổng giá trị chứng khoán phải
đạt mức nhất định.
Theo quy định chung của các nước trên thế giới chào bán chứng khoán ra công chúng
phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất định: điều kiện về mức vốn, nhiệm vụ công bố thông
tin, đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và được sự chấp nhận của cơ
quan này. Sau khi phát hành trên thị trường sơ cấp, chứng khoán được giao dịch tại sở giao
dịch. Những công ty phát hành chứng khoán phải thực hiện một chế độ báo cáo công bố
thong tin công khai và chịu sự giám sát theo quy định của pháp LCK.
2. Chủ thể cháo bán chứng khoán ra công chúng
Chủ thể chào bán chứng khoán ra công chúng là những tổ chức tiến hành huy động
vốn trên thị trường chứng khoán bằng cách chào bán ra công chúng các giấy tờ xác nhận
quyền sở hữu đối với phần vốn góp của các tổ chức phát hành (cổ phiếu), hoặc xác nhận
quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành
(trái phiếu) hoặc xác nhận các quyền lợi hợp pháp khác của người sỏ hữu chứng khoán
(quyền ưu tiên mua trước, trái phiếu chuyển đổi…)
Chủ thể phát hành chứng khoán gồm:
Doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, trường hợp này tùy theo yêu cầu nắm giữ vốn
của nhà nước tại doanh nghiệp, phần vốn còn lại sẽ được doanh nghiệp chào bán rộng rãi ra
công chúng thông qua phát hành cổ phiếu. Hoạt động chào bán cổ phiếu của doanh nghiệp
cổ phần hóa nói trên phải chịu sự điều chỉnh của những quy định về chào bán chứng khoán
ra công chúng.
Chủ thể phát hành chứng khoán ra công chúng còn là công ty trách nhiệm hữu hạn
chuyển đổi thành công ty cố phần thông qua việc chào bán cổ phiếu ra công chúng để gọi
vốn rộng rãi từ công chúng đầu tư. Đây cũng là một trong những hình thức tổ chức lại doanh
nghiệp được thừa nhận theo Luật doanh nghiệp 2005. Vì vậy khi chào bán cổ phiếu ra công
chúng để huy động vốn các công ty này cũng phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật chào bán
chứng khoán ra công chúng.
Chủ thể phát hành chứng khoán ra công chúng là những công ty cổ phần phi đại
chúng, nay có nhu cầu tăng vốn điều lệ bằng chào bán cổ phiếu rộng rãi ra công chúng; cũng
có thể là các công ty cổ phần đại chúng gọi thêm vốn bằng cách chào bán cổ phiếu bổ sung
hoặc chào bán các loại chứng khoán khác theo quy định của pháp luật cũng có thể là công ty
cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn được phép chào bán chứng khoán ra công chúng để
huy động nguồn vốn dài hạn, tạm thời nhàn rỗi trong công chúng đáp ứng nhu cầu vốn kinh
doanh của mình.
Ngoài ra, chủ thể phát hành chứng khoán ra công chúng còn các quỹ đầu tư chứng
khoán đại chúng và các công ty đầu tư chứng khoán. Đây là nhóm chủ thể đặc thù chào bán
chứng chỉ quỹ đầu tư đại chúng (do quỹ công chúng thực hiện) hoặc cổ phiếu (do công ty
quản lý quỹ thực hiện) được chủ yếu đầu tư vào chứng khoán, đem lại lợi nhuận đầu tư cho
các quỹ đầu tư chứng chỉ của quỹ hoặc các cổ đông của công ty đầu tư chứng khoán.
Phân loại chủ thể phát hành chứng khoán còn có thể chia làm hai loại là chủ thể trong
nước và chủ thể nước ngoài nhưng bài viết này chỉ đi sâu vào chủ thể chính là chủ thể phát
hành chứng khoán trong nước.
3. Phương thức chào bán chứng khoán ra công chúng
Phương thức chào bán chứng khoán là phương pháp và hình thức thực hiện việc chào
bán chứng khoán.
* Phương thức chào bán thông qua đại lý
Theo phương thức này tính chất trung gian bên nhận đại lý sẽ ký kết hợp đồng để bán
chứng khoán của họ trên thị trường sơ cấp. Bên đại lý có thể là ngân hàng thương mại, các
công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm… Các đơn vị này sẽ được hưởng hoa hồng theo tỷ lệ
trực tiếp trên tổng lượng chứng khoán được bán ra.
* Phương thức bảo lãnh phát hành
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ
tục trước và sau khi chào bán chứng khoán như định giá chứng khoán, chuẩn bị hồ sơ xin
phép phát hành chứng khoán, tổ chức vệc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng
khoán trong giai đoạn đầu ngay sau khi phát hành thông qua hợp đồng bảo lãnh giữa tổ chức
bảo lãnh và doanh nghiệp phát hành
Mục đích chung đó là bảo đảm cho chứng khoán của tổ chức phát hành sẽ được phân
phối hết đợt phát hành chứng khoán của doanh nghiệp được thành công. Sự thành công là
yếu tố quan trọng để doanh nghiệp pháy hành có điều kiện, uy tín trong việc cung cấp hàng
hóa cho thị trường để công chúng sẵn lòng đầu tư vào thị trường chứng khoán.
II. Quy định của pháp luật về điều kiện, trình tự thủ tục chào bán chứng khoán ra
công chúng
1. Điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng
Sau khi thực hiện việc chào bán chứng khoán ra công chúng, chứng khoán của chủ
thể phát hành sẽ được sở hữu rộng rãi bởi các nhà đầu tư. Sự thành, bại của chủ thể phát
hành trong quá trình kinh doanh sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn lợi của các nhà đầu tư
(gồm các cổ đông, các chủ sở hữu trái phiếu, chủ sở hữu chứng chỉ quỹ) có được từ cổ tức
hoặc từ lãi trái phiếu hoặc chứng chỉ quỹ. Để bảo vệ lợi ích thỏa đáng của các nhà đầu tư và
cũng là để củng cố lòng tin của họ vào thị trường chứng khoán, pháp luật mà cụ thể là LCK
đã đề ra những điều kiện mà các tổ chức phát hành phải thỏa mãn để được chào bán chứng
khoán ra công chúng.
Trước đây, Nghị định của Chính phủ số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 (gọi tắt là
Nghị định số 144/2003/NĐ-CP) phân biệt rõ ba loại chào bán cổ phiếu, chào bán trái phiếu
và chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán ra công chúng đồng thời hoạt động chào bán
cổ phiếu được bóc tách thành hai nhóm: chào bán cổ phiếu lần đầu và chào bán thêm cổ
phiếu ra công chúng. Như vậy, tùy thuộc vào loại chứng khoán dự định chào bán và tùy
thuộc vào lần chào bán là lần đầu hay chào bán thêm mà chủ thể phát hành phải thỏa mãn
những điều kiện khác nhau. Hiện nay theo LCK năm 2006 các điều kiện này cũng được các
nhà làm luật thiết kế có phân biệt giữa chào bán cổ phiếu, chào bán trái phiếu và chào bán
chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng; tuy nhiên không còn có sự phân biệt giữa điều kiện
chào bán cổ phiếu lần đầu và điều kiện chào bán thêm cổ phiếu mà tổ chức phát hành phải
thỏa mãn như trước đây. Những quy định của LCK về điều kiện chào bán chứng khoán ra
công chúng còn lưu ý tới địa vị pháp lý của chủ thể phát hành cũng như địa vị pháp lý nơi
diễn ra việc chào bán chứng khoán vì vậy điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng
được xây dựng có phân biệt giữa công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và quỹ đầu
tư chứng khoán đại chúng với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài chuyển đổi thành công ti cổ phần và doanh nghiệp thành lập mới, thuộc lĩnh vực cơ sở
hạ tầng hoặc công nghệ cao; giữa chào bán chứng khoán trong nước và chào bán chứng
khoán ra nước ngoài.
Ngoài ra theo Nghị định 84/2010/NĐ-CP mới ban hành thì tổ chức phát hành phải mở
một tài khoản riêng biệt tại một ngân hàng thương mại để phong toả số tiền thu được từ đợt
chào bán. Trường hợp tổ chức phát hành là ngân hàng thương mại thì phải lựa chọn một
ngân hàng thương mại khác để phong tỏa số tiền thu được từ đợt chào bán. Trong thời hạn
10 ngày, kể từ ngày kết thúc đợt chào bán, tổ chức phát hành phải báo cáo Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước về kết quả chào bán kèm theo xác nhận của ngân hàng thương mại nơi mở
tài khoản phong toả về số tiền thu được từ đợt chào bán. Sau khi gửi báo cáo Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước, tổ chức phát hành được giải toả số tiền thu được từ đợt chào bán.
1.1 Điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng
Đối với những doanh nghiệp muốn chào bán cổ phiếu ra công chúng, cần thỏa mãn ba
điều kiện có liên quan tới vốn, tới kết quả kinh doanh và tới dự định huy động vốn cũng như
kế hoạch sử dụng vốn huy động của doanh nghiệp.
Thứ nhất, doanh nghiệp muốn chào bán cổ phiếu phải là doanh nghiệp có tiềm lực tài
chính, thể hiện ở mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm mà doanh nghiệp phải thỏa mãn là
mười tỉ đồng Việt Nam, tính theo giá trị ghi trên sổ sách kế toán.
Khi thị trường chứng khoán chính thức của Việt Nam mới ra đời, theo Nghị định của
Chính phủ số 48/1998/NĐ-CP), mức vốn điều lệ tối thiểu của tổ chức muốn chào bán cổ
phiếu ra công chúng phải đạt 10 tỉ đồng Việt Nam. Tuy nhiên, do số lượng hàng hóa (chứng
khoán) lưu hành trên thị trường chứng khoán chính thức của Việt Nam khi đó quá nhỏ bé và
có xu hướng tăng chậm trong vài năm sau khi Trung tâm giao dịch chứng khoán tại thành
phố Hồ Chí Minh ra đời, đã có nhiều ý kiến cho rằng cần hạ thấp yêu cầu về mức vốn điều
lệ đã góp của tổ chức phát hành xuống 5 tỉ nhằm thúc đẩy tăng trưởng chủng loại hàng hóa
được giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam. Vì vậy, khi Nghị định số
144/2003/NĐ-CP được ban hành, con số này đã được giảm xuống mức 5 tỉ đồng Việt Nam.
Hiện nay, một mặt, do các doanh nghiệp Việt Nam đã lớn mạnh cả về số lượng và về
năng lực tài chính; mặt khác, do chủng loại hàng hóa trên thị trường giao dịch chứng khoán
cũng đã phong phú hơn trước, quy định về mức vốn điều lệ mà các doanh nghiệp phải thỏa
mãn để được chào bán cổ phiếu ra công chúng lại được nâng lên trong LCK so với mức vốn
điều lệ quy định trong Nghị định số 144/2003/NĐ-CP trước đây.
Thứ hai, doanh nghiệp có nhu cầu chào bán cổ phiếu ra công chúng phải là doanh
nghiệp kinh doanh hiệu quả.
Điều đó phải được thể hiện cụ thể ở kết quả kinh doanh của doanh nghiệp đó vào năm
liền trước năm đăng kí chào bán cổ phiếu ra công chúng. Kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp dự định chào bán cổ phiếu được xem xét trên cả hai phương diện: một là năm liền kề
trước đó doanh nghiệp phải có lãi; và hai là doanh nghiệp không có lỗ lũy kế tính đến năm
đăng kí chào bán cổ phiếu. Điều kiện không có lỗ lũy kế là điểm mới của LCK so với Nghị
định số 144/2003/NĐ-CP. Trước đây, điều kiện về kết quả kinh doanh mà doanh nghiệp
đăng kí phát hành phải thỏa mãn theo Nghị định số 144/2003/NĐ-CP đơn giản hơn, chỉ bao
gồm phương diện thứ nhất của kết quả kinh doanh quy định trong LCK. Như vậy, LCK đã
khắt khe hơn khi đưa ra điều kiện về kết quả kinh doanh mà doanh nghiệp đăng kí phát hành
cổ phiếu ra công chúng phải thỏa mãn vì Luật vẫn tiếp tục kế thừa điều kiện kinh doanh hiệu
quả ghi nhận trong Nghị định số 144/2003/NĐ-CP nhưng đồng thời quy định thêm điều kiện
doanh nghiệp phải không có lỗ lũy kế.
Điểm mới này của LCK thể hiện sự quan tâm đặc biệt của các nhà làm luật đối với sự
an toàn của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Quy định này sẽ góp phần đảm bảo rằng
doanh nghiệp phát hành có khả năng đem lại thu thập thỏa đáng cho các cổ đông tương lai.
Việc đảm bảo hiệu quả cho đồng vốn đầu tư của các nhà đầu tư sẽ góp phần củng cố lòng tin
của các nhà đầu tư tiềm năng vào thị trường chứng khoán, từ đó càng thu hút được đông đảo
các nhà đầu tư bỏ vốn vào thị trường này.
Thứ ba, doanh nghiệp dự định chào bán cổ phiếu ra công chúng phải dành được sự
chấp thuận của đại hội cổ đông về phương án phát hành cổ phiếu và phương án sử dụng vốn
huy động được từ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng
Điều kiện này được đặt ra nhằm đảm bảo đại hội cổ đông của doanh nghiệp phát hành
thực hiện được quyền quyết định định hướng phát triển của doanh nghiệp đã được quy định
trong Luật doanh nghiệp. Trước đây, Nghị định số 144/2003/NĐ-CP chỉ yêu cầu doanh
nghiệp đăng kí phát hành có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát
hành cổ phiếu mà chưa quan tâm đúng mức tới quyền của cổ đông trong lĩnh vực quản trị
doanh nghiệp. Hiện nay, LCK đã thể hiện sự nhất quán với Luật doanh nghiệp bằng cách
thừa nhận quyền quyết định tối cao của đại hội cổ đông đối với phương án huy động và sử
dụng vốn của doanh nghiệp.
Ngoài ra, về điều kiện chào bán cổ phiếu thì chúng ta cần phải lưu ý tới điều kiện
chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng của một số loại hình doanh nghiệp được quy định
trong Điều 4 Nghị định số 14/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của LCK.
Theo đó, đối với doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ
phần kết hợp chào bán cổ phiếu ra công chúng thì thực hiện theo quy định của pháp luật về
việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần kết
hợp chào bán cổ phiếu ra công chúng thì phải thỏa mãn điều kiện sau: đáp ứng điều kiện quy
định tại điểm a và b khoản 1 Điều 12 LCK; Có phương án phát hành và phương án sử dụng
vốn thu được từ đợt chào bán được chủ doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc Hội đồng
quản trị doanh nghiệp liên doanh thông qua; Có công ty chứng khoán tư vấn trong việc lập
hồ sơ chào bán cổ phiếu. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã chuyển đổi
thành công ty cổ phần thì phải đáp ứng các điều kiện sau:các điều kiện quy định tại khoản 1
Điều 12 LCK; Đáp ứng điều kiện quy định tại điểm c khoản 2 Điều 4 Nghị định
14/2007/NĐ-CP.
Đối với doanh nghiệp thành lập mới thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng, đây là doanh
nghiệp làm chủ đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng thuộc đề án phát triển kinh tế xã hội của các Bộ, ngành và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nên việc chào bán cổ
phiếu lần đầu ra công chúng cần đáp ứng 4 điều kiện. Cụ thể là: Có dự án đầu tư được cấp
có thẩm quyền phê duyệt; Có cam kết chịu trách nhiệm liên đới của Hội đồng quản trị hoặc
các cổ đông sáng lập đối với phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ
đợt chào bán; Có tổ chức bảo lãnh phát hành; Có ngân hàng giám sát việc sử dụng vốn thu
được từ đợt chào bán.
Còn đối với doanh nghiệp thành lập mới thuộc lĩnh vực công nghệ cao, đây là doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao được khuyến khích đầu tư theo quy định của
pháp luật. Do vậy những điều kiện mà doanh nghiệp này cần đáp ứng là: những điều kiện
quy định tại các điểm b, c, d và đ khoản 4 Điều 4 Nghị định 14/2007/NĐ-CP.
1.2 Điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 12, LCK, DN phải đáp ứng đủ các điều kiện sau
mới được chào bán trái phiếu của mình ra công chúng:
Thứ nhất, DN có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ 10 tỷ
đồng trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
Thứ hai, hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi,
đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán, không có các khoản nợ phải
trả quá hạn trên một năm;
Thứ ba, có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt
chào bán được hội đồng quản trị hoặc hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty thông
qua;
Thứ tư, có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về
điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các
điều kiện khác.
Như vậy, khác với trường hợp chào bán cổ phiếu ra công chúng, ngoài việc phải thỏa
mãn các điều kiện về vốn điều lệ, về kết quả kinh doanh và về kế hoạch huy động cũng như
sử dụng vốn huy động, doanh nghiệp muốn chào bán trái phiếu ra công chúng còn phải thỏa
mãn thêm một vài điều kiện khác. Đó là doanh nghiệp không được có các khoản nợ phải trả
quá hạn trên một năm và phải có cam kết thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp với tư cách tổ
chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền lợi và
lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác. Hơn nữa, trong trường hợp công ti cổ
phần chào bán trái phiếu ra công chúng thì phương án phát hành trái phiếu và phương án sử
dụng vốn và trả nợ vốn huy động được từ đợt chào bán chỉ cần được sự chấp thuận của hội
đồng quản trị thay vì được sự chấp thuận của đại hội đồng cổ đông trong phát hành cổ phiếu
ra công chúng.
Sự khác nhau trong điều kiện mà các doanh nghiệp phải thỏa mãn để được chào bán
cổ phiếu và trái phiếu ra công chúng xuất phát từ sự khác biệt giữa bản chất của hai loại
chứng khoán: trái phiếu và cổ phiếu. Cổ phiếu (phổ thông) đem lại quyền sở hữu và quyền
quản trị công ti cho chủ sở hữu cổ phiếu là các cổ đông trong khi đó trái phiếu đem lại trái
quyền cho chủ sở hữu trái phiếu và họ trở thành chủ nợ của công ty. Chính vì vậy, việc chào
bán thêm cổ phiếu ra công chúng có thể sẽ ảnh hưởng tới vị thế của cổ đông hiện hữu của
công ti và cần được các cổ đông chấp thuận, nói cách khác việc làm này phải được đại hội
cổ đông thông qua. Còn việc chào bán trái phiếu ra công chúng không làm ảnh hưởng tới vị
thế của cổ đông hiện hữu mà chỉ làm ảnh hưởng tới khả năng tài chính của công ti, vì vậy
Hội đồng quản trị với tư cách là cơ quan quản lí công ti cổ phần, thông qua phương án phát
hành và sử dụng vốn huy động cũng như phương án trả nợ gốc và lãi khi trái phiếu đến hạn
là hoàn toàn phù hợp với chức năng của hội đồng quản trị công ti theo Luật doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nếu trái phiếu được chào bán là trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu có kèm
theo chứng quyền thì phương án phát hành, kế hoạch phát hành và phương án sử dụng vốn
lại cần được đại hội cổ đông thông qua. Quy định này cũng được lí giải bởi bản chất của hai
loại chứng khoán này. Mặc dù là trái phiếu nhưng hai loại trái phiếu này lại có khả năng biến
các chủ nợ của công ti phát hành (người sở hữu trái phiếu) thành chủ sở hữu công ti đó (cổ
đông) ở thời điểm trái phiếu chuyển đổi chuyển thành cổ phiếu hoặc thời điểm chủ sở hữu
trái phiếu có kèm theo chứng quyền thực hiện quyền mua cổ phiếu phổ thông của mình. Như
vậy, đây là những trái phiếu đặc biệt, khác với trái phiếu thông thường ở chỗ chúng có khả
năng làm tăng số lượng cổ đông có quyền biểu quyết của công ti phát hành ở một thời điểm
nào đó trong tương lai. Điều đó cũng có nghĩa sẽ làm thay đổi vị thế của các cổ đông hiện
hữu. Việc trao quyền cho đại hội cổ đông thông qua phương án phát hành và sử dụng vốn
thu được từ đợt chào bán hai loại trái phiếu này, vì vậy, hoàn toàn hợp lí và thể hiện tính
thống nhất của LCK với Luật doanh nghiệp.
1.3 Điều kiện chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư
Khác với mục tiêu của chủ thể chào bán cố phiếu và trái phiếu ra công chúng, chủ thể
chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư không nhằm huy động vốn để phục vụ mục đích kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ mà nhằm tái đầu tư bằng vốn huy động được và lĩnh vực đầu tư chủ yếu
của quỹ đầu tư chính là chứng khoán. Vì vậy, điều kiện mà các chủ thể chào bán chứng chỉ
quỹ đầu tư ra công chúng phải thỏa mãn được các nhà làm luật thiết kế cũng có nét đặc thù,
gắn với tổng giá trị phát hành và phương án đầu tư vốn huy động được.
Cụ thể là chủ thể chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng cần thoả mãn hai điều
kiện theo quy định tại Khoản 3, Điều 12 LCK năm 2006. Hai điều kiện đó là:
Một là chủ thế này phải đăng kí chào bán lượng chứng chỉ quỹ với tổng giá trị tối
thiểu là 50 tỉ đồng Việt Nam;
Hai là chủ thể chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng phải có phương án phát hành
phù hợp với quy định của pháp luật.
Trước đây, Nghị định số 144/2003/NĐ-CP mặc dù thừa nhận việc chào bán chứng chỉ
quỹ đầu tư chứng khoán ra công chúng nhưng hầu như không quy định về điều kiện chào
bán chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng. Vì vậy, có thể thấy đây là bước phát triển đáng ghi
nhận của LCK nhằm đảm bảo chất lượng của những chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán lưu
hành rộng rãi trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
2. Trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng
Trình tự thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng gồm ba bước cơ bản là : đăng kí
chào bán chứng khoán ra công chúng, công bố thông tin trước khi chào bán chứng khoán ra
công chúng và cuối cùng là phân phối chứng khoán ra công chúng.
2.1 Đăng kí chào báo chứng khoán ra công chúng
Đây là bước khởi đầu mà bất cứ chủ thể nào muốn chào bán chứng khoán ra ngoài
công chúng đều phải trải qua và là dấu hiệu đặc trưng cho phép phân biệt giữa chào bán
chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ. Tuy nhiên khoản 2 điều 3
LCK cũng quy định những trường hợp mà chủ thể phát hành chứng khoán ra công chúng
được miễn đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng gồm: Chính phủ; tổ chức tài chính
quốc tế được chính phủ Việt Nam chấp nhận; Doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành
công ty cổ phần; chủ thể chào bán chứng khoán theo bản án, quyết định của Tòa án; chủ thể
chào bán chứng khoán là người quản lý người được nhận tài sản trong các trường hợp phá
sản hoặc mất khả năng thanh toán.
Theo LCK hiện nay để thực hiện việc đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng tổ
chức phát hành sẽ lập hồ sơ đăng kí chứng khoán ra công chúng gửi UBCKNN, Điều 14
LCK quy định tùy thuộc vào từng loại chứng khoán sẽ phát hành mà chủ thể phát hành phải
hoàn tất những bộ hồ sơ khác nhau.
Với cổ phiếu: Chủ thể phát hành cần chuẩn bị bộ hồ sơ đăng ký chào bán gồm: giấy
đăng kí chào bán cổ phiếu ra công chúng, bản cáo bạch, điều lệ của tổ chức phát hành và
phương án sử dụng vốn huy động được từ đợt phát hành cổ phiếu ra công chúng và cam kết
bảo lãnh của chủ thể phát hành dự định sử dụng tổ chức bảo lãnh phát hành để phân phối
chứng khoán ra công chúng.
Theo quy định trước đây ở Nghị định 144/2003/NĐ-CP quy định hai loại hồ sơ khác
nhau cho hoạt động tương ứng là phát hành cổ phiếu lần đầu tiên ra công chúng và phát hành
thêm cổ phiếu ra công chúng để tăng vốn nhưng hiện nay LCK đã đơn giản hóa hồ sơ đăng
kí chào bán cổ phiếu ra công chúng bằng cách quy định một loại hồ sơ áp dụng cho cả việc
chào bán lần đầu tiên và chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng. Nội dung của hồ sơ theo
LCK cũng được quy định theo hướng nhẹ hơn trước vì đã bỏ bớt một số văn bản mà doanh
nghiệp phải đưa vào hồ sơ đăng kí phát hành như: bản sao hợp lệ giấy chứng nhận đăng kí
kinh doanh, danh sách và sơ yếu lí lịch thành viên hội đồng quản trị, ban giám đốc, ban kiểm
soát và báo cáo tài chính của hai năm liên tục trước năm đăng kí phát hành đã được kiểm
toán.
Trong hồ sơ chào bán ra công chúng thì tài liệu quan trọng nhất là bản cáo bạch trong
đó cung cấp mọi thông tin về tổ chức phát hành. Nội dung của bản cáo bạch được quy định
tại điều 15 LCK, bản cáo bạch giống như lí lịch của tổ chức phát hành chứng khoán, phản
ánh tất cả tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh, tổ chức bộ máy và kế hoạch sử dụng
vốn thu được từ đợt phát hành. Bản cáo bạch là tài liệu chủ yếu để nhà đầu tư tham khảo
nghiên cứu trước khi đưa ra quyết đinh đầu tư vào loại chứng khoán của tổ chức đó. Việc
đưa trực tiếp bản cáo bạch vào trong quy định của LCK nhằm xây dựng một thị trường
chứng khoán lành mạnh, công khai, đáp ứng đầy đủ các thông tin về từng tổ chức chào bán
nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung. Đồng thời LCK cũng quy định cụ thể về
trách nhiệm của tổ chức, cá nhân liên quan đến hồ sơ chào bán, đảm bảo cho nhà đầu tư yên
tâm về lợi ích hợp pháp của họ.
- Với trái phiếu: hồ sơ đăng kí chào bán trái phiếu ra công chúng cũng gần tương tự
như hồ sơ chào bán cổ phiếu ra công chúng nhưng khác ở hai điểm
Thứ nhất thay vì cần có quyết định của hội đồng cổ đông thông qua phương án phát
hành thì tổ chức phát hành trái phiếu cần có quyết định của hội đồng quản trị với công ty cổ
phần hoặc hội đồng thành viên với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên hoặc
chủ sở hữu công ty với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Thứ hai phải có thêm bản cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với
nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hơp pháp của nhà
đầu tư và các điều kiện khác.
Ngoài ra trường hợp tổ chức phát hành có kế hoạch phát hành thêm cổ phiếu hoặc trái
phiếu trong thời hạn của trái phiếu chuyển đổi thì hồ sơ chào bán phải nêu rõ rủi ro đối với
quyền lợi của người mua trái phiếu kèm theo phương án đền bù cho nhà đầu tư để đảm bảo
quyền lợi của nhà đầu tư theo điều 4 Nghị định 84/2010/NĐ-CP
Với chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán: do hoạt động đặc thù của quỹ đầu tư chứng
khoán hồ sơ đăng ký chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán ra công chúng gồm : Giấy
đăng ký chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng, phương án chào bán chứng chỉ quỹ kèm
theo phương án đầu tư số vốn thu được từ đợt chào bán, bản cáo bạch (mẫu do Bộ tài chính
quy định), dự thảo Điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán (do Bộ tài chính quy định), hợp đồng
giám sát giữa ngân hàng giám sát và công ty quản lý quỹ, cam kết bảo lãnh phát hành (nếu
có).
Hồ sơ đăng kí chào bán được gửi tới UNCKNN. Tổ chức phát hành phải chịu trách
nhiệm về tính chính xác, trung thực và đầy đủ của hồ sơ theo Điều 17 LCK. Trong thời gian
hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng đang được UNCKNN xem xét thì tổ
chức phát hành có nghĩa vụ sửa đổi, bổ sung hồ sơ nếu phát hiện thông tin không chính xác
hoặc bỏ sót nội dung quan trọng theo quy định phải có trong hồ sơ hoặc thấy cần thiết phải
giải trình về vấn đề có thể gây hiểu nhầm trước UBCKNN. Trong thời hạn 30 ngày kể từ
ngày nhận hồ sơ đăng kí chào bán hợp lệ UBCKNN xem xét và cấp giấy chứng nhận chào
bán chứng khoán ra công chúng, trường hợp từ chối UBCKNN phải trả lời bằng văn bản và
nêu rõ lý do.
2.2 Công bố thông tin trước khi chào bán chứng khoán ra công chúng
Sau khi được cấp giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng, tổ chức phát
hành chưa được phép chào bán ngay chứng khoán ra công chúng mà còn phải hoàn tất thủ
tục công bố thông tin về đợt chào bán đó. Khoản 3 điều 20 LCK quy định trong thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày Giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng có hiệu lực, tổ chức
phát hành phải công bố bản thông báo phát hành trên một tờ báo điện tử hoặc báo viết trong
ba số liên tiếp, chỉ sau khi thông báo về cuộc chào bán theo đúng quy định của pháp luật
việc chào bán chứng khoán ra công chúng mới được tiến hành. Tổ chức phát hành còn phải
đảm bảo rằng người mua chứng khoán đã tiếp cận bản cáo bạch có trong hồ sơ đăng kí chào
bán chứng khoán ra công chúng bằng cách sẵn sàng cung cấp bản cáo bạch cho công chúng
đầu tư tại các địa điểm ghi trong bản thông báo phát hành. Ngoài ra điều 19 LCK còn quy
định: ”Sau khi Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp Giấy chứng nhận chào bán chứng khoán
ra công chúng mà phát sinh thông tin quan trọng liên quan đến hồ sơ đăng ký chào bán
chứng khoán ra công chúng thì trong thời hạn bảy ngày, tổ chức phát hành phải công bố
thông tin phát sinh theo phương thức quy định tại khoản 3 Điều 20 của Luật này và thực
hiện việc sửa đổi, bổ sung hồ sơ.” Như vậy nghĩa vụ công bố thông tin của tổ chức phát
hành trước khi chào bán ra công chúng sẽ đảm bảo nhà đầu tư có được những thông tin cần
thiết về tổ chức phát hành trước khi chào bán ra công chúng sẽ đảm bảo nhà đầu tư có được
những thông tin cần thiết về tổ chức phát hành và loại chứng khoán sắp được chào bán, từ đó
có thể đánh giá được mức độ rủi ro của chứng khoán đó và có quyết định đầu tư đúng đắn.
2.3. Phân phối chứng khoán
Sau khi đã hoàn tất các công việc cần thiết để bảo đảm những thông tin cần thiết về
công ty phát hành và về đợt chào bán tới được công chúng đầu tư, chứng khoán đã đăng kí
chào bán mới được phép phân phối ra công chúng. Việc phân phối chứng khoán được quy
định cụ thể tại điều 21 LCK, cụ thể tổ chức phát hành phải hoàn thành việc phân phối chứng
khoán trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày Giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công
chúng có hiệu lực, trường hợp tổ chức phát hành không thể hoàn thành việc phân phối chứng
khoán ra công chúng trong thời hạn này, UBCKNN xem xét gia hạn việc phân phối chứng
khoán nhưng tối đa không quá 30 ngày. Trường hợp đăng ký chào bán chứng khoán cho
nhiều đợt thì khoảng cách giữa đợt chào bán sau với đợt chào bán trước không quá 12 tháng.
Việc chào bán có thể được thực hiện trực tiếp bởi tổ chức phát hành nhưng cũng có
thể được thực hiện thông qua các trung gian như bảo lãnh phát hành hay đại lí phát hành. Bất
kể chủ thể phân phối chứng khoán là ai trong số ba chủ thể trên chứng khoán chào bán phải
được phân phối một cách công bằng công khai và đảm bảo thời hạn đăng kí mua chứng
khoán cho nhà đầu tư tối thiểu là 20 ngày. Tính công bằng trong việc phân phối chứng
khoán thể hiện ở chỗ nếu số lượng chứng khoán đăng ký mua vượt quá số lượng chứng
khoán được phép phát hành thì tổ chức phát hành hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành phải phân
phối hết số chứng khoán được phép phát hành cho nhà đầu tư tương ứng với tỷ lệ đăng ký
mua của từng nhà đầu tư.
Đợt chào bán kết thúc không có nghĩa các chủ thể tham gia vào quá trình chào bán và
phân phối chứng khoán đã hoàn tất mọi trách nhiệm liên quan đến đợt chào bán mà các chủ
thể này vẫn còn phải thực hiện một số nghĩa vụ với cơ quan quản lí nhà nước về chứng
khoán và với nhà đầu tư. Tổ chức phát hành hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành phải báo cáo
kết quả đợt chào bán cho Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày
kết thúc đợt chào bán, kèm theo bản xác nhận của ngân hàng nơi mở tài khoản phong toả về
số tiền thu trong đợt chào bán. Tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành hoặc tổ chức
đại lý phải chuyển giao chứng khoán hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu chứng khoán cho
người mua trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày đợt chào bán kết thúc. Định kỳ 6 tháng, kể từ
ngày kết thúc đợt chào bán cho đến khi hoàn thành việc giải ngân, tổ chức phát hành phải
công bố thông tin về tiến độ sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán
Việc chào bán chứng khoán ra công chúng có thể bị đình chỉ theo điều 22 LCK,
UBCKNN có thể đình chỉ chào bán chứng khoán ra công chúng tối đa là 60 ngày trong
trường hợp phát hiện hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng có những thông tin
sai lệch, bỏ sót nội dung quan trọng có thể ảnh hưởng tới quyết định đầu tư và gây thiệt hại
cho nhà đầu tư hoặc việc phân phối chứng khoán không thực hiện đúng quy định tại Điều 21
của LCK.
Việc phân phối chứng khoán ra công chúng cũng có thể bị hủy bỏ theo điều 23 LCK
nếu quá thời hạn đình chỉ quy định tại khoản 1 Điều 22 của LCK mà những thiếu sót dẫn
đến việc đình chỉ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng không được khắc phục. Trong
thời hạn bảy ngày, kể từ ngày đợt chào bán chứng khoán ra công chúng bị huỷ bỏ, tổ chức
phát hành phải công bố việc huỷ bỏ chào bán chứng khoán ra công chúng và phải thu hồi các
chứng khoán đã phát hành, đồng thời hoàn trả tiền cho nhà đầu tư trong thời hạn mười lăm
ngày, kể từ ngày đợt chào bán bị huỷ bỏ. Quá thời hạn này, tổ chức phát hành phải bồi
thường thiệt hại cho nhà đầu tư theo các điều khoản đã cam kết với các nhà đầu tư.
Ngoài ra theo Nghị định số 84/2010/NĐ-CP ban hành ngày 02/08-2010 có hiệu lực từ ngày
20/09/2010 sửa đổi bổ sung một số điều của NĐ số 14/2007/NĐ-CP thì Hồ sơ, trình tự, thủ
tục chào bán cổ phần ra công chúng để thành lập tổ chức tín dụng là công ty cổ phần và hồ
sơ, trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng để hoán đổi cổ phiếu và thực hiện
việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Với Chủ sở hữu Nhà nước (bao gồm cả các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước) thực hiện
bán phần vốn nhà nước do Tập đoàn, Tổng Công ty nắm giữ ra công chúng nhằm thực hiện
quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nướ c ta ̣i các doanh nghiê ̣p và Cổ đông lớn bán phần vốn
sở hữu trong các công ty đại chúng ra công chúng việc đăng kí chào bán chứng khoán ra
công chúng không phải do tổ chức phát hành thực hiện, Bộ tài chính quy định trình tự thủ
tục chào bán chứng khoán ra công chúng với hai trường hợp này.
III. Thực trạng và hướng hoàn thiện
1. Thực trạng
Trong những năm gần đây, thị trường chứng khoán diễn ra đầy sôi động. Thực tế hiện
nay đã phản ánh một hiện tượng kinh tế tốt lành. Tuy nhiên vào năm 2009 vừa rồi lại chứng
kiến sự sụt giảm giá cổ phiếu trên thị trường niêm yết, sự thất bại của nhiều đợt phát hành ra
công chúng. Sự phát triển ko ổn định của thị trường có những nguyên nhân nhất định. Theo
nhận định của một số chuyên gia, từ cuối năm 2009 tình trạng các doanh nghiệp niêm yết và
công ty đại chúng ồ ạt chào bán chứng khoán ra công chúng đã dẫn đến tình trạng bội thực
nguồn cung và là nguyên nhân chính khiến thị trường suy giảm kéo dài, làm ảnh hưởng đến
khả năng hấp thụ của thị trường. Tình trạng bội thực nguồn cung đã làm cho nhiều kế hoạch
phát hành chứng khoán ra công chúng của các doanh nghiệp liên tục thất bại. Theo lãnh đạo
Trung Tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, ngoài việc không đạt mục đích huy động vốn, kế
hoạch phát hành thất bại có thể ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp.
Lúc này, việc xem xét các quy định của pháp luật từ đó hoàn thiện hệ thống pháp luật
về chào bán chứng khoán nói chung và hoạt động chào bán ra công chúng rói riêng là rất cần
thiết. Để đảm bảo cho thị trường có thể phát triển ổn định, bền vững. Trong quá khứ, không
ít trường hợp doanh nghiệp xem việc phát hành như một động tác chứ không phải là hoạt
động huy động vốn thật sự. Vấn đề này, dù đã có biện pháp khắc phục, cách hiểu, cách làm
này đến nay vẫn còn phổ biến. Sự việc cho dù có được các công ty chứng khoán tư vấn,
nhưng vì nhiều lý do (kinh nghiệm, trình độ, sự không lường hết, hay đơn giản từ vai trò làm
công) các công ty chứng khoán cũng đã không cải thiện được tình hình.
2. Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng
Từ những phân tích ở trên, nhóm em đưa ra một số giải pháp sau:
- Như đã nói ở trên, quy định về điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng với
mức vốn như hiện nay nếu so sánh với các quốc gia khác thì mức vốn điều lệ tối thiểu này là
thấp. Hiện nay pháp luật nước ta đã cho phép tiến hành niêm yết giao dịch chéo, do đó điều
kiện về mức vốn đối với hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng cũng cần nâng lên
tương ứng để các tổ chức niêm yết của Việt Nam có cơ hội cạnh tranh với các tổ chức niêm
yết nước ngoài.
- Có thể nói, sự thành công hay thất bại của một đợt phát hành rất quan trọng đối với tổ
chức phát hành. Chính vì vậy, để đảm bảo sự thành công của của một đợt chào bán đòi hỏi
tổ chức phát hành phải lựa chọn một phương thức chào bán tối ưu nhất. Trong các phương
thức chào bán chứng khoán ra công chúng, có thể nói bảo lãnh phát hành là phương thức
hiện đại và an toàn hơn cả. Phương thức này có thể sử dụng cho cả cổ phiếu và trái phiếu.
Tuy nhiên LCK không quy định về phương thức bảo lãnh phát hành. Vì vậy, trong thời gian
tới cần bổ sung quy định về phương thức bảo lãnh phát hành chứng khoán ra công chúng.
Đồng thời cần có quy định cụ thể về điều kiện thành lập tổ chức bảo lãnh phát hành, cơ cấu
tổ chức, hoạt động của tổ chức bảo lãnh phát hành, đặc biệt là những hoạt động của tổ chức
bảo lãnh đối với tổ chức phát hành. Ngoài ra, pháp luật cũng cần quy định thêm phương thức
phát hành chứng khoán ra công chúng như đại lý phát hành để tổ chức bảo lãnh có cơ hội lựa
chọn phương thức chào bán chứng khoán ra công chúng phù hợp với điều kiện của mình.
- Về hồ sơ chào bán chứng khoán:
LCK cần cân nhắc đến việc quy định tiêu chuẩn đối với tổ chức kiểm toán thực hiện
kiểm toán, đưa ra các tiêu chí cụ thể để đánh giá nội dung hoạt động kiểm toán của tổ chức
đó, đơn giản hóa hồ sơ chào bán chứng khoán ra công chúng. Đồng thời, luật cần có nhiều
quy định gắn trách nhiệm của tổ chức kiểm toán và kiểm toán viên đối với kết quả hoạt động
kiểm toán trong báo cáo tài chính của chủ thể chào bán. Pháp luật cần nới lỏng các điều kiện
của tổ chức kiểm toán, thúc đẩy các doanh nghiệp nhanh chóng tham gia thị trường chứng
khoán thông qua chào bán chứng khoán ra công chúng.
Bên cạnh đó, trong hồ sơ đăng ký chào bán ra công chúng cần có thêm nội dung báo
cáo về kết quả sử dụng nguồn vốn huy động lần trước. Mặt khác, các cơ quan quản lý thị
trường không nên chỉ dừng lại ở việc giám sát các doanh nghiệp chào bán chứng khoán ra
công chúng trong giai đoạn phát hành mà phải tiếp tục giám sát việc sử dụng vốn của các
doanh nghiệp này. Đây là điều tối quan trọng vì nếu không sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến quyền lợi của các nhà đầu tư.
Về quy định trong bản cáo bạch phải có báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong hai
năm gần nhất, như đã nói ở trên, điều này làm hạn chế việc huy động vốn để mở rộng sản
xuất kinh doanh của các công ty mới thành lập. Do vậy, pháp luật nên sửa đổi theo hướng
trong bản cáo bạch chỉ cần báo cáo tài chính của một năm gần nhất nhưng phải kèm theo báo
cáo kết quả sử dụng nguồn vốn huy động trong đợt chào bán chứng khoán ra công chúng lần
trước.
-Về thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng: UBCKNN nên rà soát kỹ hơn việc
chào bán chứng khoán ra công chúng nhưng có thể giảm bớt một số thủ tục không cần thiết
để rút ngắn thời gian đăng ký phát hành. Thời gian xét duyệt hồ sơ cũng cần được rút ngắn
nhưng theo hướng xem xét chặt chẽ việc chào bán chứng khoán lần đầu ra công chúng.
- Sửa đổi, bổ sung một số quy định về giá phát hành và giá bảo lãnh phát hành so với quy
định hiện nay theo hướng chỉ đề ra các nguyên tắc giá chào bán và giá bảo lãnh trong hồ sơ
đăng ký chào bán để tạo thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp và tổ chức phát hành, giúp thị
trường chứng khoán phát triển.
- Trong thời gian tới có thể cho phép tổ chức phát hành lựa chọn một thời điểm thích
hợp để bán. Như vậy có thể đảm bảo được giá trị chứng khoán, đảm bảo khả năng hấp thụ
của thị trường.
-Về hoạt động xử phạt vi phạm quy định về chào bán chứng khoán ra công chúng : Mới
đây Nghị định 85/20101/NĐ-CP ban hành ngày 02/08/2010 quy định về xử phạt vị phạm
hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. Điều 7 xử phạt vi phạm
quy định về hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng.
+ Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với tổ chức phát hành, tổ chức
bảo lãnh phát hành, tổ chức tư vấn phát hành; các tổ chức, cá nhân xác nhận hồ sơ đăng ký
chào bán chứng khoán ra công chúng có thông tin sai lệch hoặc không sửa đổi, bổ sung hồ
sơ khi phát hiện thông tin không chính xác hoặc bỏ sót nội dung quan trọng theo quy định
phải có trong hồ sơ.
+ Phạt tiền từ 150.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng đối với tổ chức phát hành, tổ
chức bảo lãnh phát hành, tổ chức tư vấn phát hành; các tổ chức, cá nhân xác nhận hồ sơ đăng
ký chào bán chứng khoán ra công chúng có thông tin cố ý làm sai sự thật hoặc che giấu sự
thật.
+ Phạt tiền từ 1% đến 5% tổng số tiền đã huy động đối với tổ chức phát hành lập, xác
nhận hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng có sự giả mạo theo quy định tại
khoản 1 Điều 121 LCK
Ngoài ra còn có những hình phạt bổ sung khác nữa nhằm răn đe các chủ thể phát hành.
Tuy nhiên có thể thấy mức độ xử phạt còn khá nhẹ, UBCKNN cần đưa ra những biện
pháp mạnh mẽ hơn để xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, từ đó mới bảo vệ được quyền
lợi cho nhà đầu tư, đảm bảo công bằng cho các tổ chức chào bán trên thị trường. Đồng thời,
UBCKNN nên nhanh chóng thành lập một Ban giám sát thị trường chứng khoán để kịp thời
xử lý các trường hợp vi phạm.
- Nên tách UBCKNN khỏi Bộ Tài chính, tức là UBCKNN phải trực thuộc Chính phủ,
do Chính phủ điều hành trực tiếp để ủy ban có đủ thực quyền để quyết sách, dễ dàng điều
tiết thị trường.
C. KẾT BÀI
Chào bán chứng khoán ra công chúng đem lại những hiệu quả thiết thực cho chủ thể
chào bán và cả nền kinh tế nên vấn đề quan trọng là cần có khung pháp lý hoàn thiện để hoạt
động này phát triển. Pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng không những tạo ra
cơ sở pháp lý cho phép các doanh nghiệp đặc biệt là các Công ty Cổ phần huy động vốn,
niêm yết và giao dịch trên thị trường chúng khóa mà còn tạo ra cơ chế cho hoàng hóa chứng
khoán ra đời từ đó tạo tiền đề quan trọng cho sự hình thành một công cụ huy động vốn dài
hạn cho nền kinh tế Việt Nam – đó là thị trường chừng khoán. Chính vì vậy quy định của
pháp luật càng phù hợp với thực tiễn bao nhiêu thì càng phát huy được những tác động tích
cực của nó bấy nhiêu. Trong những năm qua với sự nỗ lực của các nhà lập pháp đã ban hành
nên những quy định về chào bán chứng khoán nói chung và những điều kiện, trình tự, thủ
tục chào bán chứng khoán nói riêng đã tạo nên cơ sở pháp lý quan trọng cho các chủ thể
chào bán chứng khoán thực hiện hoạt động chào bán của mình.
Tài liệu tham khảo
1. Luật chứng khoán 2006
2. Nghị định 144/2003/NĐ-CP
3. Nghị định 14/2007/NĐ-CP
4. Nghị đinh số 84/2010/NĐ-CP
5. Nghị định số 85/2010/NĐ-CP
6. Thông tư số 17/2007/TT-BTC
7. Giáo trình Luật Chứng Khoán – Trường đại học Luật Hà Nội – NXB CAND
2008
- Xem thêm -