Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Văn học Tiếp cận văn học từ Góc nhìn văn hóa...

Tài liệu Tiếp cận văn học từ Góc nhìn văn hóa

.PDF
270
161
84

Mô tả:

LÊ NGUYÊN CẨN TIẾP CẬN VĂN HỌC TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 2 Môc lôc Trang 4 Lời nói đầu Chương một: Tính văn hóa – Các mã – Các cách tiếp cận tác phẩm văn học I. Tính văn hoá của tác phẩm văn học II. Mã là gì? III. Các mã trong tác phẩm văn học theo Roland Barthes IV. Các hình thức tiếp cận phân tích tác phẩm văn học 1. Tiếp cận xã hội học – lịch sử 2. Tiếp cận thi pháp học – cấu trúc luận 3. Tiếp cận phân tâm học 4. Tiếp cận văn hóa học – lịch sử Chương hai: Các phương diện biểu hiện của văn hóa trong tác phẩm văn học I. Huyền thoại II. Tôn giáo III. Đạo đức IV. Nghệ thuật V. Khoa học VI. Triết học 7 7 17 22 38 39 45 53 61 72 72 84 91 100 111 118 Chương ba: Mã văn hóa trong các quan hệ của tác phẩm văn học 142 I. Mã văn hóa trong các quan hệ nội tại của tác phẩm 142 II. Mã văn hóa trong các quan hệ ngoại tại của tác phẩm 175 Chương bốn: Các dạng thức tồn tại của mã văn hóa trong tác phẩm văn học I. Mã văn hóa qua những kí hiệu đặc biệt II. Mã văn hóa trong các mô-típ truyền thống III. Mã văn hóa trong các biểu tượng IV. Mã văn hóa huyền thoại – mẫu gốc 188 188 206 213 236 Kết luận Tài liệu tham khảo 246 266 3 Lêi nãi ®Çu Chuyên luận Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa hướng tới mục tiêu khám phá các giá trị văn học không chỉ trên bình diện hình tượng mà từ chiều sâu văn hóa của các hình tượng văn chương, vốn là một trong các giá trị căn bản của tác phẩm văn học. Khía cạnh mà chuyên luận hướng tới chính là các giá trị văn hóa có trong tác phẩm văn học, ý nghĩa thực tiễn của các giá trị đó trong việc giáo dục đạo đức, nhận thức và thẩm mĩ cho độc giả. Bởi lẽ, một trong những kết tinh cao nhất của văn hóa chính là văn học. Đọc hay học văn học chính là đọc và học để tìm hiểu bản sắc văn hóa của một dân tộc, một cộng đồng được chuyển tải và kết tụ trong tác phẩm văn chương của dân tộc ấy, cộng đồng ấy. Qua đó, nhận thức được sức sống kì diệu của dân tộc và cộng đồng ấy. Mặc dù văn hóa là sản phẩm được tạo ra khi con người lột xác từ con người tự nhiên chuyển sang con người xã hội và tạo ra môi trường thứ hai trong đó con người thực hiện các hoạt động và các ước mơ của mình, ngoài môi trường tự nhiên của thế giới xung quanh, nhưng chuyên luận chỉ tập trung vào một khía cạnh của văn hóa mà không lí giải mọi hiện tượng văn hóa. Chuyên luận này được giảng dạy chuyên đề sau đại học tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội, từ nhiều năm nay. Tuy nhiên, vấn đề mà chuyên luận đưa ra là một vấn đề không dễ giải quyết trong một sớm một chiều nhưng gợi mở một hướng nghiên cứu, một hướng tiếp cận tác phẩm văn chương để hiểu hơn vì sao văn học tồn tại trong đời sống con người và vì sao nhân loại cần tới văn học. Tất nhiên, khi nói văn hóa là của con người, do con người và cho con người thì văn học cũng phải mang các tính chất đó. Văn học là sáng tạo của con người để xác lập và bảo vệ các giá trị thiêng liêng mang tính chất người của con người, để không ngừng nâng tầm vóc con người không chỉ là con người xã hội bình thường (mà ở đó tính chất bầy đàn 4 nhiều hơn tính chất cộng đồng) mà là con người xã hội - văn hóa (với sự ưu trội của các giá trị nhân văn, nhân đạo, phẩm chất cộng đồng). Hy vọng chuyên luận sẽ mang lại những giờ phút bổ ích cho những người ham mê văn học, cho các sinh viên, cao học, nghiên cứu sinh và các đồng nghiệp. Tác giả chân thành cảm ơn các nhà nghiên cứu, các học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch, các dịch giả được trích dẫn trong chuyên luận này. Tác giả trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc NXB Đại học Quốc gia Hà Nội và các biên tập viên đã tạo điều kiện giúp đỡ cho chuyên luận được ra mắt độc giả. Tác giả cũng chân thành cảm ơn và mong muốn nhận được các đóng góp chân thành từ bạn đọc gần xa. Hà Nội, 8/2013 Tác giả 5 Chương một TÝNH V¡N HãA - C¸C M· C¸C C¸CH TIÕP CËN T¸C PHÈM V¡N V¡N HäC I. Tính văn hoá của tác phẩm văn học Tính văn hoá (la culturalité) của tác phẩm văn học là tính chất đặc thù cho thấy tác phẩm văn học không chỉ toát lên vẻ đẹp ngôn từ mà còn cả vẻ đẹp tâm hồn qua cách ứng xử và cách tiếp nhận, xử lý cuộc sống của một dân tộc hay một cộng đồng người nhất định. Nó không chỉ là quan niệm về con người được thể hiện qua sự khéo léo của nghệ thuật ngôn từ mà còn cả chuẩn mực ứng xử của cộng đồng, dân tộc trong một thời kỳ lịch sử nhất định. Mỗi tác phẩm văn học đều mang trong nó tính văn hoá đặc trưng của dân tộc, của đất nước mà nơi đó tác phẩm được sinh ra. Không có tác phẩm văn chương nào mà lại không mang trong nó chí ít một đặc trưng văn hoá của dân tộc mình hoặc qua cách nói, cách diễn đạt hoặc qua cách xây dựng, cách khái quát hình tượng… Tính văn hoá trong tác phẩm văn chương cho phép hiểu rộng hơn giá trị của tác phẩm qua hệ thống hình tượng, hình ảnh; tạo ra những suy tư liên hệ so sánh với các loại hình nghệ thuật khác cũng như với các nền văn hoá khác... Nếu coi văn hoá là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần mà con người sáng tạo ra trong suốt tiến trình lịch sử nhằm tạo dựng diện mạo riêng cho nó, nhằm tạo ra bản sắc văn hoá cho riêng mình thì tác phẩm văn học là một trong những giá trị sáng tạo đó. Tác phẩm văn học - chỉnh thể của nghệ thuật ngôn từ tái hiện đời sống tinh thần của các dân tộc - là kết tinh cao nhất của văn hoá một tộc người, một đất nước. Tác phẩm văn học mang tính văn hoá cao sẽ trở thành tài sản chung của dân tộc mà Truyện Kiều1 của Nguyễn Du trong văn học Việt Nam là một ví dụ tiêu biểu. 1 6 Lê Nguyên Cẩn: Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2008. Văn hóa bao gồm trong nó các mặt: Thứ nhất là cơ chế văn hóa gắn với những quy định chặt chẽ, chẳng hạn trình tự các bước trong cưới hỏi (chạm ngõ, bỏ trầu, vấn danh, ăn hỏi, nạp tài, vu quy…); xem tuổi (nhất gái hơn hai nhì trai hơn một; cùng tuổi nằm duỗi mà ăn; trai Đinh Nhâm Quí thì tài, gái Đinh Nhâm Quí thì hai lần đò…); xem ngày cho từng công việc, hay trong các nghi thức tang lễ ma chay (cúng ba ngày, bốn mươi chín ngày, một trăm ngày…, quan niệm sống cái nhà già cái mồ, để của để nả không bằng để mả cho con; cách để tang (Kim Trọng phải để tang chú ba năm),…; Thứ hai là hệ tư tưởng, chẳng hạn, tư tưởng tự do của văn hóa văn minh Hi Lạp, chủ nghĩa nhân văn Phục hưng, tư tưởng về quyền tự nhiên và con người tự nhiên trong triết học Ánh sáng, tư tưởng độc lập dân tộc và tự hào yêu nước trong văn học trung đại Việt Nam, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, tư tưởng Không có gì quý hơn độc lập tự do của Chủ tịch Hồ Chí Minh…; Thứ ba là tôn giáo tín ngưỡng như tục thờ cúng ông bà tổ tiên, những người có công với cộng đồng dân tộc (Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ; hăm một Lê Lai, hăm hai Lê Lợi,…), hay quan niệm đất có thổ công sông có hà bá, có thờ có thiêng có kiêng có lành, các hình thức ma thuật, phù thủy như: lên đồng, gọi hồn hay diễn xướng chầu văn và các làn điệu dân ca, phong tục trồng cây nêu ngày tết, cắm cành lá xanh trước cửa, tục phóng sinh thả chim về trời thả cá về nước…; Thứ tư là các nghi lễ cộng đồng, chẳng hạn giỗ tổ Hùng vương (Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba), lễ chào cờ đầu tuần tại các trường học, các nghi lễ kỉ niệm một ngàn năm Thăng Long, bắn hai mươi mốt phát đại bác khi đón chào các nguyên thủ quốc gia…; Thứ năm là các phong cách nghệ thuật thể hiện trong tác phẩm văn chương (thơ lục bát của Việt Nam, thơ Hai cư của Nhật Bản, thơ tứ tuyệt Trung Hoa… đều mang đậm phong cách nghệ thuật của mỗi cộng đồng), trong nghệ thuật điêu khắc (tư thế dáng dấp Rồng đời Lí, đời Trần khác với rồng đời Lê đời Nguyễn), trong trò chơi cộng đồng kể cả trò chơi của trẻ em (gồm các bài đồng dao kết hợp với động tác biểu diễn Rồng rắn lên mây, Thả đỉa ba ba…, các trò đánh vật, bịt mắt bắt dê, thi thổi cơm…). Văn hóa là phức hợp tổng thể của cộng đồng trong tiến trình thời gian thông qua sáng tạo, học hỏi, tích lũy kinh nghiệm sống từ thế hệ này sang thế hệ khác. Quan điểm, cách thức suy nghĩ hành 7 động của một cá nhân chỉ trở thành văn hóa và mang tính văn hóa khi tư tưởng hay hành động của cá nhân đó được cộng đồng thừa nhận, tiếp thu và truyền bá, trở thành tài sản tinh thần chung. Cộng đồng chỉ tiếp nhận những giá trị có chức năng mở rộng văn hóa và loại bỏ những gì phản văn hóa, phản dân tộc. Vì thế, không thể coi thứ sắp chữ, xếp chữ cho có vần ít nhiều mang dáng dấp của đa-đa, hay vị lai phương Tây, mà hiện nay nhiều người đang gọi là “ngoài luồng”, “ngoài lề” như là một thứ văn học được. Văn hóa, bản thân nó như Sir Edward Bunett Tylor định nghĩa là “một tổng thể phức hợp gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, luân lí, luật pháp, phong tục và một thói quen và năng lực khác mà con người đạt được như là một thành phần của xã hội” mà ở đây ta cũng thấy được sự xuyên thấm lẫn nhau giữa các thành tố của chỉnh thể trong một nền văn hóa. Đồng thời cũng thấy được sự hiện diện của văn chương trong văn hóa. Bởi lẽ, văn hóa được tạo ra trong tiến trình cuộc sống, văn hóa vận động, phát triển, biến đổi và tác động, uốn nắn, chi phối tiến trình đó. Sự vận động của một nền văn hóa gắn liền với hình thức tiếp biến văn hóa với các dân tộc khác nhưng vừa tiếp nhận vừa loại trừ, tiếp nhận những gì có ích, có lợi cho sự phát triển của dân tộc, loại bỏ những gì có hại cho sự phát triển ấy, bởi vì nếu tiếp nhận không đúng, tiếp nhận sai lệch sẽ dẫn tới việc phá vỡ nền văn hóa dân tộc. Vì văn hóa là của con người, do con người và cho con người nên văn hóa gắn với cách nghĩ, cách nói, cách làm của con người mang tính xã hội mà bản chất của con người này là con người sáng tạo, đối lập với con người tự nhiên chỉ biết thừa hưởng một cách sinh vật mọi thứ từ tự nhiên. Chỉ khi con người tự nhiên chuyển hóa hoàn toàn sang con người xã hội thì lúc đó mới xuất hiện văn hóa. Chẳng hạn, răng và tóc của con người là tự nhiên nhưng “cái răng cái tóc là vóc con người”, hay “xấu mặt thì lâu, xấu đầu mấy chốc” lại là văn hóa và hành động bán răng, bán tóc để lấy tiền nuôi con của Fantine trong Những người khốn khổ trở thành hành động nhân đạo, vị tha, mang phẩm chất văn hóa cao. Đương nhiên, con người không tồn tại ngoài thế giới tự nhiên mà gắn mình với thế giới đó. Con người chấp nhận hoàn cảnh, không khước từ hoàn cảnh mà từng bước vượt lên và làm chủ hoàn cảnh. Đây là kiểu con người khám phá, chinh phục 8 thường thấy qua hệ thống các nhân vật mở đường mà văn học phương Tây đề cao như Ulysse hay Robinson, dẫn tới quan niệm về sự đối lập giữa tự nhiên và con người mà bài học về sinh thái nhân văn đang triển khai trong thế kỷ này là sự nhận thức lại vấn đề đó, cho dù ngay từ thời Phục hưng, Montaigne đã viết trong Các tiểu luận (Les Essais) nổi tiếng: “phải tuân theo những luật lệ của môi trường trong đó người ta sống” vì đó là “quy tắc của mọi quy tắc và luật lệ chung của mọi luật lệ”. Như vậy, văn hóa còn gắn với khả năng thích nghi của con người. Sự thích nghi văn hóa hiện hình trong văn chương với những bước ngoặt quan trọng như việc tìm ra lửa qua huyền thoại về Prométhé mang lửa xuống cho loài người, như huyền thoại về thần thợ rèn Hephaistos… Sự thích nghi văn hóa chỉ ra tính chất uyển chuyển của văn hóa, chẳng hạn thân nhiệt của con người nói chung đều là 37oC, nhưng con người có thể sống dễ dàng ở vùng cực rét buốt quanh năm hay vùng xích đạo nóng bức. Như vậy, dùng văn hóa và bằng văn hóa mà con người trở thành chủng loại tối ưu trên hành tinh này. Tiếp cận tác phẩm văn học từ góc độ giá trị văn hoá góp phần làm rõ thêm đóng góp của tác phẩm văn học vào tổng thể giá trị tinh thần của một dân tộc. Bản thân tác phẩm văn học là sản phẩm phản ánh bộ mặt tinh thần của một thời đại lịch sử cụ thể. Nó thể hiện, trước hết, cách cảm thụ thế giới để dẫn tới các chuẩn mực sống của cộng đồng dân tộc, dẫn tới cách xây dựng nhân vật bằng hình thức mô hình hoá - điển hình hoá mang đặc trưng dân tộc với các mô-típ tiêu biểu như: mô-típ ba hạt dẻ, mô-típ người đẹp ngủ trong rừng, mô-típ dì ghẻ con chồng…; tạo ra các mẫu đề mang tính nhân loại kiểu hình tượng Ulysse trong Odyssé của Homère, kiểu Robinson Crusoe trong tác phẩm cùng tên của D.Defoe, kiểu Santiago trong Ông già và Biển cả của Hemingway... Cách xây dựng cốt truyện với kết thúc có hậu (happy and) theo quan niệm ở hiền gặp lành dẫn tới quy ước về cách thức ứng xử thẩm mỹ mang tính cộng đồng, mang tính thời đại mà chúng ta có thể thấy qua rất nhiều biểu hiện trong nhiều tác phẩm văn chương. Chẳng hạn, việc Achilles kéo xác Hecto trong sử thi Illiade của Homère, đã bị các thần và cư dân thành Troia phản đối vì đây là một hành động dã man gắn liền với một thời kỳ dã man mà khi bước vào xã hội văn minh những hành vi dã man ấy 9 không có chỗ đứng trong đó. Kiểu tính cách mạnh gắn liền với loại kịch rùng rợn xuất hiện trên sân khấu Anh thời kỳ Phục hưng qua các tác phẩm của Thomas Keets cũng cho thấy nét đặc trưng văn hoá của dân tộc này và những đòi hỏi lịch sử của một thời đại nhất định. Tác phẩm văn học xét từ góc độ này trở thành thế giới thứ hai, thế giới của lý tưởng, của chân – thiện – mỹ, tạo ra niềm tin hướng thiện cho con người. Chẳng hạn, ai cũng biết sáng tạo thần thoại là sáng tạo quan trọng của nhiều dân tộc trong buổi bình minh của nó, nhưng sáng tạo ra thần thoại để làm gì thì không phải dễ dàng trả lời. Về phương diện này, thần thoại Hi Lạp mang lại một câu trả lời xác đáng: “bản chất của thần thoại Hi Lạp là tự nhiên và chính các hình thái xã hội được trí tưởng tượng của nhân dân xây dựng nên một cách có hệ thống, có nghệ thuật nhưng không tự giác” (Mác). Từ đó, thần thoại Hi Lạp có vai trò cực kỳ quan trọng đối với văn hoá Hi Lạp nói riêng và văn hoá phương Tây nói chung: “Không có thần thoại Hi Lạp thì không có nghệ thuật Hi Lạp. Thần thoại Hi Lạp không những là kho vũ khí mà còn là mảnh đất bồi dưỡng nghệ thuật Hi Lạp”(Mác). Kết thúc tác phẩm Zadig, Voltaire viết: “Từ khi Zadig lên làm vua đất nước trở nên vinh quang thái bình và thịnh vượng”. Zadig ở đây là hình mẫu ông vua lý tưởng, một vị minh quân theo mô hình nhà nước quân chủ sáng suốt của Voltaire, nhưng nó cũng tạo ra một thế giới mới, khác về bản chất so với xã hội phong kiến đang tồn tại, tạo ra niềm tin thúc đẩy cuộc đấu tranh chống phong kiến và chống giáo hội của con người trong thế kỷ XVIII. Truyện Kiều của Nguyễn Du có vay mượn chất liệu của Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân, song cách xử lý chất liệu của Nguyễn Du rất khác, từ đó tạo ra một hiệu quả nghệ thuật khác mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Chẳng hạn, trong Kim Vân Kiều truyện, Thanh Tâm tài nhân mô tả cảnh bọn bán tơ vào ăn uống chè chén tại gia đình Vương ông rồi khi bị bắt chúng khai ra gia đình Vương ông khiến gia đình này bị quan lại bắt bớ, Kiều phải bán mình. Hiển nhiên, việc làm của bọn quan lại ở đây chẳng có gì đáng trách vì xét về mặt pháp lý gia đình Vương ông có liên đới trách nhiệm với bọn bán tơ. Khi xử lý chi tiết này, Nguyễn Du tước bỏ hoàn toàn việc ăn uống, chè chén tại nhà Vương ông mà chỉ miêu tả cảnh gia đình Vương ông vừa đi mừng sinh nhật bên ngoại về thì ngay lập tức 10 bọn sai nha ập đến với “người nách thước kẻ tay dao. Đầu trâu, mặt ngựa ào ào như sôi”, khiến cho chốc lát cả gia đình tan hoang. Sau đó, Nguyễn Du mới đưa chi tiết vu cáo vào khiến cho “cả nhà hoảng hốt ngẩn ngơ. Tiếng oan dậy đất án ngờ loà mây” với một kết luận chính xác mà sắc bén: “Một ngày lạ thói sai nha. Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”. Nếu liên hệ chi tiết này với lời ru dân gian gắn liền với thời đại đó: “Con ơi nhớ lấy câu này. Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan” thì mới thấy hết bộ mặt xã hội lúc bấy giờ, mới thấy Nguyễn Du không phải chỉ kể về cuộc đời Kiều mà còn chú trọng kể về thời đại, nói lên tâm trạng phẫn uất của mình trước thời đại đó. Việc sắp xếp xử lý các chi tiết các sự kiện được lấy từ cuộc sống sao cho chúng trở thành chất liệu nghệ thuật đắc dụng, không thiếu, không thừa là thuộc về tài năng sáng tạo cá nhân, nó liên quan tới việc xác lập cách nhìn nghệ thuật về con người vốn mang đậm bản sắc văn hoá của dân tộc. Chẳng hạn, từ các sự kiện đã nêu ở hai tác giả Nguyễn Du và Thanh Tâm tài nhân đều đưa nhân vật của mình tới một hành động, đó là Kiều bán mình chuộc cha. Nhưng miêu tả cách bán mình của nhân vật Thuý Kiều qua hai tác giả ta thấy có sự khác nhau rất rõ. Kiều trong Kim Vân Kiều Truyện là một Thuý Kiều hoàn toàn tỉnh táo, không biểu lộ một sự đau khổ nào. Kiều nói: “Bán mình mà không được việc thì bán để làm gì”, cho nên Kiều đường hoàng mặc cả, dứt khoát chứ không hề đau khổ, coi như chuyện phải bán mình là tất yếu: “Không phải năm trăm lạng là không được”. Kiều ở đây vừa là người bị bán vừa là người đi bán, nhưng phần chủ động chiếm ưu thế, do đó tính chất tố cáo không lớn, mà chỉ cho thấy dường như Kiều cảm thấy được mối liên hệ qua việc người cha đã làm (ăn uống với bọn bán tơ) và việc tan cửa nát nhà phải bán mình là không tránh khỏi, theo kiểu dám làm dám chịu của các nghĩa hiệp Trung Hoa. Nguyễn Du tái hiện cảnh bán mình của Kiều một cách khác. Trước hết, đó là nỗi đau được nhận thức, được nhân lên lên nhiều lần: “Nỗi mình thêm tức nỗi nhà. Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”. Kiều của Nguyễn Du xuất hiện như là một vật bị bán, một hàng hoá thực sự chứ không còn là con người chủ động hay bình tĩnh nữa, Kiều buộc phải tự chứng minh tính chất hàng hoá của mình: “ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ”. Kiều được họ Mã nhìn ngắm, 11 quan sát không phải vì vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành mà chỉ đơn giản là một mặt hàng, mọi giá trị nhân văn bị hạ thấp để nhường chỗ cho tính toán của một tay buôn thịt, bán người: “Bằng lòng, khách mới tuỳ cơ dặt dìu”. Miêu tả Kiều trong trạng thái này cho thấy tấm lòng nhân đạo tha thiết của Nguyễn Du, đồng thời cũng chính là niềm đồng cảm mang đậm tính chất dân tộc Việt theo kiểu: “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”. Đây chính là một góc nhìn thể hiện tính chất dân tộc, thể hiện văn hoá của dân tộc. Việc lựa chọn giải pháp cứu nhà cứu cha cũng mang tính chất văn hoá Việt, đó là “làm con trước phải đền ơn sinh thành”, đối với người Việt thì công cha nghĩa mẹ là cái lớn lao nhất. Cho nên, dù phải đặt lên bàn cân giữa một bên là “duyên hội ngộ” một bên là “đức cù lao” thì Kiều vẫn chọn giải pháp “bán mình chuộc cha”. Cho nên, sự cảm thụ thế giới dẫn tới sự xác lập các chuẩn mực thời đại, trở thành chuẩn mực mang tính dân tộc. Các giá trị văn hoá có trong tác phẩm văn học tạo ra cho tác phẩm văn học một sức mạnh tự nâng mình lên, tạo ra một sức vươn toả mới. Bản thân văn hoá còn là phương thức hoạt động, là hình thức sản xuất mang tính công nghệ của hoạt động con người. Từ góc độ này, tác phẩm văn học miêu tả và mang trong nó các biểu hiện văn hoá qua hành vi ứng xử: ứng xử với môi trường và ứng xử xã hội. Ứng xử với môi trường thể hiện qua quan niệm của con người đối với môi trường, từ đó cây đa bến nước sân đình mới trở thành tình thành nghĩa; môi trường mới trở thành thước đo quan hệ ứng xử, chẳng hạn: “Tưởng giếng sâu anh nối sợi dây dài. Ai ngờ giếng cạn tiếc hoài sợi dây”, hay “Trăm năm bia đá thì mòn. Nghìn năm bia miệng hãy còn trơ trơ”… Từ đó, cây tre, cây dừa hay chiếc gậy tầm vông mới mang trong mình sức mạnh dân tộc, vừa bất khuất vừa kiên cường, như chính con người gắn bó với chúng trong suốt trường kỳ lịch sử. Các hình ảnh hiện ra trong tác phẩm văn chương tự nó trở thành các ký hiệu mang nghĩa, trở thành các tín hiệu nghệ thuật mang nghĩa để tái hiện con người và cuộc đời của một dân tộc. Bông sen hoá thân thành chùa Diên Hựu - chùa Một Cột nổi tiếng; hồ Thủy Quân trở thành hồ Hoàn Kiếm -Trả gươm để tạo dựng hoà bình, chúng ta chỉ cần súng gươm trong những thời điểm nhất định còn khi không cần đến nó nữa chúng ta trả lại cho thế giới linh thần, gửi lại cho khí thiêng đất nước… 12 Một ứng xử nữa là ứng xử giữa người và người, cũng là ứng xử giữa các quan hệ xã hội. Tác phẩm văn chương thường trình bày câu chuyện trong đó các nhân vật được đặt trong quan hệ giao tiếp với nhau, đối thoại với nhau, trong một phạm vi ứng xử văn hoá với nhau… Các ứng xử đó đều mang đặc trưng văn hoá dân tộc, tạo ra màu sắc dân tộc khiến tác phẩm đó không thể hoà lẫn với các tác phẩm có thể cùng loại, cùng thể của các nền văn hoá khác được. Chẳng hạn, đề tài dì ghẻ con chồng là khá phổ biến trong văn học nhiều nước, nhưng những gì diễn ra trong Tấm Cám thì không phải dân tộc nào cũng có và cách ứng xử của các nhân vật ở đây cũng không gặp lại ở các nền văn học khác. Sở dĩ, Tấm đẩy hành động trả thù của mình lên tới mức độ cao như thế là bởi mẹ con Cám đã đang tâm huỷ diệt mọi dạng thức tồn tại của Tấm: biến thành chim thì bị làm thịt, biến thành cây thì bị đốt cháy… Trong Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn thì mụ dì ghẻ tự chết, tức là tự mình trừng phạt mình… Tất cả các ký hiệu đó dù dưới hình thức hình ảnh hay hình tượng, biểu tượng hay biểu trưng đều mang mã văn hoá đặc trưng của dân tộc đều cho thấy tính chất dân tộc. Do đó, việc khai thác tác phẩm văn chương không thể không đề cập tới tính văn hoá của chúng. Một bài thơ rất nổi tiếng của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, bài Bánh trôi nước cũng cho thấy nhiều điều nếu đi từ cách thức khai thác này: Thân em vừa trắng lại vừa tròn, Bảy nổi ba chìm với nước non Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn, Riêng em vẫn giữ tấm lòng son. Hiển nhiên bài thơ đề cập tới hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến, vừa có vẻ đẹp về hình thể vừa có vẻ đẹp về đạo đức: vừa trắng lại vừa tròn, vừa có tấm lòng son cho dù phải chịu cảnh “bảy nổi ba chìm”. Điều này thể hiện qua trước hết hình ảnh về “thân”, thân ở đây là thân thể, là vẻ đẹp của thân thể. Nhưng nếu để riêng thân thì sẽ không thấy đằng sau thân đấy còn phận nữa, phận ở đây là vị thế, là duyên phận, là cuộc sống mà người phụ nữ bị đặt vào, là bảy nổi ba chìm, là rắn nát phụ thuộc vào “kẻ nặn”. Cách diễn tả thân phận người phụ nữ như vậy qua các ký hiệu, qua các tín hiệu như vậy không gặp ở các nền văn học khác mà nó mang tính tính 13 chất đặc trưng của văn hoá Việt, gắn với nền văn minh lúa nước và gắn với nghệ thuật ẩm thực được sinh ra từ các sản phẩm lúa gạo. Từ đấy, chiếc bánh trôi nước trở thành hình ảnh biểu đạt thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Nhưng đây là người phụ nữ tài hoa bởi nó vừa trắng lại vừa tròn, bởi nó ý thức được bản thân nó, nó lại liên tưởng được với cái phận của nó, cho nên cái đau toát lên tự nỗi đau được nhận thức. Từ đấy, tiếp cận tính văn hoá trong tác phẩm văn học từ bình diện hoạt động của con người hay từ bình diện ký hiệu học sẽ mở ra những cấp độ ngữ nghĩa khác cho phép tạo ra chiều sâu của hình tượng văn chương, tạo ra sự đồng cảm, thấu tình đạt lý. Trong tương quan giữa văn học và văn hóa, thì văn học là một trong những kết tinh cao nhất của văn hóa cộng đồng, dân tộc. Tác phẩm văn học nào cũng mang trong nó tính văn hóa, dấu ấn văn hóa ở các mức độ khác nhau. Tính văn hóa biểu hiện qua các mã của nó, tạo thành trong tác phẩm văn học, một chỉnh thể nghệ thuật, mang tính nghệ thuật, có tính nghệ thuật, có khả năng biểu đạt và phản ánh văn hóa của cộng đồng, của dân tộc. Tác phẩm nghệ thuật mang tính văn hóa nói chung, tác phẩm văn học nói riêng, được tạo ra do con người, cho con người và vì con người, để phản ánh con người và cuộc đời, theo truyền thống văn hóa, mang đặc trưng văn hóa đặc thù của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc. Vì thế, không có văn hóa nào nằm ngoài con người cũng như không có văn học nào nằm ngoài con người. Do đó, tác phẩm văn chương lấy con người làm đối tượng trung tâm của sự phản ánh cũng chính là tập trung khắc họa tính chất văn hoá của con người. Văn hoá của con người, phụ thuộc vào sự phát triển của con người, văn hoá thể hiện năng lực sáng tạo vô bờ bến của con người trong quá trình vươn lên làm chủ cuộc sống và vươn lên để hoàn thiện nó, tạo ra sự hoàn thiện và phát triển nhân cách con người tạo ra vẻ đẹp của con người qua mỗi thời đại. Tính văn hóa trong tác phẩm văn học không phải là một thực thể khô cứng, bất biến mà nó cũng vận động theo sự phát triển của văn hóa, cũng tuân thủ các chuẩn mực phát triển của văn hóa và quy mô phát triển của văn hóa, chẳng hạn các chuẩn mực về văn hóa lễ nghi. Mỗi thời đại lịch sử đều có hình mẫu con người lý tưởng của mình, hình mẫu con người lý tưởng đó là kết tinh cao nhất về mặt 14 văn hoá của thời đại đó. Đối với người nông dân Việt Nam, thì tượng đài bất tử về họ mà Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc mang một vẻ đẹp vô song của những người nông dân thời kỳ lam lũ. Hình tượng đó mang vẻ đẹp mới với hình ảnh của những người nông dân mặc áo lính hiện lên qua hình ảnh “bộ đội Cụ Hồ”, trở thành “dáng đứng Việt Nam” trong tư thế xung trận tiến công với chiếc mũ tai bèo mềm mại, thân thương. Các hình thức ngôn từ: hình tượng, hình ảnh, biểu tượng, ý nghĩa tượng trưng… được tổng kết lại trong kho tàng văn học dân gian, trong văn học viết không chỉ của một dân tộc nào mà là chung cho cả mọi dân tộc. Từ đó, chúng ta có hệ thống các hình ảnh biểu tượng gắn với thần thoại, được chuyển tải vào văn hoá tôn giáo, vào Kinh Thánh, trở thành các mẫu đề của các nền văn học lớn, trở thành những đề tài mang tính phổ quát nhân loại như kiểu đề tài bán linh hồn cho quỷ sứ theo kiểu mô-típ Faust hay quyến rũ theo kiểu Don Juan. Cách thức sử dụng ngôn ngữ, các nghi thức lời nói cũng là đặc trưng văn hoá dễ thấy trong tác phẩm văn học. Mỗi dân tộc có hình thức biểu cảm khác nhau, có cách thức đặt vấn đề và giải quyết vấn đề khác nhau. Có dân tộc thường nghiêng về triết lý tư biện, có dân tộc trình bày cách suy nghĩ của mình qua cảm nhận cảm tính. Nói cách khác, tính văn hoá với biểu hiện đa dạng của nó trong tác phẩm văn học là yếu tố làm nên giá trị của tác phẩm đó. Tính văn hoá trong tác phẩm văn học còn tạo ra sự tương đồng trong việc tiếp nhận tác phẩm văn học của các dân tộc khác nhau. Người Việt rất có cảm tình với Những người khốn khổ của V. Hugo. Độc giả Việt Nam gặp gỡ ở đây sự đồng cảm sâu sắc theo truyền thống “thương người như thể thương thân” của dân tộc Việt. Những tương đồng như vậy dẫn tới sự thấu hiểu giữa các dân tộc, góp phần cho việc hội nhập văn hoá giữa các dân tộc. Việc nghiên cứu tính văn hoá trong tác phẩm văn học là hết sức cần thiết. Bởi vì, tính văn hoá của tác phẩm văn học là thuộc tính không thể tách rời của tác phẩm văn chương, là yếu tố quan trọng làm nên giá trị muôn thuở của tác phẩm. Từ đấy, việc giảng dạy tác phẩm văn học không chỉ dừng ở mức độ cảm thụ cái hay cái đẹp của hình tượng nghệ thuật mà còn phải chỉ ra sự độc đáo của vẻ đẹp văn hoá dân tộc trong đó. Tiếp cận tác phẩm văn chương không chỉ dừng 15 lại ở các cấp độ hình ảnh hình tượng thi pháp, cấu trúc… mà còn có thể tiếp cận từ góc nhìn văn hoá. Có như vậy, tác phẩm văn học mới hiện lên vẻ đẹp toàn diện của nó. Tính văn hóa trong tác phẩm văn học, vì gắn liền với văn hóa nên sẽ được xem xét ở các góc độ: văn hóa nhận thức tức thế giới quan; văn hóa tổ chức tức nhân sinh quan và văn hóa ứng xử tức quan hệ nhân thế. Có thể hiểu ở góc độ chung nhất: văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tính thần mà con người sáng tạo ra trong suốt trường kì lịch sử của đó để phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của con người. Tương tự, khi xét về văn học nói chung và tác phẩm văn học nói riêng thì văn học hay tác phẩm văn học cũng mang những giá trị văn hóa ấy. Mỗi tác phẩm văn chương đều là sản phẩm của một nền văn hóa nhất định, gắn với nền văn hóa ấy. Nó bị quy định bởi thế giới quan và nhân sinh quan đã sản sinh ra nền văn hóa ấy. Tính văn hóa cũng thể hiện qua hình thức các mã và bao gồm trong nó tính chất các mã như các khái quát của R.Barthes hay P.Guiraud, cho nên xem xét tính văn hóa của tác phẩm văn chương thực chất có thể dựa vào các hệ thống mã này để phân tích tìm hiểu. Việc nghiên cứu tính văn hóa trong tác phẩm văn học không thể không tách rời thế giới quan và nhân sinh quan, cũng như việc tiếp cận tác phẩm văn học từ góc nhìn văn hóa, đều gắn với phạm vi văn hóa tinh thần nên chúng tôi sẽ điểm qua một số lĩnh vực của văn hóa tinh thần và xem xét sự khác biệt của triết học Đông –Tây để hiểu sự khác biệt Đông, Tây trên bình diện văn chương. Xét về bản chất, văn học là nghệ thuật và ngôn từ, nghĩa là nghệ thuật sử dụng ngôn từ và nghệ thuật của ngôn từ. Văn học, xét từ bình diện ngôn từ, là một hệ thống mỹ học gồm hai phương diện: phương diện văn bản bao hàm trong nó một vựng tập tu từ học về các thể loại, phong cách hay hình thể và phương diện xã hội – lịch sử xét về mặt thể chế; ở đây văn bản văn học hay tác phẩm văn học trở thành một siêu văn bản – chứa đựng một truyện kể mang tính cấu thành (hay một diễn trình), bao gộp trong nó một diễn ngôn mang tính thể chế. Xét trên bình diện nghệ thuật, nói đến văn học là nói đến kĩ thuật, cũng như nói đến ngôn ngữ là phải nói đến ngữ pháp; nói đến kĩ thuật và ngữ pháp là nói đến tekhné (cách tạo nên hình thể, cách thức kĩ thuật) bao gồm khía cạnh poiêsis (hình thái ghép tạo danh từ) và khía cạnh physis (dạng thức hình thể). Cả hai khía cạnh này tạo 16 thành và gắn bó với nhau thành một hợp thể, như hai mặt của một tờ giấy không thể tách rời. Một tác phẩm hay bao giờ cũng có sự cân đối hài hòa giữa nội dung được biểu hiện và hình thức biểu hiện nó mà những vấn đề này đã được đề cập tới trong nhiêu công trình khác nhau. Sự kết hợp này biến tác phẩm văn học thành một hệ thống mĩ học: mĩ học văn học. Hệ thống mỹ học này củng cố tính nghệ thuật cho tác phẩm văn học, còn trên phương diện thể chế xã hội thì thể chế xã hội – lịch sử biến văn học thành một nghề chuyên môn: văn học trở thành một nghệ thuật khi những người thợ thủ công (của nghề) trở thành nghệ sĩ, người có năng lực khác thường khi nhìn thấy trong sự vật hiện tượng… những quy luật, những giá trị mà người bình thường không nhận ra. Đây chính là nguồn gốc của tác phẩm nghệ thuật mà cũng chính là nguồn gốc của các nghệ sĩ. Tác phẩm văn học hiện hình trước mắt độc giả như một tấm lưới ngôn từ được đan dệt bằng nhiều kết hợp ngữ vị, ngữ âm, ngữ pháp, cú pháp khác nhau, tạo thành văn bản văn học. Tác phẩm văn học trong tư cách văn bản vừa phản ánh hiện thực một thời đại nhất định gắn liền với cảm quan của tác giả, hiển nhiên, hiện thực của tác phẩm văn học là hiện thực mang tính hư cấu, nó không phải là sự sao chép nguyên xi hiện thực đã và đang diễn ra; vừa mang trong nó tiếng nói thổ lộ tâm tư tình cảm, sự bộc bạch của tâm hồn hay diễn tả tâm trạng của con người gắn kết chặt chẽ với một cộng đồng, một nền văn hóa, mà tác giả, hữu danh hoặc vô danh, là một thành viên của nền văn hóa ấy. Vì tác phẩm văn học được tạo ra từ nghệ thuật và kĩ thuật, mà nghệ thuật và kĩ thuật này được chuẩn hóa thành các mã, hiểu đơn giản là hợp thể các quy tắc tạo sinh tác phẩm, theo tiến trình thời gian, do đó, việc đọc hay nghiên cứu tác phẩm văn học không thể tách rời việc giải mã, nghĩa là tìm ra các chìa khóa để tháo rời tác phẩm để hướng tới tính văn học (la littératuralité – như cách nói của M.Bakhtine) của nó. Vậy thì mã là gì? II. Mã là gì? Mã (tiếng Pháp: la code – tiếng Latinh: codex): trước hết là một tập hợp các điều quy định mang tính lập pháp hay tính quy chế để quản lí mọi vấn đề tạo thành các ngành hoạt động khác nhau của xã hội, trong trường nghĩa này mã tương ứng với luật hay bộ luật. Mã là 17 toàn bộ các luật lệ hay sắc lệnh quản lý một vấn đề xác định, trong trường hợp này mã là hệ thống các quy tắc điều lệ, không những quy định cách thức thao tác trong công việc cụ thể mà còn là trách nhiệm về dân sự và hình sự mà mỗi một cá nhân phải tuân thủ. Mã còn là toàn bộ các quy tắc cho phép thay đổi một hệ thống biểu tượng mà không làm thay đổi nội dung thông tin được và cần được biểu hiện, chẳng hạn, các thông báo mật, khẩn, các chỉ thị quân sự... Trong trường hợp này mã tương ứng với hệ thống mật mã, có thể là mật mã quân sự, mật mã ngoại giao, mật mã kinh doanh… Từ điển Le Petit Robert2 cung cấp các nét nghĩa của từ code như sau: 1) Mã là tập hợp các quy tắc luật lệ, là toàn bộ các quy tắc và quy định tương ứng với một vấn đề đặc thù (chẳng hạn: luật dân sự); 2) Các quy định hoặc điều luật mở rộng để quy tắc hóa một lĩnh vực cụ thể (chẳng hạn các quy định để được cấp bằng lái xe); 3) Toàn bộ các quy tắc, phép tắc, mệnh lệnh (chẳng hạn: luật danh dự); 4) tập hợp các thỏa ước, vững tập các tương đồng giữa các ngôn từ (chẳng hạn: Mã các kí hiệu); 5) một hệ thống chặt chẽ trọn ven giữa các kí hiệu và các tập hợp kí hiệu (chẳng hạn mã ngôn ngữ học, mã cho phép tạo sinh các thông điệp và thông báo). Tương tự, Mã Q (Code Q) là hệ thống viết tắt quốc tế bắt đầu bằng chữ Q và được sử dụng trong thông tin điện tín cho hàng không và hàng hải. Mã là một hệ thống các biểu tượng quy ước cho phép thể hiện một thông tin, được sử dụng để tạo ra một thông tin. Hay, tương tự là hệ thống mã thông tin điện tín Morse. A.J.Greimas trong Các thành tố của lí thuyết diễn giải truyện kể huyền thoại3 cũng xác định: “Mã là một cấu trúc hình thức được tạo thành từ một số lượng các phạm trù nghĩa vị, theo đó sự kết hợp, dưới hình thức các nghĩa vị, có khả năng trình bày thành tập hợp các nội dung được quan tâm, khi trở thành bộ phận của kích thước được chọn lựa của vũ trụ huyền thoại học”. Mã còn là dạng từ điển giải thích bao gồm các tương đồng quy ước để giải mã văn bản tác phẩm. Chẳng hạn, để đọc loại tiểu thuyết cầu kì trong văn học Pháp thế kỷ XVII, ta phải dùng loại từ điển này, bởi lẽ các nhà cầu kì không dùng ngôn ngữ thường nhật mà họ quy ước một lối nói riêng với những 2 3 Le Petit Robert, Paris, 1980, trang 330. A.J.Greimas: Các thành tố của lí thuyết diễn giải truyện kể huyền thoại, trong Communications , 8/1966. Seuil, Paris, 1966, trang 35. 18 ngôn từ riêng, chẳng hạn họ gọi “bánh mỳ” là “cột trụ của sự sống”,, “nước” là “yếu tố lỏng”, “mặt trăng” là “cầu tinh của đêm trường”... Chữ mã xuất hiện đầu tiên trong lí thuyết thông tin, gắn liền với công nghệ truyền tải thông tin. Mã là hệ thống những kí hiệu hay biểu trưng được chọn lựa một cách vũ đoán, tùy thuộc vào chủ định mã hóa nhằm che dấu những gì không muốn cho người khác hay đối tượng khác biết. Mã như vậy là một quy ước riêng nhưng không mang tính tất yếu, mà tính chất quy ước này tùy thuộc và biểu hiện thông qua những quy tắc tạo sinh được quy định hay được áp đặt tùy thuộc theo chủ thể và mã cấu tạo phù hợp với nguyên tắc kí hiệu dùng trong các thông điệp, nghĩa là chuyển tải mọi thông tin dưới một hình thức khác. Chẳng hạn, ngay từ thời cổ xưa, khi ngôn ngữ chưa phát triển, các bộ lạc thường dùng các hòn đá xếp lại với nhau để tạo ra quy ước: đó là nơi trao đổi hàng hóa hay là nơi gặp gỡ bàn bạc… Như vậy, liên quan đến việc chuyển tải, chuyển đạt thông tin và giao tiếp dễ dàng, thuận tiện, tinh giản và tiết kiệm hơn mà mã được sáng tạo ra. Mã là sản phẩm của sáng tạo trí tuệ con người, thể hiện đậm nét tính chất nhân tạo và ước lệ, nhưng khi mã ra đời với tư cách là hệ thống tín hiệu hay biểu trưng quy ước dựa trên nguyên tắc cấu trúc tạo mã thì mã cũng trở thành một hệ thống kí hiệu mới, mã lúc đó trở thành một hệ thống riêng, có các nguyên tắc và chuẩn mực riêng, và chịu những tác động của chủ thể của thời đại và biến đổi theo chủ thể và thời đại. Mỗi nước có hệ mã riêng của mình đặc biệt trong lĩnh vực quân sự hay ngoại giao… Từ góc độ ngôn ngữ học, mã là: “Hệ thống kí hiệu và các quy tắc tổ hợp và sử dụng chúng, nhờ đó có thể chuyển đi các tin tức cụ thể. Có nhiều loại mã khác nhau: có mã tự nhiên và mã nhân tạo. Ví dụ: hệ thống kí hiệu Morse, quốc tế ngữ Esperanto là những mã nhân tạo. Các ngôn ngữ tự nhiên là những mã đặc biệt cho phép tổ hợp các âm vị, các từ để lần lượt trở thành các hình vị, các từ các câu”4. Do đó, hệ thống các mã là rất phong phú và mã văn hóa cũng không nằm ngoài quy luật này. Cũng như vậy, ta còn có thể dẫn ra nhiều cách hiểu về mã. Nhưng tựu chung lại, mã là toàn bộ một hệ thống chặt chẽ các quan hệ được cấu trúc hóa từ các kí hiệu, toàn bộ các kí hiệu và nội dung, bao gồm cả các châm ngôn, giáo huấn để tạo ra những văn bản hàm ẩn nhiều nghĩa. 4 Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học- Nxb Giáo dục, Hà Nội, trang 137. 19 Ngôn ngữ, bản thân nó cũng là một bộ mã, tức là một hệ thống những tín hiệu có tính chất ước lệ (cũng là những biểu trưng) được xây dựng theo những liên hệ và cấu trúc chặt chẽ, theo những luật lệ vô hình, được “cam kết” theo những quy ước ngầm ẩn nhưng tuyệt đối thống nhất của một cộng đồng ngôn ngữ nhất định. Các từ là những kí hiệu được sản sinh và sáng tạo trong suốt trường kì lịch sử của một cộng đồng ngôn ngữ. Do đó, khi cộng đồng có trình độ phát triển cao thì vốn từ vựng- tức những kí hiệu ngôn ngữ – cũng sẽ trở nên hết sức phong phú. Các sáng tạo khoa học đều gắn với sự phát triển của ngôn ngữ, tạo ra sự quy định về cách gọi tên, cách nhận diện sản phẩm, vì thế sự sáng tạo từ ngữ mang đặc trưng tinh thần của các dân tộc. Khi giao tiếp bằng lời nói, các thành viên của cộng đồng, rút ra từ hệ thống các từ ngữ - các mã quy ước đó, những tín hiệu cần thiết và tổ chức chúng, thành những phát ngôn, những thông điệp để chuyển tải hay phát đi những thông báo, thông tin cần thiết. Các nhà kí hiệu học đưa ra cách gọi sự “mã hóa” (encoder) để chỉ việc tạo ra các phát ngôn, các thông điệp, chuyển tải các thông tin, dựa trên hệ thống các kí hiệu ngôn từ, các quy tắc ngữ pháp hay trên cấu trúc ngôn ngữ nói chung. Bản thân mỗi tác phẩm văn chương cũng là một hình thức mã hóa một tình cảm, một sự kiện, một cuộc đời, hay những vấn đề khác được gọi chung là đề tài. Mỗi đề tài như vậy lại có thể được quy định thành kiểu mã hóa riêng, thường được triển khai theo nguyên tắc nhân quả, phái sinh. Khi tiếp nhận một phát ngôn hay thông điệp, đọc một truyện ngắn hay một bài thơ, đọc một tác phẩm văn xuôi hay xem một vở kịch, người nhận (hay người thu) tiếp nhận các tác phẩm, các thông báo thông điệp đó thông qua thao tác “giải mã”(décoder). Nói cách khác là người nhận tìm hiểu nội dung của tác phẩm hay thông báo, thông điệp trên cơ sở sử dụng hệ thống ngôn từ được mã hóa theo quy ước giữa người phát và người nhận; người nhận giải thích tác phẩm, thông báo hay thông điệp theo mã quy ước đó, để đạt tới sự hiểu biết chính xác về tác phẩm hay thông báo, thông điệp và cụ thể tùy tình huống tiếp nhận và tâm thế tiếp nhận (đọc tác phẩm khi vui mừng khác với việc đọc khi tâm trạng buồn, đọc để giải trí khác đọc để nghiên cứu…). Từ cách xác định trên, ta thấy, việc mã hóa chính là việc chuyển các sự kiện được thể hiện bằng ngôn ngữ thông thường, thành các kí 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan