Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Văn học Mô bì (mô che chở)...

Tài liệu Mô bì (mô che chở)

.PDF
7
9522
57

Mô tả:

Tài liệu Mô bì (mô che chở)
Mô bì (mô che chở) Mô bì (mô che chở) Bởi: Nguyễn Thị Hồng Liên Nguồn gốc và chức năng mô bì Mô bì bao gồm những tế bào đã chuyên hóa, bao bọc mặt ngoài hay lót mặt trong của cơ thể thực vật. Mô bì có chức năng che chở bảo vệ cây, đồng thời bảo đảm mối liên hệ với môi trường bên ngoài cơ thể. Trong một số trường hợp mô bì còn có chức năng hấp thụ, như ở rễ. Mô bì sơ cấp có nguồn gốc từ lớp nguyên bì (mô phân sinh biểu bì). Mô bì thứ cấp hình thành từ tầng phát sinh vỏ. Tầng phát sinh vỏ có thể hình thành từ các tế bào mô mềm, cũng có thể do trụ bì, hạ bì hay biểu bì phản phân hóa hình thành. Một đặc điểm cần lưu ý là hệ thống các tế bào mô bì thường thay đổi về nguồn gốc, thành phần và chức năng sinh lý khác nhau. Phân loại mô bì Căn cứ vào nguồn gốc của mô bì có thể phân biệt: Mô bì sơ cấp (biểu bì) Gồm những tế bào bao quanh các phần non của các cơ quan, là những tế bào sống có vách xenlulô dày không đều tùy vị trí và môi trường tiếp xúc, ví dụ màng ngoài biểu bì dày hơn màng trong, tế bào biểu bì có đặc điểm chứa chất sống trong suốt và ánh sáng có thể xuyên qua vào đến các tế bào của mô đồng hóa. Ở một số cây ở nước hay cây ưa bóng tế bào biểu bì có chứa lục lạp để tăng cường khả năng quang hợp. Tế bào biểu bì có khả năng phân chia thẳng góc bề mặt do đó thường chỉ gồm một lớp tế bào. Ở một số cây thuộc chi Ficus biểu bì có thể có nhiều lớp. Các tế bào biểu bì xếp sát nhau không chừa khoảng hở gian bào, các vách bên thường khớp với nhau một cách vững chắc, trên vách ngoài của biểu bì thường được phủ các chất như cutin, sáp, silic... Lớp cuticun hạn chế sự thoát hơi nước, không dẫn nhiệt, điện và bảo vệ chống sự phá hoại của vi khuẩn. 1/7 Mô bì (mô che chở) Ở những thực vật thủy sinh biểu bì không có lớp cuticun, những cây chịu hạn thường có lớp cuticun dày ngăn cản sự thoát hơi nước (thuốc bỏng, xương rồng...). Lớp cuticun do chất nguyên sinh tạo thành từ các chất lipit thấm qua màng tế bào. Biểu bì lá Lẻ bạn a. Ảnh cắt ngang; b. Ảnh nhìn từ bề mặt ;1.Vách ngoài; 2.Vách bên; 3.Vách trong; 4.Lỗ khí Lông che chở 1. Lông đơn bào ở Lá sắn; 2. Lông đa bào một dãy ở thân Bí ngô ; 3. Lông đa bào hình sao ở lá Dương xỉ; 4.Lông đa bào phân nhánh ở Kẻ hoa đào 2/7 Mô bì (mô che chở) Lông tiết ở cây bắt ruồi Lông tiết ở thân cây bí ngô Lông đơn bào do tế bào biểu bì kéo dài ra, ví dụ ở Mía, Ngái. Còn lông đa bào do sự phân chia của tế bào biểu bì để hình thành, ví dụ ở Bí, Mướp. Khi còn non lông là những tế bào sống nhưng khi già đó là những tế bào chết chứa đầy không khí (có màu trắng bạc). Lông có khi đặc trưng cho cả loài, chi, họ... cho nên có ý nghĩa chẩn đoán và phân loại. • Lông che chở: có tác dụng ngăn cản sự thoát hơi nước, màu trắng sáng giúp phản tác một phần nhiệt, ánh sáng mạnh đốt nóng cơ thể. Ngoài ra, lông che chở còn có tác dụng chống hạn bằng cách giữ ẩm ở các khoảng trống chân lông. • Lông tiết (lông tuyến): chứa các dịch kiềm hay axit, có vai trò bảo vệ, một số loại lông ngứa ở một số cây họ Gai - Urticaceae, thành tế bào ngấm silic, trong đó nhiều không bào chứa dịch ngứa, khi chạm vào làm dễ gãy, bảo vệ cơ thể khỏi bị động vật ăn hại. Lông tiết cũng có thể thải ra môi trường ngoài các sản phẩm trao đổi chất của tế bào. Ví dụ: lông rau tần, bạc hà hoặc tiết mật ở hoa. • Lông hút: Ở rễ, đóng vai trò hấp thu nước, muối khoáng cho cây. 3/7 Mô bì (mô che chở) Gai Hình thành từ biểu bì và vỏ, gồm những bộ phận đa bào tẩm lignin hay silic. Lỗ khí Cấu tạo lỗ khí 1 Khe lỗ khí; 2.Tế bào lỗ khí 3.Hạt lục lạp; 4.Khoang khí. Có nguồn gốc từ nguyên bì hình thành từ tế bào mẹ lỗ khí, cấu tạo lỗ khí gồm: • Hai tế bào hình hạt đậu có chứa lục lạp và tinh bột, vách trong vách bụng) dày hơn vách ngoài (vách lưng ). • Vi khẩu (khe lỗ khí) nằm giữa hai tế bào hình hạt đậu có cửa trước và cửa sau . • Dưới vi khẩu có khoang khí là nơi chứa khí. Lỗ khí có 2 nguồn gốc, nguồn gốc bên và nguồn gốc giữa. Lỗ khí có 3 vị trí so với bề mặt biểu bì: nằm ngang, nằm dưới và nằm trên so với bề mặt tế bào biểu bì. Khí khổng có ở phần khí sinh của cây, nhiều nhất là ở lá, tập trung ở biểu bì dưới của lá, chức năng của khí khổng là trao đổi khí và thoát hơi nước. Kích thước và số lượng khí khổng thay đổi ở những môi trường sống khác nhau: Ở môi trường thủy sinh, những thực vật sống ngập chìm trong n ước không có lỗ khí, ở môi trường ẩm ướt lỗ khí nằm trên mặt biểu bì. Ở môi trường khô hạn lỗ khí nằm ở mặt dưới. Cây ưa sáng có số lượng lỗ khí nhiều hơn cây ưa bóng để thoát hơi nước phát tán nhiệt. Cơ chế đóng mở lỗ khí: Khi ở ngoài sáng, các tế bào lỗ khí tiến hành quang hợp nhờ có chứa lục lạp, các sản phẩm quang hợp làm tăng nồng độ của dịch tế bào, quá trình hút nước làm cho tế bào lỗ khí no nước, vách ngoài lỗ khí mỏng nên căng lên, vách trong lỗ khí dày nên lõm lại làm khe lỗ khí mở ra. 4/7 Mô bì (mô che chở) Ngược lại khi ở trong tối, đường chuyển hóa thành tinh bột (là chất không có hoạt tính thẩm thấu) làm giảm áp suất thẩm thấu, quá trình mất nước xảy ra làm giảm sức căng của tế bào lỗ khí và khe lỗ khí đóng lại. Theo Stefan thì sự đóng mở của lỗ khí do 3 loại phản ứng cơ sở quyết định: • Mở quang chủ động: như ngày mở, đêm đóng. • Ðóng thủy chủ động: đóng do mất nước (như khi trời nắng gắt) • Ðóng mở bị động: đóng do ảnh hưởng áp suất căng của các tế bào xung quanh. Dựa vào cách sắp xếp của các tế bào xung quanh lỗ khí, người ta chia làm 5 kiểu sắp xếp lỗ khí như sau: • • • • • Kiểu hỗn bào: Lỗ khí và tế bào quanh lỗ khí sắp xếp lộn xộn . Kiểu dị bào: Lỗ khí có 3 tế bào xung quanh, 2 tế bào lớn và một tế bào nhỏ. Kiểu song bào: 2 tế bào quanh lỗ khí nằm song song với 2 tế bào lỗ khí. Kiểu trực bào: 2 tế bào quanh lỗ khí có vách chung thẳng góc với khe lỗ khí. Kiểu vòng bào: Các tế bào quanh lỗ khí xếp bao quanh 2 tế bào lỗ khí. Ở các cây Một lá mầm thường phân biệt các kiểu lỗ khí bằng số lượng tế bào quanh lỗ khí. Lỗ nước Lỗ nước nằm ở mép lá luôn luôn mở không có khả năng đóng mở, cấu tạo gồm: Tế bào lỗ nước, mô nước và các nhánh mạch xoắn dẫn nước. Mô bì thứ cấp Chu bì Ở thực vật Hai lá mầm sống nhiều năm, khi cây trưởng thành xuất hiện mô bì thứ cấp gọi là chu bì, cấu tạo từ ngoài vào gồm: Các lớp tế bào bần tẩm suberin không thấm nước, khí, có màu nâu sẫm, giữa là tầng phát sinh bần vỏ lục còn gọi là tầng phát sinh vỏ, và trong cùng là lớp tế bào vỏ lục. Ở những cây Hai lá mầm sống lâu năm, thường cuối năm đầu tiên tầng phát sinh vỏ được hình thành do sự phản phân hóa của các tế bào biểu bì, trụ bì hoặc từ các tế bào mô mềm dưới biểu bì. Tầng phát sinh vỏ hoạt động kép tạo thành phía ngoài các lớp tế bào bần phía trong là các tế bào vỏ lục giúp cây tăng trưởng theo chiều ngang. Nhưng có trường hợp tầng phát sinh vỏ hoạt động đơn chỉ tạo ra bần mà không tạo ra vỏ lục. 5/7 Mô bì (mô che chở) Các tế bào bần là những tế bào hình phiến chữ nhật có cùng vách xuyên tâm dần dần mất hết sinh chất, tẩm suberin và trở thành các tế bào chết, vì vậy các tế bào ở phía ngoài các lớp bần sẽ không nhận được các chất hữu cơ nuôi dưỡng do đó chết dần và bóc đi để lộ các lớp tế bào bần. Ở một số cây ví dụ Quecus suber các lớp tế bào bần dày vài cm dùng làm nút chai, vật cách điện v.v... Các tế bào vỏ lục là những tế bào sống, màng xenlulô, trong có chứa lục lạp. Trên vỏ thứ cấp của thân thường xuất hiện các nốt sần sùi đó là lỗ vỏ, thường được hình thành dưới các khí khổng ở biểu bì, không có cơ chế đóng mở, ở chỗ hình thành lỗ vỏ tầng phát sinh vỏ lại tạo ra các khối tế bào bổ sung hình cầu, đẩy rách phần vỏ và lồi ra ngoài tạo thành lỗ vỏ, giữa các tế bào bổ sung có các khoảng gian bào chứa và trao đổi khí, thoát hơi nước. Như vậy ở vỏ thứ cấp các lỗ vỏ giúp thực vật liên hệ trao đổi với môi trường bên ngoài. Thụ bì Tầng phát sinh vỏ ở một số cây có vị trí cố định, hằng năm tạo thành những lớp bần mới thay thế cho lớp bần cũ bị tróc đi. Nhưng ở nhiều cây thân gỗ sống lâu năm, tầng phát sinh vỏ không cố định và mỗi năm mỗi dời vào trong tạo ra chu bì mới, ngăn cản việc vận chuyển chất dinh dưỡng đến nuôi các tế bào ở bên ngoài. Vì vậy, chu bì phía ngoài sẽ bị chết, đó là lớp vỏ chết. Tập hợp tất cả các chu bì tạo thành thụ bì. Có hai loại: • Thụ bì vòng: Tầng phát sinh vỏ nằm thành vòng bao quanh thân, bần và mô mềm nằm xen kẽ nhau (ví du: ở Nho) . • Thụ bì vảy: Tầng phát sinh vỏ xếp thành từng phiến riêng rẻ làm vỏ bị nứt nẻ ( ví dụ ở sồi, thông ). Lỗ vỏ ở thân 6/7 Mô bì (mô che chở) Lỗ vỏ Thụ bì 7/7
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan