UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƢƠNG
NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG
TIẾP BIẾN MÔ TÍP CỔ TÍCH
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 8220120
Phú Thọ, 2018
Phú Thọ - 2018
UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƢƠNG
NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG
TIẾP BIẾN MÔ TÍP CỔ TÍCH
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 8220120
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thúy Hằng
Phú Thọ, 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Lan Hƣơng
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài “Tiếp biến mô típ cổ tích trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp”, tôi đã nhận đƣợc nhiều sự giúp đỡ vô cùng quý báu của các tập
thể và cá nhân.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Thúy Hằng,
Trƣờng Đại học Hùng Vƣơng - ngƣời đã tận tâm hƣớng dẫn tôi trong quá
trình học tập và triển khai luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn tập thể khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn, các
thầy cô giáo trong Tổ bộ môn Lí luận văn học, Trƣờng Đại học Hùng Vƣơng
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu
và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin phép bày tỏ sự biết ơn đến gia đình, ngƣời thân và bạn
bè đã luôn động viên, giúp đỡ để tôi có đƣợc công trình này.
Phú Thọ, ngày 15 tháng 9 năm 2018
Học viên
Nguyễn Thị Lan Hƣơng
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 1
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ....................................................................... 2
3. Mục tiêu, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................. 9
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................. 10
5. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 11
6. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 11
CHƢƠNG 1: VẤN ĐỀ MÔ TÍP TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VÀ DẤU ẤN
CỔ TÍCH TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP .................... 12
1.1. Vấn đề mô típ trong truyện cổ tích .......................................................... 12
1.1.1. Khái niệm truyện cổ tích ....................................................................... 12
1.1.2. Đặc trƣng của truyện cổ tích ................................................................. 14
1.1.3. Mô típ trong truyện cổ tích ................................................................... 15
1.2. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và những dấu ấn cổ tích ...................... 18
1.2.1. Vài nét về Nguyễn Huy Thiệp .............................................................. 18
1.2.2. Dấu ấn cổ tích trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp .......................... 18
Tiểu kết chƣơng 1............................................................................................ 24
CHƢƠNG 2: NHÂN VẬT – TIẾP BIẾN TỪ MÔ TÍP CỔ TÍCH ĐẾN
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP .................................................... 25
2.1. Nhân vật văn học ...................................................................................... 25
2.2. Mô típ nhân vật trong truyện cổ tích ........................................................ 26
2.3. Mô típ nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ........................... 30
2.3.1. Kiểu nhân vật huyền thoại .................................................................... 30
2.3.2. Kiểu nhân vật thế tục............................................................................. 33
2.4. Tiếp biến từ mô típ nhân vật cổ tích đến truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. ... 35
2.4.1. Mô típ nhân vật tài năng........................................................................ 36
iv
2.4.2.Mô típ nhân vật ra đi .............................................................................. 40
2.4.3. Mô típ nhân vật tha hóa......................................................................... 48
Tiểu kết chƣơng 2............................................................................................ 53
CHƢƠNG 3: KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT – BIẾN ĐỔI TỪ MÔ TÍP CỔ
TÍCH ĐẾN TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP ................................ 54
3.1. Mô típ không gian trong truyện cổ tích.................................................... 54
3.2. Mô típ không gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ...................... 57
3.3. Những biến đổi từ mô típ không gian của truyện cổ tích đến truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp. ......................................................................................... 60
3.3.1. Mô típ không gian rừng núi .................................................................. 61
3.3.2. Mô típ không gian dòng sông, biển cả .................................................. 69
3.3.3. Mô típ không gian giấc mơ ................................................................... 77
Tiểu kết chƣơng 3............................................................................................ 83
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 86
1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Trong di sản văn hóa nhân loại nói chung và văn học dân gian nói
riêng bộ phận truyện cổ tích chiếm một vị trí quan trọng và là một bộ phận
nghệ thuật ngôn từ đƣợc nhiều ngƣời yêu thích. Cùng với thời gian, những
câu chuyện xa xƣa ấy vẫn sống, vẫn đƣợc tiếp tục đồng hóa, tái sinh trong quá
trình hình thành và phát triển của văn học. Với văn học viết Việt Nam, truyện
cổ tích có vai trò quan trọng cung cấp các hình tƣợng, biểu tƣợng, cốt truyện,
thi pháp...để các nhà văn tiếp tục tái tạo và sáng tạo ra những hình thức nghệ
thuật mới mẻ chứa đựng những dấu ấn tinh hoa của quá khứ. Văn học Việt
Nam đƣơng đại cũng không nằm ngoài sự ảnh hƣởng ấy, các nhà văn có xu
hƣớng quay về dân gian. Các yếu tố truyện cổ đóng vai trò làm nền, tạo
không khí, tạo sự phản ứng, sự đối sánh cho việc suy luận và phán xét những
vấn đề trong xã hội đƣơng đại. Ta bắt gặp dấu ấn cổ tích trong các sáng tác
của Ngô Tự Lập, Hòa Vang, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ...và rõ ràng
nhất trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp.
1.2. Nguyễn Huy Thiệp ngay sau khi ra mắt những tác phẩm đầu tiên đã
lập tức gây đƣợc sự chú ý với ngƣời đọc, làm văn đàn lần nữa sôi động sau
Nguyễn Minh Châu, và lập tức trở thành hiện tƣợng văn học đặc biệt. Nguyễn
Huy Thiệp trải nghiệm ngòi bút của mình ở khá nhiều thể loại, song thành
công hơn cả ở thể loại truyện ngắn. Mỗi một sáng tác của ông ra đời ngay lập
tức trở thành một đề tài nóng cho nhiều cuộc tranh luận, phê bình văn chƣơng.
Các ý kiến đánh giá dù trái chiều thế nào nhƣng cuối cùng đều thừa nhận
Nguyễn Huy Thiệp là một tài năng mới lạ. Với sự xuất hiện của yếu tố huyền
thoại, truyền thuyết, ca dao, tục ngữ…đặc biệt của truyện cổ tích trong rất
nhiều truyện ngắn, Nguyễn Huy Thiệp đã đƣa độc giả đến với thế giới khác
qua những trang viết. Nhƣng cái mới lạ, độc đáo của nhà văn ở chỗ không
“viết lại” mô thức cổ tích truyền thống mà có sự tiếp thu, biến đổi chúng để
2
phản ánh những vấn đề của cuộc sống hiện đại. Sự vận động về thi pháp thể
loại - từ cổ tích truyền thống đến truyện ngắn hiện đại trong sáng tác của
Nguyễn Huy Thiệp vì vậy là điều đƣợc khẳng định không chút hồ đồ. Cũng
không hề khoa trƣơng khi ta nhấn mạnh: Nguyễn Huy Thiệp có vai trò quan
trọng trong viêc góp phần hình thành diện mạo truyện ngắn Việt Nam đƣơng đại.
1.3. Trong chƣơng trình giáo dục bậc cao đẳng, đại học chuyên ngành
Ngữ văn, hệ thống kiến thức về văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975 là một
chặng đƣờng quan trọng. Nguyễn Huy Thiệp là một tác giả tiêu biểu của
chặng đƣờng văn học ấy đƣợc giới nghiên cứu đặc biệt quan tâm. Những kết
quả nghiên cứu đã có về Nguyễn Huy Thiệp vẫn cần đƣợc tiếp tục mở rộng,
đào sâu để phục vụ tốt hơn cho nhiệm vụ giáo dục nói trên. Nhƣ vậy, việc tìm
hiểu thế giới nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp định hƣớng tiếp nhận
từ phƣơng diện thi pháp, đặc biệt là những tiếp biến mô tip truyện là điều vô
cùng cần thiết. Nghiên cứu Nguyễn Huy Thiệp với những dấu ấn thi pháp
truyện cổ có ý nghĩa thực tiễn cao, giúp ngƣời học, ngƣời nghiên cứu và giảng
dạy có thêm những góc nhìn trong đánh giá về truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp nói riêng và diện mạo truyện ngắn Việt Nam đƣơng đại nói chung.
Từ những lí do trên, ngƣời viết chọn đề tài nghiên cứu Tiếp biến mô típ cổ
tích trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Các công trình nghiên cứu về sự ảnh hưởng của truyện cổ tích đối
với văn học viết tại Việt Nam
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực folklore và văn học đã
sớm có những bài viết, công trình về sự ảnh hƣởng của văn học dân gian tới
văn học viết. Và bắt đầu từ những năm 60 của thế kỷ XX, văn học sử Việt
Nam đã thực sự xem văn học dân gian nhƣ một bộ phận hợp thành của văn
học dân tộc. Nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên trong bài viết Nhà văn và sáng
tác dân gian khẳng định: “Kinh nghiệm nghệ thuật phong phú của nhân loại
3
hằng bao đời nay đã vạch rõ nguyên nhân thành công chủ yếu của các tác
phẩm ƣu tú ở tất cả các nƣớc là sự liên hệ mật thiết của nhà văn với đời sống
nhân dân, với sáng tác tập thể của nhân dân” [93; 367]. Tiếp tục, ông nhấn
mạnh tính chất và quy mô mối liên hệ của nhà văn với sáng tác dân gian biểu
hiện ra một cách khác nhau do phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử xã hội
nhất định. Đồng quan điểm trên, các tác giả Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên
qua công trình Văn học dân gian Việt Nam cũng khẳng định những giá trị lâu
bền của văn học viết trong tƣơng quan với văn học dân gian.
Vào năm 1976, Vũ Ngọc Phan trong cuốn tiểu luận Qua những trang văn
với bài viết: Ảnh hưởng qua lại giữa văn học dân gian truyền miệng và văn
học thành văn Việt Nam và bài Thử xem thơ khác ca dao như thế nào? đã
cùng khuynh hƣớng nhận định về vai trò quan trọng của văn học dân gian
trong việc ảnh hƣởng đến nhiều thể tài văn học, đồng thời tác giả chỉ ra quan
hệ qua lại song song tồn tại của hai bộ phận văn học.
Bên cạnh đó, Kiều Thu Hoạch cũng nhấn mạnh tới giá trị và sức ảnh hƣởng của
văn học dân gian trong nền văn học dân tộc: “Trong suốt mƣời thế kỉ của thời kì Đại
Việt độc lập tự chủ, kho tàng truyện dân gian vẫn luôn là một tác nhân mạnh mẽ,
chẳng những góp phần vào sự hình thành của các thể loại văn học tự sự, mà còn luôn
giữ vai trò cơ sở tƣ tƣởng – thẩm mĩ trong các thể loại đó” [96; 20]. Tiếp theo, có thể kể
tới Võ Quang Trọng với công trình đáng chú ý Vai trò của văn học dân gian Việt Nam
tròn văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ông đã đƣa ra một hệ thống lí luận về mối quan hệ
giữa văn học dân gian và văn học viết của các nhà nghiên cứu châu Âu. Từ đó, tác giả
vận dụng lý thuyết chung để tiếp cận nghiên cứu vai trò của văn học dân gian trong
một số tác phẩm văn xuôi hiện đại Việt Nam nhƣng chỉ dừng lại khảo sát các tác phẩm
đƣợc sáng tác trƣớc 1975.
Cùng định hƣớng chỉ ra những vấn đề mang tính khái quát về sự ảnh hƣởng của
văn học dân gian đến văn học viết, luận án Vai trò của văn học dân gian trong sáng tác
của các nhà văn hiện đại: dấu ấn của cốt truyện cổ dân gian trong một số tác phẩm tự
4
sự Việt Nam sau 75 của Phạm Thị Trâm đã nhận diện, khảo sát những dấu ấn truyện cổ
đối với những sáng tác tự sự sau năm 1975. Tác giả làm nổi bật vai trò và sức sống
tiềm ẩn của truyện cổ dân gian tới văn học hiện đại; đi vào tiếp cận một số hình thức
mô phỏng cốt truyện dân gian từ đó sáng tạo mới của các tác phẩm văn học Việt Nam
sau năm 75.
Không chỉ có các công trình nghiên cứu chuyên sâu về tầm ảnh hƣởng của văn học
dân gian đến văn học viết, các báo và tạp chí cũng xuất hiện nhiều bài viết đáng chú ý
khi đề cập tới vấn đề này. Điển hình nhƣ Lê Linh Khiêm với bài viết Một số vấn đề lý
thuyết chung về mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết đã nhận định:
“Không thể nghiên cứu văn học dân gian mà không tìm hiểu tác động qua lại của nó
với văn học viết, càng không thể hiểu đƣợc đầy đủ, sâu sắc bộ phận văn học viết nếu
không biết đến ảnh hƣởng của văn học dân gian” [93; 327]. Tác giả mạnh dạn hƣớng
đến việc xây dựng tổng quát những tác động qua lại giữa hai bộ phận văn học dựa trên
cơ sở đối sánh về phƣơng diện xã hội, nội dung ý thức hệ và phƣơng diện sáng tạo
nghệ thuật. Ông nhấn mạnh rằng: “Quy luật chung về mối quan hệ giữa văn học dan
gian và văn học viết trong những giai đoạn khác nhau về lịch sử, tùy theo trình độ phát
triển của văn hóa dân tộc, tùy theo chất liệu ngôn ngữ đƣợc sử dụng sẽ có những biểu
hiện đặc thù. Quy luật chung đó trên các thể loại khác nhau, trong các tác phẩm của các
nhà văn thuộc các khuynh hƣớng nghệ thuật khác nhau lại mang những xác định riêng
mà chỉ có sự phân tích cụ thể mới chỉ ra đƣợc” [93; 337]. Những quan điểm Lê Linh
Khiêm đƣa ra chủ yếu mang tính khái quát cao, chƣa đi sâu nghiên cứu trƣờng hợp cụ
thể nào về tầm ảnh hƣởng của văn học dân gian tới văn học viết. Tiếp theo, có thể kể
tới Hoàng Cẩm Giang trong bài Sự xâm nhập và tái sinh của một số mô thức tự sự dân
gian trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay đã hệ thống các hình thức xâm nhập của
truyện cổ dân gian đối với tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam từ 1986 với những kiểu
chính: giải huyền thoại, giải cổ tích, truyện cổ viết lại và truyện lồng trong truyện. Trên
cơ sở đó, tác giả đƣa ra những kiến giải về sự biến đổi trong cấu trúc thể loại cùng
5
những sáng tạo đƣợc tạo nên từ quá trình trên: “mọi ranh giới đều bị xóa nhòa, thực và
ảo, quá khứ và hiện tại đan xen, từ liên văn bản đã trở thành liên thế giới” [19; 54].
Đến Bùi Thanh Truyền trong bài viết Mạch ngầm cổ tích trong dòng chảy văn học
dân tộc đã nhấn mạnh có một mạch ngầm liên tục chảy từ truyện cổ tích dân gian – cổ
tích văn học đến truyện giả cổ tích, truyện cũ viết lại. Ông cũng phát hiện những truyện
viết theo kiểu giả cổ tích hay viết lại truyện cũ không có ý định phục cổ, không phải là
“văn học phỏng theo văn học” mà đó là một sáng tác ngôn từ đúng nghĩa. Văn học
truyền thống đã nuôi dƣỡng, làm bƣớc đệm tạo ra nguồn động lực, năng lƣợng cho sự
phát triển của văn học hiện đại.
Ngoài ra, một loạt những bài viết của các tác giả nhƣ Đặng Văn Lung với Vai trò
của văn học dân gian trong sự phát triển của văn học dân tộc, Hà Công Tài với bài Để
nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết hay bài tham luận Các
hình thức tương tác cơ bản của văn học dân gian và văn học viết của Trần Đức Ngôn
tại hội thảo khoa học Quan hệ văn học dân gian – văn học viết tại khoa Ngữ văn
trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội (2009)… đều đề cập tới vấn đề trên.
Nói chung, khi đề cập đến quan hệ giữa cổ tích dân gian và văn học viết
nói riêng, ý kiến của các tác giả đều gặp nhau ở chỗ xác định ảnh hƣởng của
sáng tác dân gian đối với tác phẩm văn học viết Việt Nam (trên nhiều phƣơng
diện và mức độ khác nhau). Dựa trên những công trình nghiên cứu, những bài
viết về vai trò quan trọng của văn học dân gian với văn học viết, ta có thể
khẳng định: truyện cổ tích - một thể loại của văn học dân gian đã cung cấp
chất liệu nghệ thuật không thể thiếu cho các nhà văn đƣơng đại trong việc
chuyển tải những vấn đề thiết cốt của cuộc sống hiện đại. Bằng chứng là sự
thành công của rất nhiều tác phẩm văn học trên thế giới và trong nƣớc nhờ khả
năng vận dụng linh hoạt thi pháp truyện cổ tích. Các nhà văn hiện đại đã tiếp
cận truyện cổ tích bằng nhiều con đƣờng khác nhau: giả cổ tích, giả huyền
thoại; truyện lồng truyện; truyện cổ viết lại. Phần lớn các nhà văn hiện đại
Việt Nam đi theo hai khuynh hƣớng đầu. Sự xâm nhập và ảnh hƣởng mạnh
6
mẽ của tƣ duy cổ tích trong văn học Việt Nam đƣơng đại đánh dấu sự trở về
của những cổ mẫu trong vốn liếng folklore dồi dào của dân tộc, sự thẩm thấu
những tinh hoa văn hóa truyền thống của dân tộc cũng nhƣ sự kế thừa và tiếp
thu những thành tựu của văn học dân gian thế giới. Sự tƣơng tác giữa những
yếu tố nội sinh và ngoại sinh đã tạo nên gƣơng mặt vừa phong phú vừa độc
đáo của truyện ngắn mang dấu ấn cổ tích Việt Nam thời kỳ sau Đổi mới. Đó
là những gợi hƣớng quan trọng mà chúng tôi đƣợc kế thừa khi nghiên cứu
khảo sát một cách có hệ thống những ảnh hƣởng của truyện cổ tích về phƣơng
diện mô típ đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
2.2. Các công trình nghiên cứu về sự ảnh hưởng của thi pháp truyện
cổ tích đối với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp
Nghiên cứu về dấu ấn thi pháp cổ tích trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp có rất nhiều bài viết rải rác khác nhau trên các báo, tạp chí, các trang
mạng xã hội nhƣng tập trung nhiều nhất trong cuốn sách Đi tìm Nguyễn Huy
Thiệp do Phạm Xuân Nguyên tổng hợp và biên soạn. Tuy chỉ mang tính chất
sƣu tầm, tổng hợp nhƣng cuốn sách đƣợc coi nhƣ chìa khóa gợi mở cho
những ai đã và đang yêu thích văn chƣơng của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.
Hầu hết những ý kiến của các nhà nghiên cứu, phê bình khi phân tích về thi
pháp cổ tích trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đều tập trung vào những
khía cạnh chính nhƣ: cảm hứng huyền thoại, tính chất giả truyền thuyết, giả
cổ tích, giải thiêng lịch sử và những dấu hiệu cách tân về mặt cấu trúc thể
loại. Dƣới đây chúng tôi xin tóm lƣợc một số bài viết bàn về vấn đề thi pháp
cổ tích dân gian trong sáng tác của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp ở những góc
độ khác nhau.
Nhà nghiên cứu ngƣời Nga TN.Philimonova đã khẳng định: “Các nhân
vật và sự kiện dƣờng nhƣ có thật (giống sự thật) trong các truyện ngắn truyền thuyết này đƣợc bọc trong một cái vỏ cổ tích”…“Nhƣng nền tảng của
các truyện ngắn này (Những ngọn gió Hua Tát) sử dụng các mô típ cổ tích
7
điển hình và cũng giống nhƣ trong truyện cổ tích, điều đóng vai trò quyết định
trong số phận của các nhân vật chính là các phép lạ” [49; 70]. Cũng trong
cuốn sách này còn có bài viết Về cái ma lực trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp của tác giả Đông La, Đọc Nguyễn Huy Thiệp của Văn Tâm, Nguyễn
Huy Thiệp: Những chuyện huyền kì, núi, sông và nước… của Nguyễn Vi
Khanh, Tư duy tiểu thuyết và Folklore hiện đại của Hoàng Ngọc Hiến đều
đề cập đến chất triết lí, chất huyền thoại trong tầng bậc truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp.
Tiếp tục khẳng định về nguồn mạch cổ tích chảy trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp, nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào với bài Biển không có
thủy thần cũng nhận định dấu ấn cổ tích hiện lên rõ nét trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp ở phƣơng diện xây dựng những nhân vật ngốc nghếch, mồ
côi,… Những nhân vật ấy rất gần với nhân vật trong truyện cổ và “đó là điểm
gần gụi của truyện Nguyễn Huy Thiệp với cổ tích và một số truyện phổ cập ở
dân gian” [49; 389]. Điều này “nằm trong dòng chảy ngầm của tinh thần
phạm thƣợng bắt nguồn từ dân gian. Những kẻ dị dạng này nhiều khi làm nên
điểm sáng nhân hậu, trí tuệ anh minh của câu chuyện” [49; 391]. Nhƣng đáng
chú ý hơn, tác giả chỉ ra rằng những nhân vật kể trên luôn ẩn chứa một
“nghịch lí phản cổ tích”. Và đó chính là nét sáng tạo mới mẻ trong nhiều sáng
tác của Nguyễn Huy Thiệp.
Đoàn Hƣơng trong cuốn Văn luận lại hình dung Nguyễn Huy Thiệp
giống nhƣ “ngƣời kể chuyện cổ tích hiện đại”. Tác giả khẳng định truyện của
Nguyễn Huy Thiệp hấp dẫn độc giả chính là ở “cái cách kể chuyện đơn giản
bằng chính ngôn ngữ của nhân dân là một thi pháp đã có từ trong truyền
thống nhƣ đã từng có trong truyện cổ tích Việt Nam” [31; 621]. Từ đó, nhà
nghiên cứu chỉ ra mạch ngầm dân gian chảy trong sáng tác của Nguyễn Huy
Thiệp còn biểu hiện rõ qua cách thức mở đầu và kết thúc truyện. Bởi vì truyện
của Nguyễn Huy Thiệp “vốn ƣa cấu trúc một cốt truyện đơn giản nhƣ chẳng
8
có gì” nên có những “cái kết thúc đẹp đẽ mang tính biểu tƣợng của một kết
thúc có hậu của truyện cổ tích” [31; 622].
Đến Vƣơng Thanh Hiền trong luận văn Ảnh hưởng của văn hóa dân gian
đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã cho rằng: “Yếu tố nghệ thuật kì ảo,
những mô típ cổ tích chiếm một vị trí lớn trong cốt truyện truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp” [25; 44]. Tác giả khẳng định những cốt truyện trong sáng
tác của Nguyễn Huy Thiệp mang dấu ấn của mô típ cổ tích rất rõ ràng.
Trên các báo và tạp chí cũng có nhiều bài viết nổi bật khi nghiên cứu về
dấu ấn cổ tích trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Trong bài viết Ảnh
hưởng thần thoại và cổ tích trong cách xây dựng nhân vật văn xuôi hôm nay,
Bùi Thanh Truyền nhận định: “Xây dựng nhân vật thần thoại, cổ tích, hầu hết
các cây bút văn xuôi hôm nay đều lồng vào đó thế giới quan mới mẻ, cái nhìn,
lạ hóa” của ngƣời hiện đại. Vì thế có thể xem đây là những truyện cổ tích,
thần thoại đời mới” [81; 45]. Đi sâu làm rõ một trƣờng hợp cụ thể, tác giả đã
tìm hiểu nhân vật Trƣơng Chi trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Huy
Thiệp. Qua đó, Bùi Thanh Truyền nhận thấy, mặc dù mƣợn mô típ nhân vật
truyện cổ tích nhƣng Nguyễn Huy Thiệp lại xây dựng nhân vật theo góc nhìn
của nhà văn hiện đại. Bởi vậy “nếu bi kịch của Trƣơng Chi “bốn ngàn năm
trƣớc” là bi kịch tình yêu xuất phát từ sự mâu thuẫn giữa tài năng thiên phú và
nhân diện xấu xí thì bi kịch của chàng Trƣơng bốn ngàn năm sau chủ yếu là
xung đột giữa hoàn cảnh xã hội và thân phận con sâu cái kiến của kiếp ngƣời”
[81; 46]. Tiếp tục đến bài viết Song đề truyền thống – hiện đại trong điểm nhìn
nghệ thuật của truyện giả cổ tích và truyện cũ viết lại thời đổi mới, Bùi Thanh
Truyền đã nghiên cứu thi pháp hai kiểu truyện dựa trên cổ tích: truyện giả cổ tích
và truyện cũ viết lại từ góc độ điểm nhìn. Tác giả đã minh chứng bằng truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Từ đó, nhà nghiên cứu một lần nữa khẳng định dấu ấn
đậm nét của truyện cổ dân gian trong tác phẩm của Nguyễ Huy Thiệp.
9
Thêm vào đó, phải nhắc tới bài Đối thoại với văn học dân gian và bản
lĩnh của người viết của Lê Đình Kỵ cũng chỉ ra sự sáng tạo dựa trên nền tảng
kế thừa nguồn mạch truyện cổ tích trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đặc
biệt từ khía cạnh tạo dựng nhân vật. Khi tìm hiểu truyện Trương Chi, tác giả
đánh giá nhân vật chính “không còn là một Trƣơng Chi cam chịu, âm thầm
nhận lấy số phận của mình” [36; 30]. Và “Dù là Trƣơng Chi truyền thống hay
Trƣơng Chi “hiện đại” thì đó cũng đều là lời nhắn gởi, là tiếng kêu khắc khoải
sao cho nghệ thuật, cho tiếng hát và tình yêu không bị cách lìa, mà đƣợc hòa
giải, hòa điệu vào nhau” [36; 31].
Qua khảo sát thực tế lịch sử nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng dựa
trên cảm nhận trực quan trong các nghiên cứu từ thập niên 50 của thế kỉ XX
đến nay đã bƣớc đầu có thành tựu trong việc nhìn nhận sự ảnh hƣởng của văn
học dân gian nói chung và truyện cổ tích nói riêng tới văn học viết. Một số
nghiên cứu cụ thể đã tiếp cận dấu ấn của truyện cổ tích tới truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp nhƣng mới chỉ dừng lại ở những khái quát, nhận định
chung. Các công trình nghiên cứu chƣa đi sâu khai thác dấu ấn cổ tích trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp một cách cụ thể. Vì vậy, trên cơ sở có tiếp thu
những gợi dẫn của các nhà nghiên cứu trƣớc đó, chúng tôi nghiên cứu vấn đề
Tiếp biến mô típ cổ tích trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp với mong
muốn tìm hiểu cách thức kế thừa, biến đổi những môtip của truyện cổ tích để
tạo ra đặc trƣng mới cho thể loại truyện ngắn hiện đại. Từ đó, giúp độc giả có
cái nhìn sâu sắc về phong cách nghệ thuật truyện ngắn độc đáo của Nguyễn
Huy Thiệp.
3. Mục tiêu, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài khảo sát nhận diện, phân tích mô típ truyện cổ tích trong truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp, cách xử lí, tiếp biến các mô típ. Từ đó chỉ ra sự vận
10
động của thể loại (từ truyện cổ tích tới truyện ngắn hiện đại) trong sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Những tiếp biến mô típ truyện cổ tích trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát 44 truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp trong tập
Nguyễn Huy Thiệp truyện ngắn của Nhà xuất bản văn học xuất bản năm 2003
và các tuyển tập truyện ngắn do Nhà xuất bản Trẻ phát hành: Tình yêu, tội ác
và trừng phạt (2013); Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt (2013), Những ngọn
gió Hua Tát (2017).
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thống kê phân loại
Khảo sát, thống kê, phân loại các dạng thức mô típ trong những tác phẩm
mang dấu ấn cổ tích của Nguyễn Huy Thiệp.
4.2. Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại
Phạm vi khảo sát của luận văn là truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Do đó, khi
triển khai đề tài, phƣơng pháp này giúp cho sự phân tích bám sát những đặc trƣng
của loại hình tự sự, đồng thời quan tâm đến đặc điểm riêng của thể loại truyện
ngắn trong việc thể hiện tiếp biến môtip trong truyện.
4.3. Phương pháp tiếp cận hệ thống
Nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ môtip truyện cổ tích cần có
một cái nhìn hệ thống toàn diện về thi pháp cổ tích và thi pháp truyện ngắn
hiện đại. Bởi cái nhìn hệ thống sẽ giúp chúng tôi lí giải sự tiếp biến, hiện đại
thể loại một cách toàn diện.
11
4.4. Phương pháp tiếp cận thi pháp học
Những biểu hiện của thi pháp tác phẩm, tác giả, lịch sử văn học… là căn
cứ để xác thực những biểu hiện cụ thể của sự tiếp nhận, biến đổi trong truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ mô típ truyện cổ dân gian.
4.5. Phương pháp so sánh
Trong luận văn, phƣơng pháp so sánh đƣợc sử dụng để chỉ ra những tƣơng
đồng và dị biệt của mô típ cổ tích và mô típ trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp.
4.6. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Phƣơng pháp nghiên cứu sử dụng kết hợp những ngành văn hóa học, dân
tộc học để giải mã nguồn gốc mô típ trong cổ tích. Từ đó, tạo cơ sở có cái
nhìn toàn diện về sự chuyển hóa, tiếp biến những mô típ ấy trong truyện ngắn
hiện đại của Nguyễn Huy Thiệp.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn đem lại một cái nhìn hệ thống về sự tiếp biến mô típ cổ tích trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Từ đó, mở ra một hƣớng tiếp cận mới về sáng
tác của Nguyễn Huy Thiệp.
Luận văn góp phần xác lập một cách tiếp cận mới mẻ đối với tác phẩm văn
xuôi tự sự hiện đại Việt Nam.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Vấn đề mô típ trong truyện cổ tích và dấu ấn cổ tích trong truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Chƣơng 2: Nhân vật – tiếp biến từ môtip cổ tích đến truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp.
Chƣơng 3: Không gian nghệ thuật – biến đổi từ môtip cổ tích đến truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp.
12
CHƢƠNG 1
VẤN ĐỀ MÔ TÍP TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH
VÀ DẤU ẤN CỔ TÍCH TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN HUY THIỆP
1.1. Vấn đề mô típ trong truyện cổ tích
1.1.1. Khái niệm truyện cổ tích
Tiếp cận khái niệm truyện cổ tích đã trở thành mối quan tâm lớn của các
nhà nghiên cứu folklore. Ngay từ thế kỉ XIX, trƣờng phái Ấn – Âu mà đại
biểu là anh em nhà Grimm đã đƣa ra khái niệm truyện cổ tích: “Truyện cổ
tích là những truyện đƣợc xây dựng nên bằng trí tƣởng tƣợng nghệ thuật, đặc
biệt là những điều tƣởng tƣợng về thế giới thần kì” [33; 5]. Đó là những câu
chuyện ít có sự liên hệ đến đời sống trong thực tế nhƣng lại làm thỏa mãn độc
giả thuộc mọi tầng lớp xã hội dù cho họ tin hay không tin vào những điều
đƣợc nghe kể. Đến thế kỉ XX, nhiều công trình nghiên cứu về truyện cổ tích
của các nhà folklore Nga đã xuất hiện và nhanh chóng nổi tiếng. V.Propp là
nhà nghiên cứu văn học dân gian điển hình với công trình Hình thái học của
truyện cổ tích thần kì. Ông đã khẳng định: “Truyện cổ tích là những truyện kể
truyền miệng, lƣu hành trong nhân dân, có mục đích giải trí ngƣời nghe, nội
dung kể lại những sự kiện khác thƣờng (những sự kiện tƣởng tƣợng có tính
chất thần kì hoặc thế sự) và mang những nét đặc trƣng về hình thức cấu tạo và
phong cách thể hiện” [56; 20].
Ở Việt Nam, theo sự nghiên cứu của Chu Xuân Diên trong chuyên luận
Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học, thuật ngữ “truyện cổ tích” xuất
hiện vào khoảng thế kỉ XIX trong cuốn Ngọc Hoa cổ tích truyện in tại Hà Nội
năm 1987. Từ đầu thế kỉ XX trở đi, thuật ngữ này đƣợc dùng phổ biến. Chu
Xuân Diên cho rằng, ban đầu khái niệm truyện cổ tích đƣợc hiểu theo nghĩa
rộng chỉ các loại truyện dân gian nói chung, do đó không có sự phân biệt với
13
các khái niệm “truyện đời xƣa”, “truyện cổ”, “truyện cổ dân gian”, Nhƣng
trong những năm gần đây, các nhà folklore ngày càng có xu hƣớng cố gắng
phân biệt “truyện cổ tích” với truyện dân gian nói chung và với các loại
truyện dân gian khác nhau nói riêng nhƣ thần thoại, truyền thuyết. Đồng thời
các nhà nghiên cứu coi nguồn gốc ra đời của truyện cổ tích nhƣ một căn cứ để
nhận thức truyện cổ tích. Hoàng Tiến Tựu đã khẳng định: “Truyện cổ tích là
một loại truyện kể dân gian ra đời từ thời kỳ cổ đại, gắn liền với quá trình tan
rã của chế độ công xã nguyên thủy, hình thành của gia đình phụ quyền và
phân hóa giai cấp trong xã hội” [90; 61]. Cổ tích tập trung vào những vấn đề cơ
bản có tính phổ biến trong đời sống nhân dân, nhất là những xung đột mang tính
chất riêng tƣ giữa ngƣời với ngƣời trong phạm vi gia đình và xã hội.
Khái niệm truyện cổ tích còn đƣợc giới nghiên cứu tiếp nhận từ đặc trƣng
về nghệ thuật. Phạm Thu Yến đã đƣa ra quan niệm: “Truyện cổ tích là những
truyện có yếu tố hoang đƣờng kì ảo, nó ra đời sớm nhƣng đặc biệt nở rộ trong
xã hội có sự phân hóa giàu nghèo, xấu tốt” [97; 50]. Từ đó, truyện phản ánh
kinh nghiệm sống, quan điểm đạo đức, lí tƣởng và ƣớc mơ của ngƣời xƣa về
một cuộc sống hạnh phúc, một xã hội công bằng dân chủ. Tác giả Vũ Anh
Tuấn cũng có cách tiếp cận tƣơng tự nhƣ thế: “Truyện cổ tích là sáng tác dân
gian thuộc loại hình tự sự, chủ yếu sử dụng yếu tố nghệ thuật kì ảo để thể hiện
cái nhìn hiện thực của nhân dân với đời sống, bộc lộ quan niệm về đạo đức
cũng nhƣ về công lý xã hội và ƣớc mơ một cuộc sống tốt đẹp hơn của nhân
dân lao động” [86; 101].
Nhƣ vậy, các khái niệm đƣợc các nhà nghiên cứu đƣa ra có sự khác nhau
về cách diễn đạt nhƣng tựu chung lại đều khẳng định, truyện cổ tích là loại
hình tự sự dân gian, đƣợc nảy sinh từ xã hội nguyên thủy nhƣng phát triển
trong xã hội phân chia giai cấp; đƣợc xây dựng thông qua sự hƣ cấu nghệ
thuật thần kì, phản ánh mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời, thể hiện
những ƣớc mơ của nhân dân lao động về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
14
1.1.2. Đặc trưng của truyện cổ tích
Văn học dân gian đều lấy đối tƣợng phản ánh là hiện thực, nhƣng mỗi thể
loại hƣớng vào hiện thực theo cách lựa chọn riêng. Thần thoại và truyện
thuyết chú ý đến mảng hiện thực rộng lớn, những đề tài cao cả. Ngƣợc lại,
truyện cổ tích xuất hiện sau, khi xã hội có phân chia giai cấp nên quan tâm
đến những quan hệ con ngƣời trong sinh hoạt đời thƣờng, những bon chen đố
kị rất cụ thể trong gia đình và xã hội. Tuy nhiên, khác với hiện thực ngoài đời,
các yếu tố thực tế trong cổ tích luôn đan xen với yếu tố kì ảo, tạo ra một “thế
giới cổ tích”. Những yếu tố của thực tế khi đi vào truyện cổ tích đã đƣợc trí
tƣởng tƣợng dân gian nhào nặn lại, hƣ cấu, sắp xếp lại theo một trật tự khác,
nguyên tắc khác với thế giới thực tại. Trong thế giới ấy, con ngƣời vừa bình
thƣờng, vừa lạ lùng, các sự kiện vừa quen thuộc, vừa phi lí không thể lí giải
bằng tƣ duy thông thƣờng. Tất cả những gì phi lí nhất, không thể tồn tại trong
cuộc sống hiện thực đều có thể đƣợc dễ dàng chấp nhận trong thế giới riêng của
cổ tích. Cũng từ đó nó chiếu rọi một thứ ánh sáng đặc biệt vào cuộc đời tăm tối
đầy khổ đau của con ngƣời, mở ra một cánh cửa về một tƣơng lai tƣơi sáng.
Cốt truyện cổ tích đƣợc tạo nên bởi những mô típ quen thuộc. Truyện cổ
tích thƣờng có cốt truyện ngắn gọn, công thức trần thuật đơn giản, gọn nhẹ.
Đặc điểm cấu tạo này xuất phát từ đặc trƣng truyền miệng và tập thể sáng tạo
của văn học dân gian chi phối. Truyện không có nhiều tình tiết, không có
nhiều kiểu kết cấu tạo sự uyển chuyển, hấp dẫn, đa dạng. Cổ tích thƣờng có
kiểu kết cấu cốt truyện một trục thẳng, nhân vật chính hành động liên tiếp, các
nhân vật khác và sự kiện bị chi phối bởi hành động của nhân vật đó. Nhân vật
cổ tích thƣờng sống hồn nhiên, tự nhiên cảm tính đến thụ động, không có tác
động vào hoàn cảnh, không đấu tranh vƣơn lên. Nhân vật đƣợc miêu tả với
tâm tính hồn nhiên, đơn giản, ít thấy ở họ sự đấu tranh nội tâm hay ý thức đổi
thay. Chính vì thế ta không thấy nhân vật có diễn biến tâm lí. Điều đó liên
- Xem thêm -