Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tài chính - Ngân hàng Ngân hàng - Tín dụng Thực trạng nợ công tại việt nam giai đoạn 2007-2012...

Tài liệu Thực trạng nợ công tại việt nam giai đoạn 2007-2012

.PDF
10
103
75

Mô tả:

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Nợ  công là một phần quan trọng và không thể  thiếu trong tài chính của mỗi   quốc gia. Từ  những nước nghèo nhất ở  châu Phi đến những quốc gia đang phát triển   như  Việt Nam, Campuchia hay những cường quốc giàu có với trình độ  phát triển cao   như Mĩ, Nhật, EU thì đều phải đi vay để phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu và sử dụng  của chính phủ nhằm các mục đích khác nhau. Nợ công cần phải được sử dụng hợp lý,  hiệu quả và quản lí tốt, nếu không thì khủng hoảng nợ công có thể xảy ra với bất cứ  quốc gia nào tại bất kì thời điểm nào và để  lại những hậu quả  nghiêm trọng. Trong  bối cảnh nước ta đang tích cực thực hiện kế hoạch tái cấu trúc nền kinh tế quốc dân,   vấn đề  nợ  công cần được đặt ra và giải quyết một cách sáng suốt và thỏa đáng, vì   tương lai phát triển của nền kinh tế và của đất nước. Theo thống kê của Ủy ban Giám   sát tài chính Quốc gia thì tổng nợ  công của Việt Nam năm 2007 là 33,8% GDP đến  cuối năm 2011 thì tỷ  lệ này nâng lên 54.6% GDP. Tốc độ  tăng nhanh như  vậy là một   điều đáng báo động với một nền kinh tế  nhỏ, đang phát triển, phụ  thuộc nhiều vào  xuất khẩu nông sản và sản phẩm ngành công nghiệp nhẹ như nước ta. Từ thực trạng   đó đặt ra nhiều câu hỏi: Tình hình nợ công và quản lí nợ công ở Việt Nam trong 5 năm   trở lại đây như thế nào? Những điểm đạt được và những mặt hạn chế cần khắc phục  ra sao để từ đó đưa ra các giải pháp và đề xuất nhằm quản lí có hiệu quả  nợ  công ở  Lý thuyết tài chính công Trang 2 Việt Nam? Đó cũng là những nội dung chính sẽ được đề cập trong bài thuyết trình của   nhóm 4:“Tình hình nợ công tại Việt Nam từ 2007 đến 2012.” Do   sự   hiểu   biết   còn   hạn  chế   về   nhiều   mặt   cũng  như   chưa   có   nhiều   kinh   nghiệm làm bài nên bài làm của nhóm có thể  có những sai sót. Mong cô nhận xét,   hướng dẫn để  nhóm có thể  rút kinh nghiệm và đạt kết quả  tốt hơn  ở  những bài làm  sau. CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1 Khái niệm Trong quá khứ, khủng hoảng nợ công cũng đã được biết đến vào đầu thập kỷ  80 của Thế kỷ XX. Năm 1982, Mê­hi­cô là quốc gia đầu tiên tuyên bố không trả được   nợ  vay IMF. Đến tháng 10/1983, 27 quốc gia với tổng số  nợ  lên tới 240 tỷ  USD đã  tuyên bố  hoặc chuẩn bị  tuyên bố  hoãn trả  nợ. Tuy nhiên, đến nay xung quanh khái  niệm và nội hàm của nợ công vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất. Theo quan điểm của ngân hàng thế  giới (WB) nợ  công là toàn bộ  những  khoản nợ của chính phủ và những khoản nợ được chính phủ bảo lãnh.Trong đó: ­ Nợ  của chính phủ  là toàn bộ  các khoản nợ  trong nước và nước ngoài của  chính phủ  và các đại lí của chính phủ;các tỉnh thành phố  hoặc các tổ  chức chính trị  trực thuộc chính phủ và các đại lí của các tổ chức này, các doanh nghiệp nhà nước.   ­  Nợ  của Chính phủ  bảo lãnh là những khoản nợ  trong nước và nước ngoài  của khu vực tư nhân do chính phủ bảo lãnh. Theo quan điểm của quĩ tiền tệ quốc tế (IMF)  nợ công bao gồm nợ của khu  vực tài chính công và nợ khu vực phi tài chính công. Trong đó: Lý thuyết tài chính công Trang 3  ­  Khu vực tài chính công gồm: Tổ  chức tiền tệ (nhân hàng trung  ương, các tổ  chức tín dụng nhà nước) và các tổ  chức phi tiền tệ  (các tổ  chức tín dụng không cho   vay mà chỉ có chức năng hỗ trợ phát triển).  ­  Các tổ  chức phi tài chính công như: Chính phủ, tỉnh thành phố, các tổ  chức  chính quyền địa phương, các doanh nghiệp phi tài chính nhà nước. Theo Luật Quản lý nợ  công  ban hành năm 2009 của Việt Nam quy định  nợ  công bao gồm: ­ Nợ  chính phủ: Là các khoản nợ  được kí kết, phát hành nhân danh nhà nước  hoặc chính phủ, các khoản nợ do Bộ Tài Chính kí kết, phát hành hoặc ủy quyền phát  hành; nhưng không bao gồm các khoản nợ  do NHNNVN phát hành nhằm thực hiện  mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. ­ Nợ  được chính phủ  bảo lãnh: Là khoản nợ của DN, tổ  chức kinh tế trong và   ngoài nước, Chính phủ đứng ra bảo lãnh. ­  Nợ  của chính quyền địa phương: Là các khoản nợ  do UBND cấp tỉnh, TP   thuộc trung ương kí kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành   Như  vậy, các khoản vay như  vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính phủ  (trong cũng như ngoài nước), trái phiếu công trình đô thị, hay một tập đoàn kinh tế vay   nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công.  1.2 Phân loại nợ công Theo Luật Quản Lý nợ công 2009 ở Việt Nam quy định phân ra: ­ Nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài,   được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay   khác do Bộ  Tài chính ký kết, phát hành, uỷ  quyền phát hành theo quy định của pháp   luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát  hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. ­ Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính,  tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Lý thuyết tài chính công Trang 4 ­ Nợ  chính quyền địa phương là khoản nợ  do  Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố  trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành. * Ngoài ra, còn phân loại dựa vào thời gian trả nợ như : ­ Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống) ­ Nợ trung hạn (từ 1 năm đến 10 năm) ­ Nợ dài hạn (trên 10 năm) 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công Cân bằng ngân sách cơ  bản: Thâm hụt nhỏ  thì những khoản vay sẽ giảm đi  và ngược lại. ­ Lãi suất thực tế: Khi lãi suất tăng lên: các khoản vay của chính phủ sẽ trở  nên đắt hơn và khó khăn hơn. Nếu không có kế  hoạch vay nợ  rõ ràng thì sẽ  không   đảm bảo vay nợ  đúng thời hạn để  đáp  ứng cho nhu cầu đầu tư  của Chính phủ, làm   ảnh hưởng đến sự bền vững của chính sách tài khóa. ­ Tốc độ tăng trưởng thực tế: Nền kinh tế càng phát triển thì khoản vay của  Chính phủ sẽ trở nên dễ dàng hơn khi nền kinh tế tăng trưởng chậm. Ngoài ra khi kinh  tế tăng trưởng chậm, người dân cũng như  Doanh Nghiệp  thắt chặt chi tiêu hơn, việc  tích lũy ít đi và nguồn vay của Chính Phủ sẽ giảm đáng kể. Còn có thể đi kèm với lạm   phát và thất nghiệp,lúc này những khoản trả  nợ  vay đến hạn còn phải cấp bù lạm  phát. ­ Lãi suất ngoại tệ: Lãi suất ngoại tệ thực tế tăng lên thì khoản vay của CP sẽ  trở nên đắt hơn và ngược lại. ­ Tỷ  giá thực tế: Ảnh hưởng đến những khoản vay và trả  đối với nợ công khi  có những khoản vay nợ nước ngoài. Nếu tỷ giá tăng thì khoản trả nợ vay đến hạn sẽ  tăng và ngược lại. Còn khi vay nợ thì tỷ giá tăng đối với khoản vay nợ sẽ có lợi hơn  khi tỷ giá giảm. Lý thuyết tài chính công Trang 5 1.4 Các hình thức vay nợ: ­ Phát hành trái phiếu chính phủ:  Chính phủ  có thể  phát hành Trái phiếu  chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ  được coi là không có rủi ro tín dụng vì Chính phủ  có thể  tăng thuế  thậm chí in thêm  tiền để  thanh toán cả  gốc lẫn lãi khi đáo hạn. Trái phiếu chính phủ  phát hành bằng   ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn so với   khi phát hành bằng nội tệ vì chính phủ  có thể  không có đủ  ngoại tệ để  thanh toán và   ngoài ra còn có rủi ro về tỉ giá hối đoái. ­ Vay trực tiếp:  Chính phủ  cũng có thể  vay tiền trực tiếp từ  các ngân hàng  thương mại, các thể  chế  siêu quốc gia (Ví dụ: Quỹ  Tiền tệ  Quốc tế  (IMF), Ngân   Hàng Thế Giới (WB),…). Hình thức này thường được Chính phủ của các nước có độ  tin cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát hành trái   phiếu chính phủ của họ không cao. 1.5. Các công cụ vay nợ Vay nợ là biện pháp để  bù đắp thiếu hụt ngân sách  ở  tất cả  các quốc gia trên   thế  giới. Hiện nay, về cơ bản thì các nước đều có 2 hình thức vay là vay trong nước   và vay nước ngoài với các công cụ vay khác nhau. Cụ thể: 1.5.1 Vay nợ trong nước: Chủ yếu là tín phiếu kho bạc * Khái niệm: Tín phiếu là chứng chỉ vay nợ loại trái phiếu chính phủ có kỳ hạn  dưới 1 năm (thường là 3,6,9 tháng), dùng để huy động vốn bù đắp thiếu hụt tạm thời   ngân sách, được phát hành theo hình thức đấu thầu. Người sở  hữu tín phiếu được   hưởng lãi khi tín phiếu đáo hạn hoặc có lãi khi bán tín phiếu cao hơn giá mua. * Đặc điểm của tín phiếu: ­ Do kho bạc nhà nước phát hành ­ Mục đích phát hành:      • Nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời của NSNN. Lý thuyết tài chính công Trang 6   • Là công cụ quan trọng để NHTW điều hành chính sách tiền tệ. ­ Được bán thấp hơn vs mệnh giá. Thanh toán theo mệnh giá đến cuối kỳ  chứ  không trả lãi  định kỳ. ­ Có mệnh giá tối thiểu là 1.000.000 đồng (một triệu đồng ); các mệnh giá cụ  thể  cao hơn do Liên Bộ  Ngân hàng Nhà nước ­ Tài chính quy định và công bố  trong  thông báo phát hành. ­ Mức độ  rủi ro vỡ  nợ: thấp nhất trong tất các công cụ  trên TTTT. Tín phiếu   kho   bạc   thường   được   coi   là   không   có   rủi   ro   tín   dụng   (rủi   ro   phá   sản). ­   Tính   thanh   khoản(tính   lỏng):   là   công   cụ   có   tính   thanh   khoản   cao   nhất. ­ Thời hạn của tín phiếu kho bạc: thường là 3 tháng, 6 tháng,9 tháng với một   hay   nhiều   mức   mệnh   giá ­  Hình thức phát hành: ghi sổ và chứng chỉ tín phiếu   • Đối với hình thức ghi sổ: Do Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn và quản lý sổ  sách.      • Đối với hình thức chứng chỉ tín phiếu: Ngân hàng Nhà nước in theo mẫu do   Bộ Tài chính quy định . 1.5.2 Vay nợ nước ngoài: Nợ nước ngoài: gồm các khoản vay từ nhà đầu tư nước ngoài. Trong thực tế khi tiến hành thống kê và tính toán giá trị nợ công ở một số nước, trong  đó có Việt Nam, người ta thường chỉ quan tâm đến khoản nợ nước ngoài mà mặc  nhiên các khoản nợ trong nước 1.6. Quản lý nợ công Trong thời gian gần đây, công tác quản lý nợ của Việt Nam đã đạt được những  tiến bộ đáng kể, góp phần ổn định và phát triển kinh tế đất nước, cụ thể là: ­ Thông qua hoạt động vay nợ, Chính phủ  và chính quyền địa phương các cấp  đã huy động được nguồn vốn khá lớn cho đầu tư  phát triển, đồng thời vẫn đảm bảo   quản lý nợ trong các giới hạn an toàn. Lý thuyết tài chính công Trang 7 ­ Hoạt động huy động vốn trong nước của Chính phủ  thông qua phát hành tín  phiếu, trái phiếu Chính phủ  cũng đã giúp hình thành thị  trường trái phiếu Chính phủ  trong nước, một thành tố khá quan trọng để hình thành thị trường tài chính hoàn chỉnh.  Trái phiếu Chính phủ  được niêm yết và giao dịch trên thị  trường chứng khoán đã góp   phần làm tăng tính thanh khoản của thị trường trái phiếu Chính phủ  nói riêng và phát   triển thị trường vốn trong nước nói chung.  ­ Trong công tác quản lý nợ, các văn bản pháp lý ngày càng được hoàn thiện,   đồng bộ  hơn và tiến gần đến các chuẩn mực và thông lệ  quốc tế, nhất là trong lĩnh  vực quản lý nợ nước ngoài. Chính phủ đã thực hiện nguyên tắc thống nhất quản lý nợ  Chính phủ, nợ  quốc gia trên cơ  sở  phân công, xác định trách nhiệm rõ ràng hơn giữa   các cơ quan quản lý.  ­ Công tác trả nợ Chính phủ trong và ngoài nước luôn được thực hiện đầy đủ,  đúng hạn, không để  xảy ra nợ  quá hạn như  những năm về  trước. Việc tích cực đàm  phán xử lý các khoản nợ cũ với các chủ nợ nước ngoài (thuộc Câu lạc bộ  Pa­ ri, Câu  lạc bộ Luân Đôn) đã giúp giảm đáng kể nghĩa vụ nợ của Việt Nam. Bên cạnh những thành công đạt được, công tác quản lý nợ  công  ở  Việt Nam  trước khi có Luật Quản lý nợ  công còn bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là chưa có sự  nhất quán các khái niệm về nợ cũng như  phạm vi quản lý nợ  trong các văn bản pháp   quy hiện hành như nợ Chính phủ, nợ khu vực công, nợ quốc gia. Việc phân loại, tổng   hợp nợ vì vậy cũng chưa theo các chuẩn mực quốc tế, việc quản lý nợ còn chồng chéo  giữa các cơ quan quản lý nhà nước, chưa có kế hoạch cụ thể để xây dựng và sử dụng  cơ sở dữ liệu về nợ công. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG TẠI VIỆT NAM TỪ 2007 ­ 2012 2.1  Thực trạng nợ công tại Việt Nam: Nợ công của Việt Nam đã và đang được dư luận xã hội hết sức quan tâm bởi nó  không chỉ liên quan đến lòng tin của người dân đối với việc sử dụng hiệu quả nguồn   Lý thuyết tài chính công Trang 8 vốn đầu tư, mà còn có tác động đến cuộc chiến chống tham nhũng, lãng phí, đồng thời   ảnh hưởng tới cuộc sống của thế hệ tương lai. Diễn biến nợ công trong giai đoạn 2007­ 2011 (tính theo % GDP) ­ Nguồn Bộ   tài   chính. Theo nhiều chuyên gia, sự  nhìn nhận nghiêm khắc của giới phân tích tài chính trong  vấn đề  nợ  công Việt Nam là xuất phát từ  thực tế. Theo  Ủy ban Giám sát tài chính   Quốc gia, năm 2007, nợ công là 33,8% GDP nhưng từ 2008, tỷ lệ này nâng lên 36,2%;   2009:   41,9%;   2010:   56,7%.   Năm   2011,   tỷ   lệ   này   giảm   xuống   còn   54.6%. Như  vậy, từ năm 2007 đến hết 2011, nợ công đã tăng khoảng 25%, đạt mức trung bình  5%/năm. Với đà tăng này, chỉ cần 8 năm nữa, nợ công Việt Nam sẽ lên tới 100% GDP. Nhìn vào các số  liệu về  nợ  công, chi tiêu công và lạm phát từ  năm 2001 đến  2011, có thể vẽ ra bức tranh sơ lược về tình hình nợ  công liên quan đến chi tiêu công  của Việt Nam. Từ  năm 2001 đến 2007, tăng trưởng diễn ra thuận chiều với chi tiêu   công. Trong giai đoạn này, chi tiêu công có tác động tích cực đến tăng trưởng. Tuy   nhiên từ  năm 2007 đến 2011, mối quan hệ  này đã đảo chiều và chuyển sang  ảnh   hưởng tiêu cực. Một điều cần lưu ý, từ  năm 2007, trong khi tăng trưởng giảm sút thì chi tiêu   công của Việt Nam vẫn tăng lên và hầu như  ngay lập tức lạm phát cũng tăng nhanh  đáng kể. Nợ công chỉ  suy giảm chút ít vào năm 2008 rồi lại tiếp tục tăng vọt từ  năm  2009. Trong bối cảnh này, cách giải thích lôgíc là nguồn chi tiêu công được tài trợ chủ  yếu bằng phát hành tiền và lạm phát phản ứng của xã hội về  kỳ  vọng mất giá đồng   nội tệ. Mối quan hệ  đó có thể  được làm rõ qua số  lượng phát hành tiền trong giai   đoạn này. 2.1.1 Về quy mô nợ công  Quy mô nợ tăng nhanh Lý thuyết tài chính công Trang 9 Ông Nguyễn Minh Phong nhận định, có 4 thách thức nợ công của Việt Nam. Thách thức thứ  nhất là quy mô nợ  tăng nhanh vượt dự  báo. Ông Phong dẫn ra   rằng, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ cho biết, tính đến 31/12/2012, tỷ lệ nợ  Chính phủ là 45,7% GDP, nợ nước ngoài là 42,2%; nợ công là 57,3%. Trong kế hoạch  trình Quốc hội, đến 31/12/2011, nợ công là 54,6%, đến 31/12/2012 là 58,4% GDP. Ngày   8/11/2011, Quốc hội đă thông qua nâng trần nợ  công Việt Nam đến 2015 không quá   65% GDP, dư  nợ  của Chính phủ  không quá 50% GDP và dư  nợ  quốc gia không quá  50% GDP. Thách thức thứ hai, điều kiện nợ ngày càng ngặt nghèo hơn: trong tổng nợ công   của Việt Nam, cuối năm 2009 vay ODA chiếm tỷ  trọng 74,67%, vay  ưu  đãi chiếm   5,41%,   vay   thương   mại   19,92%....   Sang   năm   2010,   vay   nợ   với   lãi   suất   thấp   1­ 2,99%/năm chiếm khoảng 65,5% tổng dư nợ. Đặc biệt, các khoản vay có lãi suất cao từ 6­10%/năm trong năm 2010 đã lên tới  1,89 tỷ  USD, gấp hơn 2 lần năm 2009. Hiện các chủ  nợ  chính của Việt Nam vẫn là  Nhật Bản, Pháp, ADB, WB… Theo công bố của Tạp chí Kinh tế The Economist, tỷ lệ nợ công năm 2011 của  Việt Nam là 50,9% GDP, dự kiến đến năm 2012 tỷ lệ này là 49,9%. Mặc dù tỷ  lệ nợ  này vẫn nằm trong tầm kiểm soát (dưới 60%GDP theo cách tính chỉ tiêu tỷ lệ nợ công  trên GDP của Liên hiệp quốc) nhưng nó quá cao so với mức phổ  biến được khuyến   cáo  ở  các nền kinh tế  đang phát triển (từ  30­40%) và so với một số  nền kinh tế  mới   nổi như Trung Quốc (17,4%), Indonesia (25,6%).  Ngoài ra, cũng theo The Economist, mức nợ công tính trên đầu người của Việt   Nam năm 2011 là 638,55 USD, dự  kiến 2012 tăng lên 698,71 USD. Nếu so sánh với  817,22 USD (Trung Quốc), 808,52 USD (Indonesia), 4.626,4 USD (Malaysia), 1.195,29   USD (Philippines), 2.261,78 USD (Thái Lan) thì đây là con số không cao.  Lý thuyết tài chính công Trang 10
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan