Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực trạng một số chứng bệnh thường gặp và yếu tố liên quan ở công nhân công ty ...

Tài liệu Thực trạng một số chứng bệnh thường gặp và yếu tố liên quan ở công nhân công ty may thái nguyên

.PDF
72
356
148

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC HOÀNG THỊ THUÝ HÀ THỰC TRẠNG MỘT SỐ CHỨNG, BỆNH THƢỜNG GẶP VÀ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở CÔNG NHÂN CÔNG TY MAY THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC THÁI NGUYÊN - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC HOÀNG THỊ THUÝ HÀ THỰC TRẠNG MỘT SỐ CHỨNG, BỆNH THƢỜNG GẶP VÀ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở CÔNG NHÂN CÔNG TY MAY THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC Chuyên ngành: Y học dự phòng Mã số : 60 72 73 Hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đỗ Hàm Thái Nguyên - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn Lời cảm ơn Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa đào tạo sau đại học, Phòng các Bộ môn, các thầy giáo, cô giáo của trường Đại học Y dược Thái Nguyên. Với lòng biết ơn sâu sắc và sự kính trọng của tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS Đỗ Hàm - Chủ tịch Hội Y học lao động tỉnh Thái Nguyên, Chủ nhiệm Bộ môn Sức khoẻ nghề nghiệp - Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên. Người Thầy đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn. Tôi xin trân trọng cảm ơn cán bộ, công nhân Công ty may Thái Nguyên, đặc biệt là Ban Giám đốc và trạm Y tế Công ty, Trung tâm Y tế Thành phố Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình nghiên cứu. Tôi xin trân trọng cảm ơn Sở Khoa học và Công nghệ Thái Nguyên, đặc biệt là Lãnh đạo Sở, Lãnh đạo Phòng, Lãnh đạo đơn vị trực thuộc Sở đã tạo điều kiện, thời gian cho tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn anh em, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Xin trân trọng cảm ơn! Thái Nguyên, tháng 9 năm 2009 Tác giả Hoàng Thị Thuý Hà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn CÁC CHỮ VIẾT TẮT ATVSLĐ An toàn vệ sinh lao động CSSK Chăm sóc sức khoẻ CBCNV Cán bộ công nhân viên Cs Cộng sự RHM Răng hàm mặt TCCP Tiêu chuẩn cho phép TCVSCP Tiêu chuẩn vệ sinh cho phép TMH Tai mũi họng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn MỤC LỤC Nội dung Trang ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................. 1 Chƣơng 1. TỔNG QUAN ............................................................................. 3 1.1. Tình hình phát triển ngành may ở nước ta ................................................ 3 1.2. Các yếu tố nguy cơ đối với sức khỏe và bệnh tật của người lao động ........ 4 1.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về sức khỏe và bệnh tật ở công nhân dệt may .................................................................................................... 13 Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................. 18 2.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................ 18 2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu .......................................................... 18 2.3. Phương pháp nghiên cứu và chọn mẫu ...................................................... 18 2.4. Chỉ tiêu nghiên cứu ................................................................................... 19 2.5. Kỹ thuật thu thập số liệu .......................................................................... 21 2.6. Vật liệu nghiên cứu ................................................................................. 21 2.7. Phương pháp khống chế sai số ................................................................. 21 2.8. Phương pháp xử lý số liệu ......................................................................... 21 2.9. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu............................................................... 21 Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .......................................................... 22 3.1. Các thông tin chung về đối tượng nghiên cứu ........................................ 22 3.2. Các kết quả nghiên cứu về chứng, bệnh của người công nhân may ............ 24 3.3.Các yếu tố liên quan (ảnh hưởng) đến một số chứng, bệnh của người công nhân ..... 35 Chƣơng 4. BÀN LUẬN ................................................................................ 39 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 53 KHUYẾN NGHỊ ............................................................................................. 54 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn DANH MỤC CÁC BẢNG TT Tên bảng Trang Bảng 3.1 Đối tượng nghiên cứu phân theo nghề nghiệp 22 Bảng 3.2 Đối tượng nghiên cứu phân bố theo độ tuổi (giới) 22 Bảng 3.3 Đối tượng nghiên cứu phân bố theo tuổi nghề 23 Bảng 3.4 Cơ cấu bệnh, chứng bệnh chung của công nhân may 24 Bảng 3.5 Tỷ lệ mắc các bệnh mũi họng mạn tính theo tuổi đời 25 Bảng 3.6 Tỷ lệ mắc các bệnh mũi họng mạn tính theo tuổi nghề 26 Bảng 3.7 Tỷ lệ mắc các bệnh ở phổi theo tuổi đời 27 Bảng 3.8 Tỷ lệ mắc các bệnh ở phổi theo tuổi nghề 27 Bảng 3.9 Tỷ lệ mắc các bệnh ở phổi ở nữ 28 Bảng 3.10 Tỷ lệ mắc bệnh tiêu hoá theo tuổi nghề 28 Bảng 3.11 Tỷ lệ mắc bệnh tuần hoàn theo tuổi nghề 29 Bảng 3.12 Tỷ lệ mắc bệnh mắt theo tuổi đời 30 Bảng 3.13 Tỷ lệ mắc bệnh mắt theo tuổi nghề 30 Bảng 3.14 Tỷ lệ mắc các bệnh ngoài da theo tuổi giới 31 Bảng 3.15 Tỷ lệ mắc bệnh ngoài da theo tuổi nghề 31 Bảng 3.16 Tỷ lệ mắc các bệnh Viêm phế quản mạn tính theo tuổi nghề 32 Bảng 3.17 Tỷ lệ mắc bệnh Viêm phế quản mạn tính theo giới 32 Bảng 3.18 Tỷ lệ khó thở của bệnh nhân Viêm phế quản mạn tính 33 theo mùa và hoạt động của bệnh nhân Bảng 3.19 Tỷ lệ bệnh nhân có các triệu chứng ho, khạc đờm 34 Bảng 3.20 Bảng liên quan giữa sử dụng khẩu trang và bệnh ở phổi 35 ở công nhân may dây chuyền Bảng 3.21 Bảng liên quan giữa việc học nội quy an toàn vệ sinh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35 http://www.Lrc-tnu.edu.vn lao động và bệnh phổi (bộ phận may dây chuyền) Bảng 3.22 Bảng liên quan giữa sử dụng khẩu trang và bệnh mũi 36 họng (bộ phận may dây chuyền) Bảng 3.23 Bảng liên quan giữa việc học nội quy an toàn vệ sinh 36 lao động và bệnh mũi họng (bộ phận may dây chuyền) Bảng 3.24 Bảng liên quan giữa việc học nội quy an toàn vệ sinh 37 lao động và bệnh da (bộ phận may dây chuyền) Bảng 3.25 Bảng liên quan giữa sử dụng kính BHLD và bệnh mắt 37 (Bộ phận may dây chuyền) Bảng 3.26 Bảng liên quan giữa việc học nội quy an toàn vệ sinh 38 lao động và bệnh mắt (bộ phận may dây chuyền) Bảng 3.27 Bảng liên quan giữa thời gian lao động và bệnh mắt (bộ 38 phận may dây chuyền) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ TT Tên bảng Trang Biểu đồ 1 Tỷ lệ công nhân phân theo độ tuổi 23 Biểu đồ 2 Tỷ lệ mắc bệnh mũi họng mạn tính và viêm phế quản 25 Biểu đồ 3 Tỷ lệ mắc bệnh mũi họng mạn tính ở công nhân may dây 26 chuyền theo nhóm tuổi < 30 và ≥ 40 tuổi Biểu đồ 4 Tỷ lệ mắc các bệnh tiêu hóa theo tuổi nghề 28 Biểu đồ 5 Tỷ lệ công nhân mắc bệnh tuần hoàn theo tuổi nghề 29 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn ĐẶT VẤN ĐỀ Bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, ngành may chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân bởi vừa góp phần tăng thu ngân sách vừa giải quyết công ăn việc làm cho khoảng 2 triệu lao động (80% là nữ) cho đất nước. May là một trong những ngành mũi nhọn về chiến lược hàng hoá trong nước cũng như xuất khẩu của Việt Nam. Đặc thù của ngành may là sử dụng dây chuyền công nghệ giản đơn, mức độ lao động tuy không quá nặng nhọc nhưng gò bó, đòi hỏi nhịp độ công việc nhanh… Tỷ lệ lao động nữ rất cao, chiếm khoảng 8090% và phần lớn là ở độ tuổi 20-35 tuổi. Thời gian làm việc trung bình là trên 8giờ/ ngày. Nhiều khi công nhân phải làm việc tăng ca, có khi tới 10-12 giờ/ngày. Lực lượng lao động của ngành may chủ yếu xuất thân từ nông thôn… nên ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi lối sống, tập quán của nông dân, ý thức tổ chức kỷ luật và nhận thức xã hội chưa cao. Dẫn từ [10], [32]. Trong 10 năm trở lại đây điều kiện lao động và môi trường dệt may cũng như sức khoẻ người lao động đã được nhiều tác giả nghiên cứu. Các bệnh thường gặp, bệnh liên quan đến nghề nghiệp thường diễn biến theo xu hướng không tốt. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định, từ nay đến năm 2020 phải phấn đấu để xây dựng nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Vì vậy, việc quan tâm chăm sóc sức khỏe người lao động công nghiệp là hết sức cần thiết. Xuất phát từ thực tiễn, Nghị quyết 46NQ/TW ngày 23/2/2005 của Bộ Chính trị. Dẫn từ [16], đã chỉ rõ “Kịp thời dự báo và có biện pháp ngăn ngừa để hạn chế tối đa những tác động tiêu cực đối với sức khoẻ do thay đổi lối sống, môi trường và điều kiện lao động trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao năng lực giám sát, phát hiện khống chế dịch bệnh và các bệnh mới phát sinh, đẩy mạnh phòng chống các bệnh nghề nghiệp”. Để làm tốt nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ người lao động, việc xây dựng chính sách quốc gia quản lý, giám sát môi trường lao động, phòng chống bệnh nghề nghiệp cho người lao động, trong đó có lao động ngành dệt may là nhiệm vụ có tính cấp thiết. Các nghiên cứu về môi trường, sức khoẻ trong công nghệ dệt may Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn hiện nay ở nước ta còn rất ít đặc biệt là tỷ lệ mắc các chứng bệnh và bệnh nghề nghiệp, bệnh liên quan đến nghề nghiệp. Tại Thái Nguyên chưa có nghiên cứu nào về sức khoẻ, bệnh tật của công nhân dệt may. Việc quan tâm xem các bệnh thường gặp ở các hệ thống cơ quan trong cơ thể công nhân dệt may Thái Nguyên có khác gì với các đối tượng lao động khác cũng đang là vấn đề còn bỏ ngỏ. Để giải đáp vấn đề này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Thực trạng một số chứng, bệnh thƣờng gặp và yếu tố liên quan ở công nhân Công ty may Thái Nguyên”. Nhằm đáp ứng hai mục tiêu cụ thể sau đây: 1. Mô tả thực trạng một số chứng, bệnh thường gặp ở công nhân may thuộc Công ty may Thái Nguyên. 2. Xác định một số yếu tố liên quan đến bệnh tật ở công nhân Công ty may Thái Nguyên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn Chƣơng 1 TỔNG QUAN 1.1. Tình hình phát triển ngành may ở nƣớc ta Ngành may được coi là một trong những ngành trọng điểm của nền công nghiệp nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngành dệt may Việt Nam hiện nay đang được xem là ngành sản xuất mũi nhọn và có tiềm lực phát triển khá mạnh. Hàng dệt may của chúng ta đã chiếm lĩnh nhiều thị trường may mặc trên thế giới do nhiều ưu thế về nhân lực, có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế khác nhau và kỹ thuật phù hợp. Với những lợi thế riêng, phù hợp với điều kiện thực tiễn nước ta như vốn đầu tư không cần lớn, thời gian thu hồi vốn nhanh, thu hút nhiều lao động và cã điều kiện mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Tuy vậy, trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, ngành dệt may đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, phải cạnh tranh ngang bằng với các cường quốc xuất khẩu lớn như Trung Quốc, Inđônêxia, Pakixtan.... Đặc biệt, từ 01/01/2006, thuế xuất, nhập khẩu hàng dệt may từ các nước Asean vào Việt Nam sẽ giảm từ 40-50% như hiện nay xuống tối đa còn 5% nên hàng dệt may Việt Nam phải cạnh tranh quyết liệt với hàng ngoại nhập từ các nước trong khu vực. Việt Nam hiện có hơn 1000 nhà máy, xí nghiệp dệt may, thu hút trên 50 vạn lao động, chiếm đến 22% tổng số lao động trong toàn ngành công nghiệp. Sản lượng sản xuất hàng năm tăng trên 10% nhưng quy mô cũng như thiết bị và công nghệ kéo sợi và dệt vải lạc hậu, không cung cấp đầy đủ vải cho may xuất khẩu. Những năm qua, tuy đã nhập bổ sung, thay thế 1.500 máy dệt khung thoi hiện đại để nâng cấp mặt hàng dệt trên tổng số máy hiện có là 10.500 máy, nhưng cũng chỉ đáp ứng được khoảng 15% công suất dệt. Ngành may tuy liên tục đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị và dây chuyền đồng bộ nhưng cũng chưa đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu ngày càng cao. Xuất khẩu hàng dệt may tuy đạt kim ngạch cao, nhưng chủ yếu là làm gia công. Ngành dệt vẫn nhập khẩu nhiều, nguyên liệu cho sản xuất của ngành dệt hầu như hoàn toàn nhập khẩu từ nước ngoài... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn Từ những năm 2000, ngành dệt may Việt Nam tuy đã có thuận lợi để tạo đà cho tiến trình hội nhập sắp tới như Quota thị trường Eu được tăng 30%, bước đầu mở được thị trường Mỹ và thị trường vùng Trung Cận Đông, Châu Phi, kinh tế Nhật Bản đang hồi phục khiến cho thị trường này tiêu thụ hàng dệt may Việt Nam tăng hơn trước. Xuất khẩu hàng dệt may nước ta cũng gặp không ít khó khăn do giá sản phẩm giảm liên tục, giá cả ở thị trường Nhật từ năm 1998 giảm bình quân 12% mỗi năm do áp lực cạnh tranh của hàng Trung Quốc. Bên cạnh đó, giá nguyên liệu lại tăng; đặc biệt thị trường phi Quota, trong đó có thị trường Đông Âu..... Do vậy, theo đánh giá của Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt May Việt Nam: chỉ tiêu xuất khẩu của toàn ngành hết năm 2000 ước chỉ đạt 1.870 triệu USD, tăng 6% so với mức thực hiện năm 1999, trong đó Tổng Công ty Dệt May Việt Nam (Vinatex) ước đạt 550 triệu USD, tăng 12% so với năm 1999. Với những khó khăn này, công tác chăm sóc sức khỏe công nhân, những người lao động trực tiếp trong ngành dệt may của đất nước sẽ bị ảnh hưởng, tác động không tốt. Từ năm 2000 đến nay với sự thăng trầm của ngành dệt may nên công tác chăm lo sức khoẻ công nhân cũng phần nào bị chậm lại so với các ngành khác. 1.2. Các yếu tố nguy cơ đối với sức khỏe và bệnh tật của ngƣời lao động 1.2.1. Tác hại nghề nghiệp trong lao động công nghiệp Vào đầu thế kỷ XX, khi nền công nghiệp phát triển mạnh, các vấn đề sức khỏe của người lao động đã được quan tâm nhiều hơn. Trong các mối quan tâm đặc biệt thì các tác hại nghề nghiệp và bệnh nghề nghiệp đã được nhiều người nghiên cứu. Dẫn từ [11], [12]. Tuy nhiên với sự phát triển, thay đổi nhiều loại hình công nghệ thì vấn đề sức khỏe trong lao động cũng nảy sinh thêm nhiều vấn đề. Thời kỳ này các môn khoa học tự nhiên và xã hội của loài người cũng đạt đến đỉnh cao, nên người ta không những hiểu biết về bản chất các tác hại nghề nghiệp cụ thể, có thể nắm bắt, dễ quan sát được trong lao động mà thực tế con người cũng hiểu biết tương đối xa và nhiều hơn về các rối loạn bệnh lý cũng như các bệnh nghề nghiệp xảy ra do lao động kỹ thuật cao. Song mặc dù về mặt khoa học, con người đã biết rất nhiều nhưng vẫn chưa làm được bao nhiêu trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn sức khỏe người lao động mới. Bởi lẽ hàng trăm nghìn các hoá chất và dung môi độc hại được đưa vào sản xuất và phục vụ đời sống cũng như hàng trăm các yếu tố tác hại vật lý, sinh học tồn tại trong các môi trường sống và lao động, hàng ngày tác động đơn lẻ hoặc đa chiều lên sức khoẻ con người, có khả năng gây nên những rối loạn bệnh lý hoặc làm mất cân bằng các phản ứng sinh lý, sinh hoá của cơ thể trong thời kỳ mới tiếp xúc là những trở ngại đáng kể. Các tác giả Rammazzini, Letavet, Izmerop, Aptamonova, Satalop, Zekin, Paracelus, Policard… là những người có nhiều nghiên cứu đóng góp về những vấn đề này từ giữa thế kỷ XX. Trên thực tế cũng còn nhiều điều về mặt khoa học và thực tiễn của y học lao động, người ta vẫn chưa giải thích được và cần phải tiếp tục nghiên cứu. Trong thực tế do những bí mật về nghề nghiệp, kinh doanh hoặc người ta chưa đủ khả năng nghiên cứu nên còn nhiều tác hại nghề nghiệp, bệnh nghề nghiệp chưa được nghiên cứu và giải quyết một cách thỏa đáng. Dẫn từ [3], [36]. Trong những năm gần đây, ở nước ta những nghiên cứu về môi trường lao động, những biến đổi sinh lý, sinh hoá lao động, lâm sàng bệnh nghề nghiệp cũng được phát triển, song chưa đồng bộ nên các biện pháp dự phòng, bảo vệ công nhân, nâng cao năng suất lao động và phòng chống các bệnh nghề nghiệp chưa có hiệu lực cao. Do đất nước đang chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang phương thức thị trường hoá trên cơ sở các phương tiện và điều kiện sản xuất lạc hậu, không đồng bộ, đồng thời với nhịp độ sản xuất không ngừng tăng nhanh, do vậy các tác hại nghề nghiệp vẫn không ngừng tăng lên. Hậu quả của nó là các bệnh lý thông thường bị thay đổi cơ cấu, mô hình, các rối loạn bệnh lý có liên quan đến môi trường, công việc, điều kiện lao động, các bệnh nghề nghiệp ngày càng gia tăng. Đây là vấn đề hết sức nan giải trong điều kiện kinh tế, xã hội của nhiều nước trong đó có nước ta hiện nay. Điều này đòi hỏi nhiều cấp, nhiều ngành phải phối hợp, cùng nhau giải quyết theo phương châm vì mục tiêu sức khoẻ cho người lao động mới của đất nước. Nhìn chung các nghiên cứu hiện nay đang tập trung vào các mối quan hệ đa chiều trong lao động có thể gây ra trạng thái mất cân bằng, gây suy giảm sức khoẻ và khả năng lao động cùng với sự thay đổi của các tác hại nghề nghiệp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn Sơ đồ sau đây thể hiện mối quan hệ đa chiều thường gặp mà các nhà nghiên cứu Y học lao động cần thật sự lưu tâm. Dẫn từ [1], [4], [6], [9], [13], [14], [25], [30], [32]. Các yếu tố nguy cơ môi trƣờng (Tự nhiên hoặc xã hội) Sức khoẻ ngƣời lao động Các tác hại nghề nghiệp Trên thực tế ta có thể nói vấn đề cơ bản, trên hết trong những quan tâm này là nghiên cứu các tác hại nghề nghiệp cũng như các yếu tố liên quan và các biểu hiện sinh lý, rối loạn bệnh lý nghề nghiệp và các bệnh nghề nghiệp trong những bối cảnh kinh tế, xã hội đặc thù. Tác hại nghề nghiệp là những yếu tố trong quá trình sản xuất và điều kiện lao động có ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ và khả năng lao động, gây nên những rối loạn bệnh lý hoặc các bệnh nghề nghiệp đối với những người tiếp xúc. Tác hại nghề nghiệp trong lao động công nghiệp tương đối phức tạp và đa dạng song ta có thể phân ra các loại như sau: 1.2.2. Các tác hại nghề nghiệp liên quan đến việc tổ chức lao động không hợp lý Tổ chức lao động không hợp lý có thể gây rất nhiều tác hại lên sự cân bằng trạng thái sinh lý, sinh hoá của cơ thể người lao động, từ đó sinh ra các rối loạn bệnh lý. Thời gian lao động quá lâu dài có thể gây nên sự căng thẳng về thần kinh, thể chất bởi sự đáp ứng quá ngưỡng. Ví dụ: Quá trình hoạt động thần kinh là quá trình hưng phấn liên tục, thời gian dài hoạt động sẽ làm cho sự hưng phấn quá mức, giảm Acetylcholin, Cathecholamin... dẫn đến tình trạng ức chế thần kinh gây mệt mỏi. Lao động lâu, năng lượng bị cạn dần, ô xy giảm cung cấp, các sản phẩm trung gian tăng lên ở các khối cơ, gây đau mỏi, thậm chí co cứng cơ, mất khả năng hoạt động (ví dụ: axit lactic tăng lên, cơ bị co cứng). Dẫn từ [5], [8], [26], [37], [38], [39]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn Cường độ lao động quá nặng nhọc và khẩn trương sẽ huy động khối lượng cơ bắp, thần kinh lớn tham gia nhiều trong một thời gian ngắn, điều này sẽ làm tăng nhanh sự tiêu hao năng lượng và hoạt động của các cơ quan. Khi sự đáp ứng vượt quá ngưỡng bình thường như: khối lượng cơ hoạt động quá lớn, nhu cầu đáp ứng năng lượng cao, cơ thể có thể không đáp ứng kịp. Lao động nặng, tim phải cung cấp các chất dinh dưỡng, tăng năng lượng và trao đổi khí, có thể gây nên tình trạng giãn tim đột ngột và tử vong ở những vận động viên. Do lao động với nhịp độ quá khẩn trương, sự phối hợp giữa các nhóm cơ, các bộ phận không hợp lý dễ gây nên tai nạn lao động, hoặc tăng nhanh quá trình mệt mỏi. Chế độ lao động và nghỉ ngơi không hợp lý dễ làm tăng nhanh quá trình mệt mỏi, phát sinh các bệnh nghề nghiệp. Những lao động nặng, tiêu hao năng lượng nhiều hoặc tiếp xúc với nhiều yếu tố độc hại sẽ gây nên những ảnh hưởng xấu lên sức khoẻ nên cần được rút ngắn thời gian lao động và kéo dài thời gian nghỉ ngơi, để các trạng thái sinh lý, sinh hoá của cơ thể được hồi phục, khi chưa đến ngưỡng mất thăng bằng. Lao động nặng kéo dài sẽ làm tăng các sản phẩm trung gian, cạn kiệt năng lượng, nếu ta cho nghỉ sớm, các sản phẩm trung gian chưa xuất hiện nhiều, chưa đầu độc tế bào, năng lượng còn đủ để kích thích nhanh quá trình hồi phục, thời gian nghỉ ngơi không cần dài song cơ thể lại hồi phục nhanh chóng (ví dụ: lao động trong môi trường có nhiều tiếng ồn, thời gian lao động và nghỉ ngơi vẫn tương tự như các lao động tương ứng, song số lần nghỉ tăng lên, thời gian lao động các giai đoạn trong ca ngắn lại, sẽ làm giảm tỷ lệ bệnh điếc nghề nghiệp). Cơ sở của vấn đề là không để cho các phản ứng vượt hoặc sát ngưỡng bệnh lý mới cho người lao động được nghỉ ngơi nhằm tạo điều kiện cho tế bào mau hồi phục, nhanh chóng trở lại bình thường. Tư thế lao động không phù hợp với máy móc hoặc phương thức, phương tiện lao động sẽ gây nên sự bất thường cho các hoạt động chức năng, vì thế, các rối loạn bệnh lý dễ xảy ra hoặc quá trình mệt mỏi tế bào sẽ đến sớm. Điều này thường gặp ở những cơ sở tiếp nhận công nghệ cũ hoặc mới, song không tính toán đến tầm vóc giải phẫu và chức năng sinh lý của cơ thể người Việt Nam (các nhà máy dệt công Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn nhân phải đứng lên ghế mới với đến thoi, tầm của cỗ máy tiện quá cao...). Trong thực tế, nhiều người lao động phải làm việc ở các tư thế không hợp lý, nhiều nhóm cơ vận động trong tình trạng vận cơ tĩnh hoặc tạo các góc quá nhiều, nhiều động tác uốn, vặn, sẽ làm tăng nhanh sự mệt mỏi của thần kinh và thể chất. Các cơ quan bị căng thẳng do hoạt động không đồng bộ dễ gây lên sự mệt mỏi cục bộ. Trong các cơ quan dễ bị mệt mỏi sớm nếu hoạt động không phù hợp, người ta thấy, đứng đầu là các giác quan (ví dụ: Nhìn lâu mỏi mắt, viết nhiều mỏi tay ở những nhân viên văn phòng, mặc dù các lao động này tiêu hao năng lượng thấp, một số lao động đặc biệt như vi tính, lái xe... người lao động dễ mệt mỏi thị giác và thần kinh, nếu không lưu ý sẽ dẫn đến tai nạn lao động. 1.2.3. Những tác hại nghề nghiệp liên quan đến quy trình sản xuất Mỗi một quy trình sản xuất sẽ có những đặc thù riêng có thể tác động lên sức khỏe người lao động ở các mức dộ khác nhau. Ví dụ công nghệ luyện kim gây nhiều tác hại lên sức khỏe người lao động do nóng, bụi, hơi khí độc, lao động nặng nhọc. Ngành xây dựng lại có đặc trưng là lao động nặng nhọc, ngoài trời...Tuy nhiên do có nhiều yếu tố giống nhau, cùng tác động lên cơ thể như nhau, ví dụ nóng và bụi của lao động khai thác mỏ và luyện kim có nhiều điểm giống nhau nên người ta thường phân theo các yếu tố tác nhân, tác hại nghề nghiệp. Trong quá trình sản xuất các yếu tố tác tại nghề nghiệp mang đặc trưng vật lý, lý hoá, vi sinh vật, dẫn từ [35] có thể phát sinh hoặc tăng tác dụng xấu lên cơ thể người lao động. Ngày nay người ta đã thống kê được hơn 200.000 các hoá chất và dung môi độc hại, gần 400 tác nhân vật lý có hại và hàng ngàn tác nhân sinh học có thể gây hại cho người lao động. Ở nước ta cũng đang sử dụng hàng nghìn các tác nhân độc hại. Dẫn từ [2], [16], [17], [18], [20], [22], [36]. Các yếu tố vật lý như vi khí hậu, bức xạ, áp lực không khí không bình thường, ồn, rung chuyển... Thường xuyên tác động lên cơ thể, ảnh hưởng đến sự cân bằng các phản ứng sinh lý, sinh hoá... Vi khí hậu xấu có thể là quá nóng hoặc quá lạnh. Trong các lò nung vật liệu, nhiệt độ tăng lên tới hàng nghìn độ, có thể phát sinh ra nhiều loại bức xạ tử ngoại hoặc hồng ngoại... làm nóng nhiệt độ không khí hơn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn nhiệt độ da cơ thể người lao động gây trạng thái tích nhiệt, có thể làm cho quá trình thoát nhiệt của cơ thể bị ngừng trệ gây say nóng. Thông thường gió làm tăng quá trình đối lưu, giảm độ nóng của môi trường, song nếu gió nóng sẽ làm rối loạn quá trình điều hoà nhiệt độ của cơ thể. Độ ẩm trong môi trường tuỳ mức độ khác nhau có thể tạo điều kiện tốt cho cơ thể tăng nhanh quá trình bay hơi của hồ môi, giúp cho cơ thể điều nhiệt hoặc ngược lại. Các loại bức xạ có vai trò khác nhau đối với cơ thể người lao động. Các tia hồng ngoại chủ yếu gây tích nhiệt song cũng có thể gây đục nhân mắt. Bức xạ tử ngoại có khả năng đâm xuyên lớn, có thể gây tổn thương não làm cho người lao động bị say nắng. Trường điện từ của các loại sóng cao tần, siêu cao tần... gây nhiều tác hại lên chức năng sinh lý của cơ thể. Áp lực không khí thấp làm người ta thiếu không khí thở, ngược lại áp lực cao tạo điều kiện cho nitơ chuyển thành dạng lỏng, nếu thay đổi áp xuất đột ngột sự biến đổi này sẽ gây tắc mạch máu. Tắc mạch máu não và tim, có thể gây tử vong, điều này thường gặp ở những người lặn sâu, hoặc đào mố và trụ các loại cầu dưới lòng sông, trong các giếng chìm. Tiếng ồn quá cao trong môi trường gây ảnh hưởng xấu đến chức năng sinh lý, có thể gây rối loạn sinh lý. Tiếng ồn cũng góp phần quan trọng làm gia tăng bệnh điếc nghề nghiệp trong các nhà máy, xí nghiệp. Sự rung chuyển của các vật dụng và máy tác dụng xấu lên các hệ thống cơ, xương, khớp, mạch máu của người sử dụng, đặc biệt là hiện tượng loãng xương và co thắt mạch đầu chi. Các yếu tố lý hoá trong môi trường như bụi, hơi khí độc gây rất nhiều rối loạn bệnh lý và BNN đứng đầu là các loại bụi vô cơ gây xơ hoá phổi không hồi phục, gây tàn phế bộ máy hô hấp. Một số loại bụi hữu cơ như lông súc vật, bông, đay, phấn hoa gây phản ứng dị ứng co thắt khí phế quản. Người ta thấy hiện tượng khó thở do tác động của nhiều loại bụi, bông, đay gọi là bệnh bụi phổi bông (Bysinose) rất phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, bệnh này cũng được đưa vào danh mục các bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm. Các chất độc có trong môi trường lao động có thể ở dạng bụi hoặc khí gây nên nhiều bệnh nhiễm độc nguy hại như: Nhiễm độc Chì, Asen, Thuỷ ngân, thuốc trừ sâu... Có những loại chất độc dễ quan sát nhưng cũng có rất nhiều loại chất độc không mùi vị, khó quan sát, dễ gây nhiễm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn độc, cấp cứu khó khăn như Oxytcarbon, Thuỷ ngân... Ở Việt Nam có nhiều cơ sở sản xuất kim loại màu có nhiều kim loại nặng độc hại như chì, Asen, Cadimi... với hàng vạn người tiếp xúc trong đó một số lượng không nhỏ bị nhiễm độc, thậm chí là tử vong. Nhiều trường hợp suy thận, tăng huyết áp, thiếu máu đã gặp ở Thái Nguyên và một số nơi khác do tiếp xúc với kim loại nặng độc hại [19].. Trong môi trường lao động có nhiều yếu tố sinh học gây hại như các vi trùng, ký sinh trùng, các sản phẩm sinh học có tính chất dị nguyên gây nên viêm nhiễm và phản ứng dị ứng, các nấm hoặc vi trùng có khả năng tồn tại cao ở ngoại cảnh như lao, bạch hầu dễ gây bệnh cho những người công nhân vệ sinh, các thầy thuốc. Trong công nghiệp dệt may thì bụi hữu cơ là vấn đề sức khỏe đã được quan tâm nhiều. 1.2.4. Những tác hại nghề nghiệp liên quan tới an toàn vệ sinh lao động và điều kiện vệ sinh kém Điều kiện vệ sinh kém trong môi trường lao động là tập hợp bởi nhiều yếu tố tạo nên cảm giác hoặc trực giác đối với người lao động. Ví dụ như độ thông thoáng trong môi trường, các thiết bị vệ sinh và an toàn lao động, nhằm ngăn cản sự phát sinh các yếu tố độc hại từ nguồn hoặc bảo vệ thụ động như: khẩu trang, các loại máy hút bụi đôi khi trở nên bất lợi cho sức khoẻ. Ánh sáng thiếu làm giảm khả năng hoạt động của thị giác. Môi trường thiếu thông thoáng làm giảm khả năng trao đổi nhiệt, khí... 1.2.5. Các tác hại nghề nghiệp, rối loạn bệnh lý nghề nghiệp thường gặp trong công nghệ dệt may Các tác hại nghề nghiệp thường gặp trong công nghệ dệt may bao gồm: lao động nặng nhọc, bụi các loại, ồn, hóa chất độc và vi khí hậu bất lợi. Lao động của ngành dệt may nhìn chung là loại lao động nặng nhọc hoặc ở những tư thế gò bó không thuận lợi. Công nghệ sợi đòi hỏi người lao động phải tiêu tốn sức lực rất nhiều trong thu hoạch và sơ chế nguyên liệu. Các loại sợi bông, sợi đay thường được thu hoạch theo mùa. Người lao động thường phải gấp rút thu hái các loại quả bông và các nguyên liệu khác nhằm tránh những ảnh hưởng bất lợi thời tiết làm hỏng hoặc làm giảm những giá trị của nguyên liệu. Ở các nước nghèo các nước đang phát triển đa số thu hoạch nguyên liệu là lao động thủ công, lao động Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn ngoài trời, các yếu tố khí hậu và thời tiết như nóng, mưa ẩm, gió bụi thường gây tác động xấu nên sức khỏe của họ. Thông thường trong sản xuất các nguyên liệu người ta thường phải sử dụng nhiều loại hóa chất như phân bón, hóa chất trừ sâu, hóa chất làm trắng nên cũng có thể bị hóa chất độc hóa học này gây tác động xấu đến sức khỏe. Nghiên cứu sức khỏe người trồng bông ở Keenya (Parkmyad.V-2002) cho thấy có tới 19,3% số người lao động trồng bông bị giảm hoạt tính của men Cholinesterase, 24,6% người nông dân bị các rối loạn do thời tiết ở mũi họng. Công nghệ sản xuất sợi từ các nguyên liệu thô phục vụ cho dây chuyền dệt may, cũng là một công đoạn có nhiều yếu tố độc hại. Theo kết quả nghiên cứu của Satalop, Artamonova, Izmerop (1985-1995) cho thấy có tới 23,8% công nhân ngành sợi có sự gia tăng các bệnh thường gặp ở hô hấp và mũi họng so với cộng đồng, 6,3 -8,4% người lao động bị các ảnh hưởng của hóa chất mạn hoặc cấp tính. Người lao động ngành dệt thường phải tiếp xúc với môi trường vi khí hậu xấu đặc biệt là nhiệt độ cao và độ ẩm cao. Thông thường ở các nước Châu Âu về mùa đông độ ẩm thường dưới 50%, trong khi ở các phân xưởng dệt, nhuộm độ ẩm luôn luôn ở mức trên 90%. Do vậy sự gia tăng độ ẩm trong môi trường lao động sẽ là tác hại rất lớn đối với các tế bào niêm mạc ở mũi họng và hô hấp thậm chí toàn bộ da của người lao động cũng dễ bị tổn thương. Ở các nước khu vực nhiệt đới độ ẩm cao cũng là trở ngại rất lớn cho quá trình điều nhiệt của cơ thể. Độ ẩm cao sẽ làm khả năng thoát nhiệt khó khăn, gây nên tình trạng tích nhiệt dẫn đến rối loạn các quá trình điều hòa sinh lý, bài tiết của cơ thể. Thông thường nhiệt độ trong các phân xưởng cao sẽ tác động lên quá trình điều hòa nhiệt độ, cụ thể là quá trình thải nhiệt. Nếu nhiệt độ cao, độ ẩm cao trong điều kiện không thông thoáng thì sự trao đổi nhiệt sẽ bị cản trở rất nhiều. Nghiên cứu của Galanina, Andreieva, Izmerop (1978-1995) cho thấy có tới 19,34% người lao động trong các công đoạn có vi khí hậu nóng của môi trường tẩy nhuộm có rối loạn điều hòa thân nhiệt ở mức độ có thể phát hiện thông qua các phản ứng sinh lý sinh hóa. Người công nhân lao động ở công đoạn may dây chuyền thường phải chịu tác động nhiều yếu tố độc hại như ồn, bụi và lao động căng thẳng gò bó. Công Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn nghiệp dệt may ở Châu Âu phát triển từ thế kỷ 17, về sau công nghệ này dần được chuyển sang các nước nghèo, các nước đang phát triển khu vực Á, Phi. Người công nhân dệt may thường phải lao động theo dây chuyền đơn điệu với thời gian làm việc nhiều hơn 8 giờ/ngày và trên 5 ngày trong tuần. Sự đòi hỏi của điều kiện người lao động sẽ ép buộc người công nhân thường xuyên chịu đựng ở tư thế gò bó và mệt mỏi trường diễn. Thời gian lao động và nghỉ ngơi không hợp lý sẽ gây nên sự sáo trộn các hoạt động tâm, sinh lý của người lao động gây nên các rối loạn bệnh lý, stress nghề nghiệp. Tiếng ồn là một đặc trưng của nghề may, tiếng ồn thường không cao (70-90 db) song tác động thường xuyên liên tục nên thường gây nên khá nhiều các rối loạn sinh lý cấp hoặc mạn tính đối với người tiếp xúc. Nghiên cứu của Polycard, Raymond.D Park, Satalop (1960-1990)... cho thấy có tới 1/3 số công nhân phải chịu áp lực của tiếng ồn trong môi trường lao động dệt may và trong số đó có tới 50% bị các rối loạn sinh lý cấp và mãn tính. Bụi hữu cơ thậm chí nhiều khi là bụi tổng hợp, là một đặc trưng đối với công nghệ may. Hầu hết các công đoạn của dây chuyền trong công nghệ may, bụi đều vượt tiêu chuẩn cho phép (TCCP). Mặc dù bụi hữu cơ có thể ngăn được bằng khẩu trang tới trên 80% song chỉ cần một lượng nhỏ hít phải ở những người dễ cảm nhiễm cũng có thể gây nên những rối loạn bệnh lý. Trong giai đoạn phát triển kinh tế kỹ thuật hiện nay, các loại sợi nguyên liệu dùng trong ngành dệt may đã có sự pha trộn của nhiều tác nhân hóa học khác do vậy tính độc hại cũng có những thay đổi. Theo nghiên cứu của các tác giả ở Ấn độ, Pakistan thì hiện tượng co thắt khí, phế quản có tỷ lệ cao hơn ở những công nhân tiếp xúc với bụi tổng hợp. Dẫn từ [24], [41], [48]. Thông thường người lao động trong ngành dệt may có thể bị một số rối loạn bệnh lý nghề nghiệp đặc thù hoặc gia tăng một số bệnh thông thường so với các cộng đồng khác. Theo Artamonova (1975-1995), công nhân may thường bị các bệnh mũi họng và hô hấp nhiều hơn 2 đến 3 lần so với các đối tượng khác đặc biệt là các bệnh dị ứng ở mũi họng. Kết quả kiểm tra sức khỏe định kỳ của công nhân dệt may thuộc liên hiệp dệt may Sinpeterbug các năm 1980-1990 cho thấy tỷ lệ bệnh mòi họng ở đối tượng này thường xung quanh 75-85% trong khi các ngành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan