A. LỜI MỞ ĐẦU
Vàng đen - Dầu mỏ là một trong những nhiên liệu quan trọng
nhất của xã hội hiện đại dùng để sản xuất điện, sử dụng trongcác ngành
công nghiệpquan trọng và cũng là nhiên liệu của tất cả các phương tiện
giao thông vận tải.Nhận định chung cho rằng thế kỷ XIX là thế kỷ của
than, thế kỷ XX là thế kỷ của dầu mỏ và trong những thập kỷ đầu của thế
kỷ XXI, chắc chắn loại nhiên liệu không thể tái sinh được này vẫn chưa thể
bị thay thế bởi khí đốt, than, thuỷ điện, năng lượng hạt nhân, năng lượng
gió, mặt trời, địa nhiệt, bởi hơn 80% năng lượng hiện nay được tạo ra bởi
dầu mỏ.
Trong số các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, mặt hàng dầu mỏ
là một mặt hàng xuất khẩu chủ lực, luôn chiếm vị trí số cao về giá trị kim
ngạch xuất khẩu Việc khai thác và xuất khẩu hiệu quả mặt hàng này sẽ
mang lại rất nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp Việt Nam, tăng doanh thu
xuất khẩu cho đất nước.
Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, thị trường dầu thô thế giới
biến động không ngừng do nhiều nguyên nhân khác nhau, do vậy làm ảnh
hưởng rất nhiều tới tình hình xuất khẩu dầu thô của Việt Nam. Giá dầu
trên thế giới biến động lúc tăng, lúc giảm tạo ra những thuận lợi và cả
những khó khăn cho hoạt động xuất khẩu dầu của Việt Nam. Do vậy, việc
nghiên cứu đề tài “Thị trường dầu mỏ thế giới và ảnh hưởng của nó tới
hoạt động xuất khẩu dầu mỏ của Việt Nam” để tận dụng những thuận
lợi, khắc phục khó khăn, tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu dầu thô
một cách hiệu quả nhất là một tất yếu khách quan.
1
B. NỘI DUNG
I. Thị trường dầu mỏ thế giới
1. Đặc điểm thị trường dầu mỏ thế giới
Thị trường dầu mỏ thế giới là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch,
mua bán về dầu mỏ giữa các quốc gia trên khắp thế giới. Nó có những đặc
điểm chung song cũng có những điểm hết sức khác biệt so với các thị
trường khác.
Thứ nhất, đây là một thị trường lớn do nhu cầu phong phú, đa
dạng về dầu mỏ của các quốc gia trên khắp thế giới. Trong khi mà các
nguồn tài nguyên không thể tái sinh ngày càng cạn kiệt và những nguồn
năng lượng khác chưa thể thay thế được vai trò chiến lược của dầu mỏ thì
nhu cầu về dầu mỏ vẫn ngày một tăng với một số lượng lớn các giao dịch
mua bán dầu mỏ giữa các quốc gia, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên
thế giới.
Thứ hai, thị trường dầu mỏ còn hết sức nhạy cảm với những biến
động về kinh tế, chính trị trên toàn cầu từ đó dẫn đến những biến động trên
chính thị trường dầu mỏ. Chỉ cần xảy ra một sự bất ổn định về mặt chính trị
của một trong những quốc gia xuất khẩu dầu như là sự căng thẳng về chính
trị tại Nigieria hay các hoạt động phá hoại của lực lượng chống đối tại Iraq,
sự bất ổn các nguồn cung từ Nga (vụ Yukos) cũng có thể làm chao đảo thị
trường dầu mỏ
Thứ ba, thị trường dầu mỏ thế giới chịu sự chi phối rất lớn của tổ
chứcOPEC.Các quyết định, chính sách của OPEC về cung cầu dầu mỏ
cũng như giá dầu đều có tác động rất lớn đến thị trường dầu mỏ thế
giới.Báo cáo của OPEC công bố ngày 13/08/2010 bất chấp nhu cầu dầu mỏ
của Mỹ vẫn ổn định, nhu cầu dầu mỏ của thế giới năm 2010 được dự báo
tăng thêm 100.000 triệu thùng/ngày, đưa mức tăng nhu cầu dầu mỏ năm
2
nay lên khoảng một triệu thùng/ngày (hay 1,2%), thấp hơn mức 1,7 triệu
thùng/ngày được đưa ra trong dự báo trước đây. Theo đó, tổng nhu cầu dầu
mỏ được dự báo trong năm nay sẽ đạt mức 85,5 triệu thùng, tăng so với
mức 84,46 triệu thùng của năm ngoái.
2. Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC
Thị trường dầu mỏ thế giới chịu sự chi phối và phụ thuộc rất nhiều
vào tổ chức xuất khẩu dầu mỏ OPEC. Đây là một tổ chức đa chính phủ
được thành lập bởi các nước Iran, I-rắc, Kwait, Ả Rập Saudi và Venezuela
trong hội nghị tại Baghda (từ ngày 10 tháng 9 đến 14 tháng 9 năm 1960).
Các thành viên gồm Qatar (1961), Nam Dương (1962), LiBi (1962).Các
tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (1967), Algeria (1969) và Nigeria
(1971) lần lượt gia nhập tổ chức sau đó.Ecuador (1973 - 1992) và Gabon
(1975 - 1994) cũng từng là thành viên của OPEC.Trong năm năm đầu tiên
đặt trụ sở cuả OPEC tại Geneve, Thuỵ Sĩ, sau đó chuyển về Viên, Áo từ
tháng 9/1965.Các nước thành viên OPEC khai thác vào khoảng 40% tổng
sản lượng dầu thế giới và nắm giữ khoảng 3/4 trữ lượng dầu thế giới.
OPEC có khả năng điều chỉnh hạn ngạch khai thác dầu của các
nước thành viên và qua đó có khả năng khống chế giá dầu trên thị trường
thế giới.Hội nghị các bộ trưởng phụ trách vấn đề năng lượng và dầu mỏ
thuộc tổ chức OPEC được tổ chức mỗi năm hai lần nhằm đánh giá thị
trường dầu mỏ và đề ra các biện pháp phù hợp để đảm bảo việc cung cấp
dầu trên thị trường dầu mỏ thế giới. Bộ trưởng các nước thành viên thay
nhau theo nguyên tắc xoay vòng làm chủ tịch của tổ chức hai năm một
nhiệm kỳ.
Mục tiêu chính thức được ghi vào hiệp định thành lập OPEC là
ổn định thị trường dầu thô, bao gồm các chính sách khai thác dầu, ổn định
3
giá dầu thế giới và ủng hộ về mặt chính trị cho các thành viên khi bị các
biện pháp cưỡng chế vì các quyết định của OPEC. Nhưng thật ra nhiều
biện pháp được đề ra lại có động cơ bắt nguồn từ quyền lợi quốc gia, thí dụ
như trong cơn khủng hoảng dầu, OPEC đã không tìm cách hạ giá dầu mà
lại duy trì chính sách cao giá trong thời gian dài. Mục tiêu của OPEC thật
ra là một chính sách dầu chung nhằm để giữ giá.OPEC dựa vào việc phân
bổ hạn ngạch cho các thành viên để điều chỉnh lượng khai thác dầu, tạo ra
khan hiếm hoặc dư dầu giả, thông qua đó có thể có thể tăng, giảm hoặc giữ
giá dầu ổn định. Có thể coi OPEC như là một liên minh độc quyền luôn tìm
cách giữ giá dầu ở mức có lợi nhất cho mình. OPEC giữ một vị trí quan
trọng nhất trên thị trường dầu mỏ thế giới
3. Những biến động trên thị trường dầu mỏ thế giới
Kể từ khi có ngành công nghiệp dầu khí đến nay, với khởi đầu
Công nghiệp dầu khí Mỹ, rồi khi Nga bắt đầu xuất khẩu dầu (1884), và
phát hiện vùng dầu Texas vào cuối thế kỷ XIX, những năm đầu thế kỷ XX
Venezuala bắt đầu khai thác dầu, đến chiến tranh thế giới lần thứ hai thì về
cơ bản giá dầu cũng chỉ ở mức từ 5 - 7 USD/1 thùng. Từ thập kỷ 70 của thế
kỷ XX đã liên tiếp xảy ra nhiều cuộc khủng hoảng giá dầu.Đặc biệt trong
những năm gần đây giá dầu thế giới luôn ở mức cao, gây ra sự biến động
trên thị trường dầu mỏ đặc biệt là từ năm 2004 đến nay.
Từ năm 1948 đến những năm cuối 1960, giá dầu trung bình của
thế giới chỉ dao động từ 2,5 - 3 USD/1 thùng. Sự ra đời của các nước thành
viên OPEC đảm bảo cho sự ổn định về giá dầu.Cú sốc giá dầu lần thứ nhất
bắt đầu vào cuối tháng 10/1973 khi Syria và Ai Cập tấn công Isarel.Mỹ và
các nước phương tây đã hỗ trợ mạnh cho Isarel.Trả đũa cho hành động này,
hàng loạt các nước xuất khẩu dầu trong khối Arab đã cấm vận xuất dầu cho
các nước thân với Isarel.Họ đã cắt giảm lượng dầu sản xuất từ 5 triệu thùng
4
một ngày xuống còn một triệu thùng. Kết quả là trong vòng 6 tháng, giá
dầu thế giới đã tăng 400%. Từ năm 1972 - 1978, giá dầu dao động từ 12 14 USD/1 thùng so với giai đoạn trước chỉ có 3 USD/1 thùng. Lần biến
động tiếp theo được châm ngòi bằng cuộc chiến tranh giữa Iran và Iraq
năm 1979. Kết quả là lượng dầu sản xuất của hai quốc gia này sụt giảm.Giá
dầu lập tức tăng từ 14 USD/1 thùng năm 1978 lên 38 USD/1 thùng năm
1981, tức tăng 271%.Cú sốc giá dầu thứ ba xảy ra vào giai đoạn Iraq tấn
công Kuwait năm 1990 - 1991. Giá dầu từ mức 20 USD/1 thùng đã tăng
lên 35 USD/1 thùng vào tháng 10/1990.
OPEC có sản lượng chính thức 24,84 triệu thùng/ngày, được áp
dụng kể từ tháng 1/2009 sau đợt cắt giảm mạnh sản lượng nhằm ngăn chặn
đà giảm giá dầu. Trước đó, giá dầu thô đã giảm từ mức cao kỷ lục hơn
147USD/thùng hồi tháng 7/2008 xuống còn khoảng 32 USD/thùng trong
tháng 12/2008 trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu.
Mới đây, mặc dù giá dầu tăng lên mức cao nhất trong năm tháng
qua ở mức trên 85 USD/thùng (06/10/2010) do đồng USD yếu, giới phân
tích tin rằng giá dầu sẽ lại giảm xuống mức 70-80 USD/thùng trong thời
gian tới
Theo dự đoán của các chuyên gia giá dầu thế giới trong năm
2011sẽ dao động xung quanh mức 60 -70USD/thùng. Giá dầu thế giới sụt
giảm là do kinh tế toàn cầu còn nhiều bất ổn và có nguy cơ rơi vào suy
thoái kép
4. Nguyên nhân của biến động
Giá dầu thô cùng với những sản phẩm của nó có những vị trí hết
sức quan trọng. Khi giá dầu lên cao có thể gây thiệt hại to lớn cho nền kinh
tế các nước và tác động đến nền kinh tế toàn cầu nói chung, làm cho
5
thương mại và đầu tư quốc tế suy giảm. Bối cảnh kinh tế nói chung khi giá
dầu tăng hiện nay rất khác so với những cơn sốt giá dầu trước đây, tất cả
đều xảy ra đồng thời với với hiện tượng phát triển bùng nổ kinh tế do nhiều
nền kinh tế hoạt động quá nóng. Biến động của giá dầu do nhiều nhân tố
như nhân tố chính trị và sự bất ổn trên thế giới với yếu tố tâm lý, là những
nhân tố có tác động mạnh, còn nhân tố cung cầu là nhân tố quyết định sự
biến động giá dầu trên thị trường thế giới.
Nhân tố quyết định gây nên sự biến động trên thị trường mỏ chính
là nhân tố cung cầu. Cung dầu thô ngày càng hạn chế do dầu thô là nguồn
tài nguyên không tái tạo được. Hiện nay trên thế giới đang diễn ra hàng loạt
các tranh luận gay gắt về tình trạng cạn kiệt dầu. Trong những năm gần
đây, các mỏ mới và lớn, phát hiện ngày càng ít dần, trong lúc các mỏ đang
khai thác thì đang đi vào giai đoạn đỉnh điểm của hoặc đang chuyển sang
giai đoạn kết thúc
Bên cạnh đó, chính trị cũng là một nhân tố rất quan trọng gây nên
sự biến động trên thị trường dầu mỏ. Trước mắt, chính trị dầu mỏ không
phải liên quan đến vấn đề thế giới sẽ thiếu dầu mà liên quan đến sự ra đời
và ảnh hưởng ngày càng tăng của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ
OPEC đối với nền kinh tế thế giới, tình hình bất ổn ở Trung Đông và các
cuộc xung đột, tranh chấp biên giới, lãnh thổ ở các khu vực hiện nay đặc
biệt ở các khu vực có trữ lượng dầu lớn.
Cuối cùng, tâm lý lo ngại cũng là một trong những nguyên nhân
gây nên sự biến động tăng của giá dầu. Tâm trạng lo ngại, sự lo lắng của
giới kinh doanh về sự biến động giá dầu có thể phần nào được tạo ra bởi sự
đầu cơ, đã kéo dài cơn sốt giá của thị trường dầu mỏ thế giới.
6
5. Kinh nghiệm của các nước trước sự biến động giá dầu
Giá dầu cao tác động tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế thế giới,
hạn chế tốc đô tăng trưởng, làm cho đời sống khó khăn và theo sau đó là
những lộn xộn về chính trị xã hội. Các nước xử lý vấn đề này tuỳ thuộc vào
điều kiện kinh tế xã hội và tình hình tài nguyên mỗi nước.
Các nước OPEC chủ trương giữ giá dầu cao một cách hợp lý
theo lý luận của họ bằng cách điều chỉnh sản lượng chi để mức cung xấp xỉ
mức cầu. Với biện pháp này OPEC vừa đảm bảo có thu nhập cao vừa giữ
được nguồn tài nguyên mà họ tin rằng sau vài chục năm nữa, vai trò của họ
trên thị trường dầu khí sẽ là tuyệt đối.
Các nước sản xuất và xuất khẩu dầu nhỏ hơn thì hoặc là tranh
thủ khai thác để tăng nguồn thu, hoặc là hạn chế khai thác trong nước, mở
rộng đầu tư khai thác ở nước ngoài, phụ thuộc vào nhu cầu ngân sách. Chủ
trương tăng cường khai thác để xuất khẩu chứa một nguy cơ tiềm ẩn, bởi vì
sau này họ sẽ là những nước nhập khẩu với giá dầu cao hơn gấp nhiều lần.
Do vậy, các nước có tiềm năng tài chính thì phát triển chế biến trong nước
để xuất khẩu sản phẩm lọc dầu, hạn chế tối đa xuất sản phẩm thô.
Các nước công nghiệp phát triển và các nước thiếu dầu khí thì
chủ trương đa dạng hoá nguồn cung, đa dạng hoá nguồn nhiên liệu (sử
dụng điện, hydro thay xăng hoặc sản xuất xăng dầu từ khí đốt, than đá…),
tiết kiệm năng lượng kể cả đánh thuế cao, nhằm hạn chế nhu cầu sử dụng,
đồng thời đầu tư nghiên cứu các nguồn năng lượng mới. Để giữ cho giá
xăng dầu nội địa ít biến động, các nước này rất tích cực lập kho dự trữ
chiến lược, đặc biệt là Mỹ, mục tiêu dầu dự trữ phải đủ dùng trong 9 tháng,
Trung Quốc mục tiêu này là 3 tháng.
7
II. Thực trạng sản xuất và xuất khẩu dầu mỏ tại Việt
Nam
1.
Khai thác dầu mỏ ở Việt Nam và vai trò của ngành dầu
mỏ
Công tác tìm kiếm thăm dò dầu mỏ trên đất liền miền Bắc đã bắt
đầu từ những năm 60 của thế kỷ trước và thực sự được mở rộng ra toàn
lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam từ sau ngày đất nước thống nhất. Ngày
26/6/1986 đã đánh dấu sự bắt đầu của ngành công nghiệp khai thác dầu khi
mỏ Bạch Hổ (thuộc thềm lục địa phía Nam, ngoài khơi tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu) đã khai thác dòng dầu đầu tiên và chính thức đưa Việt Nam vào danh
sách các nước xuất khẩu dầu thô từ năm 1991. Điều đặc biệt quan trọng
mang tính bước ngoặt là vào năm 1988 đã khẳng định nguồn trữ lượng dầu
lớn tích tụ trong đá móng granít nứt nẻ và đã được khai thác.Từ đó đến nay,
móng granít nứt nẻ thuộc mỏ Bạch Hổ luôn đóng vai trò chủ lực trong khai
thác dầu của Việt Nam. Với việc phát hiện và đưa vào khai thác dầu từ
móng granít nứt nẻ tại mỏ Bạch Hổ, ngành dầu khí Việt Nam chẳng những
đã chứng tỏ được sự lớn mạnh của mình mà còn mang đến cho nền công
nghiệp dầu thế giới những quan điểm hết sức mới mẻ về việc tìm kiếm,
thăm dò, khai thác dầu trong đá móng granít nứt nẻ, một đối tượng mà từ
trước đến nay thường ít được chú ý.
Hiện tại, trên thềm lục địa và đất liền của nước ta có các mỏ Bạch
Hổ, Rồng, Đại Hùng, Rạng Đông, Hồng Ngọc, Sư Tử Đen, Cái Nước, Bunga
Kekwa, Bunga Raya, Bunga Seroja, Lan Tây, Tiền Hải C…
Ngành dầu khí đóng góp với vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn.Theo
Tổng Giám đốc Petrovietnam Phùng Đình Thực, Tập đoàn đang đóng góp
8
trung bình 28-30% tổng thu ngân sách Nhà nước, chiếm trung bình 18-20%
GDP của cả nước và duy trì mức tăng trưởng trung bình gần 20%/năm.
2.
Tình hình sản xuất và xuất khẩu dầu mỏ của Việt Nam
Trước khi có nhà máy lọc dầu Dung Quất, Việt Nam chủ yếu xuất
khẩu dầu thô - sản phẩm dầu mỏ song chưa qua tinh chế.Theo dòng thời
gian, sau Bạch Hổ, dầu thô khai thác từ những mỏ khác cũng lần lượt được
đưa vào thị trường thế giới.Năm 1994, từ mỏ Đại Hùng đã có dầu thô xuất
khẩu, đây là những sản phẩm đầu tiên có sự hợp tác với các công ty dầu khí
phương tây, khi đó là công ty BHPP của Australia. Tiếp đến năm 1997, ta
có xuất khẩu dầu thô từ mỏ PM3 - CAA, năm 1998 từ hai mỏ Rạng Đông
và Ruby và năm 2003 có thêm hai mỏ nữa có dầu đó là mỏ Sư Tử Đen và
mỏ Cái Nước.
Việt Nam được xếp vào các nước xuất khẩu dầu mỏ là từ năm
1991 khi sản lượng khai thác mới đạt vài ba triệu tấn. Đến nay, hàng năm
sản lượng dầu khai thác và xuất khẩu của Việt Nam đã đạt hai chục triệu
tấn
Hiện nay Việt Nam là nước có tên trong danh sách các nước xuất
khẩu dầu khí trên thế giới và đứng thứ 3 khu vực Đông Nam Á về sản
lượng khai thác dầu thô.
Hiện Việt Nam đang triển khai khai thác 18 mỏ dầu khí (trong đó
có 17 mỏ trong nước và 1 mỏ ở nước ngoài); thực hiện 57 hợp đồng dầu
khí ở trong nước với số vốn thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đạt
gần 12 tỷ USD. Trong công tác tìm kiếm thăm dò, Tập đoàn dầu khí Việt
Nam đã xác định trữ lượng dầu khí phát hiện là 1,3 tỷ tấn quy dầu.
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của được triển khai tích cực với
49 thoả thuận được thực hiện tại nhiều nước, trong đó đáng chú ý dự án
9
phát triển mỏ Neneski tại Liên bang Nga, dự án phát triển mỏ Junin 2 tại
Venezuela, dự án thuỷ điện Luong Phabang tại Lào…
Bảng 1: Sản lượng xuất khẩu dầu thô trong những năm gần đây
Đơn vị: triệu tấấn
Năm
Sản lượng xuất khẩu
2007
15,02
2008
14,66
2009
11,68
Nguồn: Tổng cục thống kê
Theo số liệu thống kê, tổng lượng dầu thô xuất khẩu của Việt Nam
7 tháng đầu năm 2010 đạt 4,9 triệu tấn với kim ngạch 3 tỉ USD, giảm
45,6% về lượng và giảm 20,1% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm
7,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của cả nước 7 tháng đầu
năm 2010.
Phần lớn thị trường xuất khẩu dầu thô của Việt Nam 7 tháng đầu
năm 2010 đều có độ suy giảm cả về lượng và trị giá, chỉ có 2 thị trường có
tốc độ tăng trưởng nhẹ về kim ngạch: thứ nhất là Trung Quốc đạt 378,6
nghìn tấn với kim ngạch 231,6 triệu USD, giảm 35,5% về lượng nhưng
tăng 5,2% về trị giá so với cùng kỳ, chiếm 7,8% trong tổng kim ngạch; thứ
hai là Ôxtrâylia.
Ngược lại, những thị trường xuất khẩu dầu thô của Việt Nam 7
tháng đầu năm 2010 có độ suy giảm mạnh cả về lượng và trị giá là: Thái
Lan đạt 86,8 nghìn tấn với kim ngạch 51 triệu USD, giảm 84,8% về lượng
10
và giảm 80,3% về trị giá so với cùng kỳ, chiếm 1,7% trong tổng kim
ngạch; tiếp theo đó là Nhật Bản đạt 169 nghìn tấn với kim ngạch 102,7
triệu USD, giảm 69,8% vê lượng và giảm 55% về trị giá so với cùng kỳ,
chiếm 3,5% trong tổng kim ngạch; Hàn Quốc đạt 229 nghìn tấn với kim
ngạch 148 triệu USD, giảm 47,8% về lượng và giảm 36,2% về trị giá so
với cùng kỳ, chiếm 5% trong tổng kim ngạch; sau cùng là Malaysia đạt 637
nghìn tấn với kim ngạch đạt 387 triệu USD, giảm 50,7% về lượng và giảm
22% về trị giá so với cùng kỳ, chiếm 13% trong tổng kim ngạch.
3. Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam
Khách hàng mua dầu của Việt Nam rất đa dạng, gồm các công ty
lớn như BP, Chevon, Exxon Mobil, Shell hay các công ty thương mại của
Nhật, Singapo, Trung Quốc và tất cả các nhà máy lọc dầu trong khu vực.
Phương thức tiêu thụ dầu của Việt Nam cũng rất đa dạng, từ việc dùng dầu
thô đốt thẳng để phát điện đến việc đưa đến lọc tại các nhà máy lọc dầu tại
Úc, Singapore, Trung Quốc thậm chí đưa sang Mỹ. Kim ngạch và giá trị
xuất khẩu dầu thô luôn dẫn đầu tại một số thị trường chính.
Tại thị trường Nhật Bản - một bạn hàng lớn nhất của Việt Nam
với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực như dệt may, hải sản, thủ công mỹ
nghệ…Riêng dầu thô Việt Nam đã từng chiếm 20% tổng kim ngạch xuất
khẩu vào Nhật Bản
Tại thị trường Hoa Kỳ, xuất khẩu dầu thô của Việt Nam bắt
đầu được thực hiện từ năm 1996, với kim ngạch là 80,6 triệu USD (chiếm
39,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ), đứng
vị trí thứ hai sau cà phê trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu của chủ
yếu của Việt Nam sang Hoa Kỳ. Trong hai năm tiếp theo do giá dầu trên
thế giới giảm mạnh nên xuất khẩu dầu thô sang Hoa Kỳ giảm cả về giá trị
11
và tỷ lệ (năm 1997 đạt 34,6 triệu USD, chiếm 12,1%; năm 1998 đạt 79,22
triệu USD, chiếm 16,9%. Trong những năm trở lại đây, do giá dầu thô trên
thị trường thế giới tăng mạnh, trong khi các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC
quyết định cắt giảm sản lượng dầu khai thác, giá trị xuất khẩu dầu thô ở thị
trường Mỹ tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, xuất khẩu dầu thô của Việt Nam
sang Hoa Kỳ còn chiếm tỷ trọng quá khiêm tốn so với khả năng thăm dò và
khai thác dầu khí đầy triển vọng ở Việt Nam.
Tại Malaysia là một trong những quốc gia xuất khẩu dầu lớn
trong khu vực song nhập khẩu dầu thô từ Việt Nam vẫn có số lượng và giá
trị cao nhất, chiếm khoảng 68,5% tổng giá trị các mặt hàng nhập khẩu của
Malaysia từ Việt Nam.
Hiện nay Ôxtrâylia dẫn đầu thị trường về lượng và kim ngạch xuất
khẩu dầu thô của Việt Nam 7 tháng đầu năm 2010, đạt 1,8 triệu tấn với kim
ngạch 1,1 tỉ USD, giảm 23,5% về lượng nhưng tăng 4,5% về trị giá so với
cùng kỳ, chiếm 38,2% trong tổng kim ngạch.
12
Thị trường xuất khẩu dầu thô của Việt Nam 7 tháng đầu năm 2010
Thị
trường
Tổng
7T/2009
Lượng
(tấn)
7T/2010
Trị giá (USD)
Lượng
(tấn)
Trị giá (USD)
9.007.744 3.707.997.097 4.903.282 2.963.158.885
% tăng,
giảm so
với cùng kỳ
- 20,1
Hàn Quốc 543.462 232.057.282 229.193 147.963.623
- 36,2
Hoa Kỳ
617.969 232.629.655 386.033 231.780.493
- 0,4
Indonesia 233.322 110.939.643 178.339 105.901.645
- 4,5
Malaysia 1.291.447 496.087.973 637.211 386.903.529
- 22
Nhật Bản 559.696 228.436.158 169.004 102.697.862
- 55
Ôxtrâylia 2.379.436 1.084.791.156 1.820.264 1.133.407.954
+ 4,5
Singapore 1.585.122 626.432.381 915.517 540.389.079
- 13,7
Thái Lan
572.581 259.255.521
51.124.896
- 80,3
Trung
587.105 220.212.526 378.576 231.615.414
+ 5,2
86.837
Quốc
4. Tác động của sự biến động mức giá trên thị trường dầu mỏ
tới hoạt động xuất khẩu dầu mỏ của Việt Nam.
4.1 Thuận lợi
Sự biến động trên thị trường dầu mỏ đã làm cho các quốc gia
xuất khẩu dầu mỏ nói chung và các doanh nghiệp nói riêng gặp không ít
khó khăn. Song dù cho thị trường dầu mỏ có biến động lên giá hay xuống
giá thì dầu thô Việt Nam vẫn hấp dẫn bởi chất lượng và uy tín trong giao
dịch. Và cao hơn cả là dầu thô Việt Nam đã là một mặt hàng có đẳng cấp
13
trên thị trường. Các doanh nghiệp xuất khẩu dầu thô ở Việt Nam đã xây
dựng cho mình được một hệ thống khách hàng truyền thống, gắn kết chặt
chẽ với công ty trong mọi hoàn cảnh, nhất là những lúc khó khăn, giá dầu
sụt xuống, thị trường dầu thô thế giới gần như bị “đóng băng”, nhưng dầu
thô Việt Nam vẫn xuất khẩu đều, tránh được hiện tượng phải đóng mỏ. Đây
là một thuận lợi rất lớn cho xuất khẩu dầu thô của Việt Nam vì tình trạng
biến động giá cả trên thị trường dầu mỏ rất phức tạp, khó dự đoán và diễn
ra thường xuyên do đặc điểm nhạy cảm của thị trường dầu mỏ.
Khi giá dầu trên thế giới biến động dù tăng hay giảm, xuất khẩu
dầu thô của Việt Nam vẫn ổn định bởi chất lượng của mặt hàng này và uy
tín trong giao dịch của các công ty. Do đó trong thời gian vừa qua khi giá
dầu lên cao tới mức đỉnh điểm thì trị gía kim ngạch xuất khẩu của ta cũng
tăng cao hơn rất nhiều
4.2. Khó khăn
Thứ nhất, khi giá dầu tăng lên, xuất khẩu dầu của Việt Nam đạt
doanh thu xuất khẩu rất cao, song khi giá dầu biến động giảm xuống,
ngược lại doanh thu xuất khẩu sẽ rất bị ảnh hưởng. Xu hướng biến động
chung của thị trường dầu mỏ là sự tăng giá dầu song đây là một thị trường
rất phức tạp và khó dự đoán nên không loại trừ khả năng giá giảm xuống
làm doanh thu xuất khẩu dầu của Việt Nam cũng như các quốc gia khác
giảm một cách đáng kể.
Thứ hai, tuy có được một hệ thống khách hàng nhập khẩu trung
thành song cũng như các mặt hàng khác, dầu thô đang vấp phải sự cạnh
tranh quyết liệt về giá của nhiều nước khác, nhất là khu vực Châu Phi. Chất
lượng dầu thô của các nước Châu Phi xấp xỉ dầu khai thác từ mỏ Bạch Hổ
nhưng lại được chào bán thấp hơn dầu Việt Nam 5 USD/thùng, nên mới
14
đây những khách hàng Trung Quốc đã rút lui để chuyển sang mua dầu của
Châu Phi. Do vậy khi giá mặt hàng dầu thô biến động tăng trên thị trường
dầu thì xuất khẩu dầu thô của chúng ta sẽ rất vất vả.
Xem xét các nhân tố thuộc bản thân mặt hàng dầu mỏ tác động
đến năng lực cạnh tranh của mặt hàng này.Về chất lượng hàng hoá xuất
khẩu.Chất lượng là một yếu tố quan trọng trong cạnh tranh của hàng
hoá.Nó là thuộc tính của bất cứ sản phẩm và dịch vụ nào.Nếu không hội đủ
yêu cầu tối thiểu về các tính chất đặc trưng để có giá trị sử dụng ở mức
chấp nhận được thì tự nó không còn là sản phẩm dịch vụ nữa.Chất lượng
mặt hàng dầu thô xuất khẩu của các nước Châu Phi xấp xỉ chất lượng dầu
khai thác từ mỏ Bạch Hổ nên đây không phải là yếu tố gây lo ngại cho xuất
khẩu dầu của Việt Nam.Song khi xét đến một yếu tố khác của các nhân tố
tác động đến năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu là giá xuất khẩu thì
có những khó khăn cho xuất khẩu dầu thô của Việt Nam.Trong cạnh tranh
đặc biệt là cạnh tranh trên một thị trường có nhiều đối thủ thì giá cả giữ
một vai trò đặc biệt quan trọng. Mặc dù nhìn chung trên thế giới cạnh tranh
về giá đã dần chuyển sang cạnh tranh về chất lượng sản phẩm và thời gian
giao hàng nhưng nhiều lúc, nhiều nơi và trên nhiều lĩnh vực, cạnh tranh về
giá diễn ra rất gay gắt đặc biệt đối với mặt hàng dầu thô - một mặt hàng rất
quan trọng đối với mỗi quốc gia và luôn có sự biến động về giá cả.
Một thực tế hiển nhiên cho thấy rằng, khi mà các sản phẩm do
các doanh nghiệp khác nhau cung cấp hay do các quốc gia khác nhau cung
cấp có mẫu mã, chất lượng, dịch vụ liên quan đến sản phẩm tương tự nhau
thì một sự khác biệt nhỏ về giá cả cũng có thể dẫn đến sự thay đổi trong
quyết định mua hàng của ngưòi tiêu dùng.Và khi đó, doanh nghiệp nào có
giá thành sản phẩm càng thấp thì thì càng có lợi. Trong trường hợp này, khi
giá dầu trên thế giới biến động theo xu hướng tăng giá thì với mức giá bán
15
thấp hơn Việt Nam 5USD/1 thùng, rõ ràng các doanh nghiệp Châu Phi đã
có lợi thế hơn Việt Nam trong xuất khẩu dầu thô, đẩy các doanh nghiệp
Việt Nam vào tình thế khó khăn. Bởi thế, yêu cầu đối với các doanh nghiệp
trong điều kiện cạnh tranh quốc tế ngày nay là phải không ngừng giảm chi
phí sản xuất đến mức tối đa để có thể đưa đến cho khách hàng những sản
phẩm với mức giá cạnh tranh nhất.Có như vậy dầu thô xuất khẩu của Việt
Nam mới có thể cạnh tranh trong điều kiện biến động của thị trường dầu
mỏ.
III. Một số giải pháp và kiến nghịnhằm nâng cao hoạt
động xuất khẩu dầu mỏ của Việt Nam
1. Giải pháp về phía nhà nước
1.1. Đầu tư cho các hoạt động khai thác và xây dựng các nhà máy
lọc dầu
Mặt hàng dầu thô là một mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đem lại
giá trị rất cao trong kim ngạch xuất khẩu song doanh thu lại không ổn định,
tạo ra nhiều thuận lợi khi mức giá tăng cao và rủi ro khi mức giá xuống
thấp. Xác định được tầm quan trọng chiến lược của mặt hàng này trong
thời kỳ hội nhập và sự biến động về giá trên thị trường dầu mỏ thế giới nhà
nước nên có một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu
dầu thô Việt Nam.
Trước hết, nhà nước cần phải có sự đầu tư thích đáng cho hoạt
động khai thác và xây dựng các nhà máy lọc dầu ở Việt Nam. Việc chủ
động về nguồn cung dầu sẽ giúp các doanh xuất khẩu dầu thô phát huy hay
tận dụng được các lợi thế về doanh thu trong xuất khẩu. Hơn nữa, đầu tư
vốn và công nghệ vào hoạt động khai thác dầu thô sẽ giúp nâng cao chất
lượng dầu thô xuất khẩu, xây dựng năng lực cạnh tranh cho mặt hàng này
16
trước các đối thủ từ Châu Phi và Trung Đông. Ví dụ như Việt Nam hiện
nay đã khai thác được một số lượng lớn dầu thô từ móng granít phong hoá
để xuất khẩu song đối tượng này cho đến nay vẫn chưa được hiểu một cách
thấu đáo.Việc định hình công nghệ khai thác dầu từ đối tượng móng granít
nứt nẻ chỉ mới được bắt đầu, cho nên để tối ưu hoá và thực sự làm chủ
công nghệ khai thác các đối tượng này nhà nước cần phải đầu tư nhiều kinh
phí và nhiều nỗ lực cho cho công tác nghiên cứu về móng nứt nẻ. Với tất cả
các điều kiện trên, việc dự báo khai thác cho các đối tượng móng granít nứt
nẻ luôn chứa đựng tính rủi ro cao và yêu cầu đối với công tác quản lý, giám
sát khai thác phải hết sức chặt chẽ và thận trọng.
1.2. Xây dựng cơ quan dự báo về biến động trên thị trường dầu
mỏ
Thị trường dầu mỏ thế giới, với những đặc điểm riêng biệt, không
ngừng biến động gây ra một sự bất ổn định cho hoạt động của các doanh
nghiệp, quốc gia xuất khẩu dầu. Để tận dụng những thuận lợi cũng như hạn
chế khó khăn mà các biến động tạo ra, nhà nước cần những theo dõi và dự
báo chặt chẽ những biến động trên thị trường dầu, xây dựng một cơ quan
chuyên theo dõi những biến động về giá dầu, nguyên nhân của những biến
động, dự báo về mức tăng giá hay giảm giá dầu kịp thời cho các doanh
nghiệp.
17
1.3. Các biện pháp về tài chính
Khi giá dầu giảm, thì với các tỷ lệ phân chia sản phẩm đã được
định theo tỷ lệ cố định, chi phí đầu tư cho các hoạt động dầu khí cũng phải
giảm theo, trong khi nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất và duy trì sửa
chữa, bảo dưỡng đặc biệt là cho công tác tìm kiếm thăm dò và gia tăng trữ
lượng dầu khí vẫn không giảm. Vì vậy, cần có những giải pháp thích hợp
về mặt tài chính:
Thứ nhất, nhà nước cần quy định, khi giá dầu xuống mức quá
thấp, chi phí và đầu tư duy trì các hoạt động dầu khí vẫn được đảm bảo
theo mức kế hoạch đã được duyệt theo chương trình kế hoạch ngân sách
hàng năm, để đảm bảo sản xuất bình thường.
Thứ hai, nguồn để bù đắp có thể hình thành từ khoản thu vượt
mức do giá dầu tăng cao. Có thể hình thành quỹ bù đắp hoặc thành lập quỹ
bình ổn cho các hoạt động dầu khí do tăng hoặc giảm giá dầu, nhằm đầu tư
vào các hoạt động khai thác bình thường và đặc biệt là cho công tác tìm
kiếm thăm dò các lô dầu khí được đánh giá là có tiềm năng hoặc những lô
xa bờ.
Thứ ba, cần áp dụng các biện pháp giảm giá thành sản xuất, tăng
tỷ trọng dịch vụ trong các hoạt động dầu khí.
2. Giải pháp về phía doanh nghiệp
Bên cạnh những giải pháp về phía chính phủ thì tự bản thân các
doanh nghiệp phải tìm ra các giải pháp tạo hiệu quả xuất khẩu cho chính
doanh nghiệp trước sự biến động trên thị trường dầu mỏ.
Thứ nhất, bảo đảm chất lượng mặt hàng dầu thô để tạo uy tín đồng
thời tiết kiệm chi phí sản xuất để có thể hạ giá thành sản phẩm, nâng cao
18
khả năng cạnh tranh về giá của sản phẩm so với dầu thô của các đối thủ
cạnh tranh như các nước Châu Phi hay Trung Đông. Đây là một giải pháp
rất quan trọng tạo chỗ đứng cho các doanh nghiệp trong quá trình cạnh
tranh trước sự biến động tăng hay giảm của giá dầu.
Thứ hai, dùng ngân sách của doanh nghiệp dầu tư cho hoạt động
khai thác, tìm kiếm dầu mỏ đảm bảo nguồn cung, tăng khối lượng và doanh
thu xuất khẩu. Sự biến động trên thị trường dầu mỏ là rất khó dự đoán song
xu hướng chung là biến động tăng mức giá do nhu cầu tiêu dừng dầu thô
ngày càng tăng nên việc ổn định nguồn cung, xuất đều sẽ mang lại doanh
thu rất lớn cho các doanh nghiệp.
Thứ ba, ngoài sự hỗ trợ về thông tin của nhà nước, bản thân các
doanh nghiệp cũng phải thành lập một hệ thống theo dõi, dự đoán về sự
biến động trên thị trường dầu mỏ của riêng doanh nghiệp để có kế hoạch
điều chỉnh chiến lược xuất khẩu cho phù hợp: tăng giá hay giảm giá.
19
C.
KẾT LUẬN
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, không ai
có thể phủ nhận vai trò của các mặt hàng xuất khẩu đặc biệt là những mặt
hàng xuất khẩu chủ lực như dầu thô. Giá trị xuất khẩu mặt hàng dầu thô
luôn dẫn đầu so với các mặt hàng khác, đồng thời chiếm tỷ trọng cao nhất
trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam qua các năm. Tuy
nhiên, thị trường dầu mỏ lại là một thị trường hết sức nhạy cảm, biến động
không ngừng, ít nhiều gây ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu dầu thô của
Việt Nam. Sự biến động của thị trường dầu mỏ tạo ra rất nhiều thuận lợi
cho xuất khẩu dầu mỏ Việt Nam chẳng hạn như việc tăng doanh thu xuất
khẩu, song cũng gây ra không ít khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu
dầu mỏ trong việc cạnh tranh bằng giá. Vậy làm như thế nào để tận dụng
tối đa những thuận lợi đồng thời hạn chế tối thiểu những khó khăn, thách
thức mà sự biến động trên thị trường dầu mỏ tạo ra cho xuất khẩu dầu thô
của Việt Nam, điều này cần sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà nước nói chung
và các doanh nghiệp xuất khẩu dầu mỏ nói chung nhằm tìm ra những giải
pháp xuất khẩu đạt hiệu quả nhất.
20
- Xem thêm -