Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng chính sách ngoại thương và cán cân thương mại ở việt nam...

Tài liệu Thực trạng chính sách ngoại thương và cán cân thương mại ở việt nam

.PDF
32
269
111

Mô tả:

THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM Tiểu luận THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 1 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM I. Lý thuyết 1. Chính sách ngoại thương 1.1. Chính sách ngoại thương là gì? Chính sách ngoại thương là chính sách của nhà nước bao gồm một hệ thống nguyên tắc và biện pháp thích hợp được áp dụng để điều chỉnh hoạt động ngoại thương phù hợp với lợi ích chung của Nhà nước trong từng giai đoạn. Chính sách ngoại thương là một hệ thống chính sách của Nhà nước nó phục vụ đắc lực cho đường lối phát triển kinh tế trong mỗi thời kỳ. Nó ảnh hưởng tới quá trình tái sản xuất xã hội và sự tham gia của nền kinh tế quốc dân vào quá trình phân công lao động quốc tế. 1.2. Vai trò của chính sách ngoại thương trong nền kinh tế  Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước thâm nhập và mở rộng thị trường ra nước ngoài, khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế trong nước.  Bảo vệ thị trường nội địa, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước đứng vững và vươn lên trong hoạt động kinh doanh.  Chính sách ngoại thương là một bộ phận trong chính sách đối ngoại của một quốc gia. 1.3. Một số công cụ thực thi chính sách ngoại thương 1.3.1. Thuế quan Thuế quan là một loại thuế đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu nhằm đạt được những mục tiêu nhất định như tăng thu ngân sách nhà nước, hạn chế nhập khẩu hoặc xuất khẩu... Thuế quan xuất khẩu áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu và áp dụng với phạm vi hạn chế và mức thuế suất không cao. Thường áp dụng đối với các mặt hàng truyền thống với thuế suất không ảnh hưởng đến cung cầu. Thuế quan nhập khẩu áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu và sử dụng tương đối phổ biến ở các nước trên thế giới với các mức thuế suất rất khác nhau đối với từng nhóm hàng hoá cụ thể và tuỳ theo điều kiện từng nước. 1.3.2. Các biện pháp phi thuế quan 1.3.2.1. Hạn ngạch CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 2 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM Hạn ngạch là quy định của Nhà nước về số lượng cao nhất của một hàng hoá hay một nhóm hàng hoá được phép xuất khẩu hay nhập khẩu trong một thời gian nhất định thường là một năm đối với một thị trường cụ thể. Tác động:  Hạn chế số lượng nhập khẩu đồng thời ảnh hưởng đến giá nội địa của hàng hoá.  Hạn ngạch nhập khẩu là công cụ quan trọng để thực hiện chiến lược sản xuất thay thế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất nội địa. Đối với Chính phủ và các doanh nghiệp, hạn ngạch cho biết trước số lượng nhập khẩu. Xét về mặt bảo hộ không có sự khác biệt nào giữa thuế quan và hạn ngạch. Tuy nhiên sự tác động của hạn ngạch nhập khẩu khác với sự tác động của thuế quan ở hai mặt. Mức thuế quan tối thiểu ít nhất cũng mang lại thu nhập cho Chính phủ, có thể cho phép giảm những loại thuế khác và do đó nó bù đắp một phần nào cho người tiêu dùng trong nước. Trong khi đó, hạn ngạch nhập khẩu lại đưa lại lợi nhuận có thể rất lớn cho những người may mắn xin được giấy phép nhập khẩu theo hạn ngạch. Hạn ngạch nhập khẩu thường được quy định cho một loại sản phẩm đặc biệt hay sản phẩm và thị trường đặc biệt. Ở Việt Nam hiện nay hạn ngạch nhập khẩu chỉ áp dụng đối với 4 loại hàng: ô tô 12 chỗ ngồi, xe 2 bánh gắn máy, linh kiện điện tử LKD , SKD , nguyên liệu phụ liệu sản xuất thuốc lá. Để quản lý nhập khẩu các nước cũng áp dụng hạn ngạch xuất khẩu. Hạn ngạch xuất khẩu được quy định theo mặt hàng, theo nước và theo thời gian nhất định. 1.3.2.2. Trợ cấp xuất khẩu Trợ cấp xuất khẩu được sử dụng để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá từ trong nước ra nước ngoài đặc biệt là đối với hàng hoá mới tham gia xuất khẩu. Trợ cấp xuất khẩu có thể được thực hiện bằng cách Nhà nước cấp vốn trực tiếp cho các doanh nghiệp thông qua chính sách đầu tư, thực hiện cho vay ưu đãi thông qua chính sách tín dụng hoặc bằng cách trợ giá. 1.3.2.3. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện Là một biện pháp hạn chế xuất khẩu mà một quốc gia nhập khẩu đòi hỏi quốc gia xuất khẩu phải hạn chế bớt hàng xuất khẩu sang nước mình một cách tự nguyện, nếu không họ sẽ áp dụng các biện pháp trả đũa kiên quyết. Áp dụng cho các quốc gia có khối lượng xuất khẩu quá lớn ở một mặt hàng nào đó. 1.3.2.4. Các biện pháp hành chính, kỹ thuật hạn chế xuất khẩu CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 3 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM Là những tiêu chuẩn về vệ sinh, đo lường, an toàn lao động, bao bì đóng gói, đặc biệt là tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm, vệ sinh phòng dịch, tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường sinh thái... Những quy định này có tác dụng bảo hộ đối với thị trường trong nước, hạn chế dòng vận động của dòng hàng hóa trên thị trường thế giới. Những nước phát triển sẽ có lợi hơn so với các nước chậm phát triển trong việc áp dụng những quy định này. 1.3.2.5. Tín dụng xuất khẩu Là hình thức khuyến khích xuất khẩu bằng cách nhà nước lập các quỹ tín dụng xuất khẩu hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng thương mại đảm bảo gánh chịu rủi ro nhằm tăng cường tín dụng cho hoạt động xuất khẩu. Tín dụng xuất khẩu thường được áp dụng cho các nước phát triển và áp dụng chủ yếu cho các nhóm hàng thiết bị, máy móc, dây truyền... 1.3.2.6 . Một số biện pháp khác  Giấy phép xuất khẩu  Bán phá giá  Hệ thống thuế nội địa.  Cơ quan quản lý ngoại tệ và tỷ giá hối đoái.  Độc quyền mua bán.  Quy định về chứng thư khi làm thủ tục xuất - nhập khẩu.  Thưởng xuất khẩu.  Đặt cọc nhập khẩu. 2. Cán cân thương mại 2.1. Phân biệt Cán cân thanh toán và Cán cân thương mại 2.1.1. Cán cân thanh toán (balance of payment) – BO P Là bản kết toán tổng hợp giá trị bằng tiền của tất cả giao dịch quốc tế của một quốc gia, bao gồm: giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa, và thu nhập từ dịch vụ và đầu tư. 2.1.2. Cán cân thương mại (balance of trade) Là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 4 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng. Cán cân thương mại (CCTM ) là bảng đối chiếu giữa tổng giá trị xuất khẩu (XK) hàng hóa (thường tính theo giá FOB) với tổng giá trị nhập khẩu (NK) hàng hóa (thường tính theo giá CIF) của một nước với nước ngoài trong một thời kì xác định, thường là một năm. 2.2. Bản chất cán cân thương mại Cán cân thương mại của một quốc gia phản ánh khối lượng xuất nhập khẩu về hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia với các nước khác. Về mặt kinh tế, cán cân thương mại thể hiện mối quan hệ tương quan giữa việc tăng hay giảm lượng giá trị của một nền kinh tế nghĩa là nó phản ánh lượng tiền tăng lên hoặc giảm đi của một quốc gia trong một thời gian nhất định. Trạng thái của cán cân thương mại thường rơi vào 3 trạng thái. Trạng thái của cán cân thương mại được dựa vào sự chênh lệch của giá trị giao dịch xuất khẩu và nhập khẩu. + Khi mức chênh lệch là lớn hơn không, thì cán cân thương mại có thặng dư. + Khi mức chênh lệch nhỏ hơn không, thì cán cân thương mại có thâm hụt. + Khi mức chênh lệch đúng bằng không, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng. 2.3. Các nhân tố tác động đến cán cân thương mại 2.3.1. Nhập khẩu Có xu hướng tăng khi GD P tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh hơn. Sự gia tăng của nhập khẩu khi GD P tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (Marginal propensity to import - MPI). MPI là phần của GD P có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu. Ví dụ, MPI bằng 0,2 nghĩa là cứ 1 đồng GDP có thêm thì người dân có xu hướng dùng 0,2 đồng cho nhập khẩu. Ngoài ra, nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá thị trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. 2.3.2. Xuất khẩu Chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia khác vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó chủ yếu phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Chính vì thế trong các mô hình kinh tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định. 2.3.3. Tỷ giá hối đoái CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 5 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM Là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc tế. Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn đối với người nước ngoài. Vì thế việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên. 2.3.4. Ảnh hưởng của dòng vốn CCTM là một trong những yếu tố của tài sản quốc gia. CCTM phụ thuộc vào chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm trong nền kinh tế. Mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được bù đắp bởi các dòng vốn đầu tư nước ngoài như: FDI, ODA , FPI, kiều hối và các dòng vốn vay thương mại khác. 2.3.5. Ảnh hưởng của thu nhập Khi thu nhập trong nước tăng, nhu cầu nhập khẩu hàng hóa cũng đồng thời tăng theo. Trong khi đó, khi kinh tế nước ngoài tăng trưởng, họ cũng tăng nhu cầu nhập khẩu hàng hóa từ nước khác và làm cho xuất khẩu của đối tác thương mại tăng theo. Do vậy, CCTM phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế. 2.3.6. Các chính sách thương mại và phát triển kinh tế Các chính sách thuế, bảo hộ hàng hóa trong nước cũng ảnh hưởng mạnh đến CCTM . Những rào cản này hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng để cải thiện CCTM . Các chính sách liên quan đến phát triển kinh tế và xuất nhập khẩu khác sẽ ảnh hưởng mạnh đến CCTM . Ngoài ra, CCTM còn phụ thuộc vào cơ cấu của nền kinh tế và chiến lược phát triển công nghiệp của quốc gia. 2.3.7. Tỷ lệ trao đổi Tỷ lệ trao đổi biểu hiện giá mà một nước có thể chấp nhận trả cho hàng hóa nhập khẩu với giá xuất khẩu của nước đó. Nói cách khác là tỷ số giữa giá xuất khẩu và giá nhập khẩu. Do đó, tỷ lệ trao đổi có ảnh hưởng đến CCTM. 2.3.8. Phá giá tiền tệ Phá giá (hay nâng giá) là giảm bớt (hay tăng) tỷ giá hối đoái được chính phủ ủng hộ. Phá giá đưa đến tăng giá hàng nhập khẩu và giảm giá hàng xuất khẩu của quốc gia. Do đó, tạo ra một khoản thặng dư trong tài khoản vãng lai của CCTM . Ngoài ra còn có các yếu tố ảnh hưởng như: CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 6 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM + Các chính sách của chính phủ đối với thương mại. + Thu nhập của người tiêu dùng trong nước và người tiêu dùng nước ngoài. + Các chu kỳ kinh tế của quốc gia và thế giới. 2.4. Tác động của cán cân thương mại đến nền kinh tế Đối với một nền kinh tế mở, cán cân thương mại có hai tác động quan trọng: - Xuất khẩu ròng bổ sung vào tổng cầu (AD) của nền kinh tế. - Số nhân đầu tư tư nhân và số nhân chi tiêu chính phủ. 2.4.1 Xuất khẩu ròng và GDP cân bằng Bảng dưới đây trình bày một nền kinh tế với các bộ phận cấu thành ban đầu như một nền kinh tế đóng, sau đó bổ sung xuất khẩu, nhập khẩu cho nền kinh tế mở. - Cột 1 là mức GD P ban đầu trong nền kinh tế đóng. - Cột 2 là cầu trong nước bao gồm tổng tiêu dùng (C), đầu tư (I) và mua hàng hóa, dịch vụ của chính phủ (G). - Cột 3 là xuất khẩu và vì xuất khẩu phụ thuộc tình hình kinh tế của các nước bạn hàng nên giả định nó không thay đổi. - Cột 4 là nhập khẩu, nhập khẩu chủ yếu phụ thuộc GD P nên giả định nó luôn bằng 10% GD P. - Giá trị xuất khẩu ròng tại cột 5 bằng xuất khẩu trừ đi nhập khẩu, nó mang giá trị dương nếu xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu và ngược lại, sẽ mang giá trị âm. CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 7 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM - Sau khi cộng giá trị đóng góp của xuất khẩu ròng vào cầu nội địa để tạo thành tổng chi tiêu và chính là tổng cầu ta được giá trị ghi tại cột 6. Hình vẽ sau minh họa cho ví dụ với các thông số trong bảng trên. Trong đó các kí hiệu: - C (consumption) là tiêu dùng của tất cả các cá nhân (hộ gia đình) trong nền kinh tế. - I (gross investment) là đầu tư của các nhà kinh doanh vào cơ sở kinh doanh. Đây được coi là tiêu dùng của các nhà đầu tư. Lưu ý, đừng lẫn lộn điều này với đầu tư mang tính đầu cơ tích trữ vào thị trường chứng khoán và trái phiếu. - G (government spending) là tổng chi tiêu của chính quyền (tiêu dùng của chính quyền). Quan hệ của phần này đối với các phần còn lại của GD P được mô tả trong lý thuyết khả dụng (có thể đem đi tiêu). - X (Net Export) là "xuất khẩu ròng" của nền kinh tế. Nền kinh tế mở đạt mức cân bằng khi tổng chi tiêu bằng GDP nghĩa là đường tổng chi tiêu cắt đường phân giác OO' (ứng với mức GD P ban đầu là 35 tỷ USD). Đó chính là điểm E trên đồ thị bên phải. Ở điểm này cầu nội địa chỉ có 31,5 tỷ USD nhưng cầu về xuất khẩu ròng (khoảng cách giữa đường C+G+I+X và đường C+G+I) là 3,5 nên tổng chi tiêu là 35 tỷ USD và đúng bằng GDP. Như vậy nền kinh tế mở có thể đạt mức sản lượng cân bằng ở mức xuất khẩu ròng khác 0. Tại điểm có mức xuất khẩu ròng bằng 0 (đường C+G+I cắt đường C+G+I+X), tổng cầu trong nước bằng với tổng cầu và đều bằng 63 tỷ USD. Về phía bên trái điểm này, cầu xuất khẩu ròng luôn dương, tổng cầu nội địa nhỏ hơn tổng chi tiêu và ở bên phải, cầu xuất khẩu ròng luôn âm, tổng cầu nội địa lớn hơn tổng chi tiêu. 2.4.2. Số nhân trong nền kinh tế mở CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 8 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM Trong đồ thị trên, độ dốc của đường tổng chi tiêu C+I+G+X nhỏ hơn độ dốc của đường cầu nội địa C+G+I, điều đó là do sự "rò rỉ" qua nhập khẩu. Giả sử nền kinh tế có xu hướng tiêu dùng cận biên (marginal propensity to consume - M PC) là 0,75 thì khi GD P tăng 100 USD, chi cho tiêu dùng tăng 75 USD. Nhưng cũng theo giả định trong ví dụ này, xu hướng nhập khẩu biên MPZ là 0,10 (nhập khẩu luôn bằng 10% GDP) nên chi tiêu cho nhập khẩu cũng tăng 10 USD. Do đó chi tiêu cho hàng hóa sản xuất trong nước chỉ còn tăng 65 USD mà thôi. Chính vì thế độ dốc của đường chi tiêu giảm từ 0,75 xuống còn có 0,65. Tác động của "rò rỉ" qua nhập khẩu có tác động mạnh đến số nhân của nền kinh tế. Trong nền kinh tế đóng, số nhân là 1/(1-M PC) còn trong nền kinh tế mở, do sự rò rỉ qua nhập khẩu, số nhân chỉ còn 1/(1-(MPC-M PZ)). Khi không có ngoại thương, với MPC bằng 0,75 thì số nhân là 1/(1-0,75) = 4; khi có ngoại thương số nhân chỉ còn 1/(1-(0,75-0,10)) = 2.857. Những nền kinh tế nhỏ hầu hết đều rất mở, do vậy tác động của nhập khẩu đến số nhân của nền kinh tế đặc biệt quan trọng. Từ ví dụ trên có thể dễ dàng suy ra nếu xu hướng nhập khẩu biên là 0,75 thì số nhân là 1 nghĩa là hiệu ứng số nhân đã bị triệt tiêu hoàn toàn bởi rò rỉ qua nhập khẩu. II. Thực trạng và nguyên nhân tại Việt Nam 1. Thực trạng chính sách ngoại thương ở Việt Nam 1.1. Các biện pháp thuế quan Nhìn chung chính sách thuế quan của các quốc gia trong điều kiện hiện nay đều có ảnh hưởng nới lỏng sự hạn chế thương mại, từng bước giảm dần các mức thuế trên cơ sở các hiệp định đa phương và song phương. Thương lượng trong việc xây dựng biểu thuế quan được coi như là một đặc trưng cơ bản của chính sách thuế xuất nhập khẩu trong những thập kỷ gần đây. Sự hình thành của các liên minh thuế quan đã có những ảnh hưởng nhất định đến lượng hàng hóa được trao đổi giữa các nước trong liên minh và các nước ngoài liên minh. Điều này dường như đã trở thành một xu hướng trong việc hoạch định chính sách thuế quan hiện nay nhằm tự do hóa thương mại giữa các nước trong khu vực và bảo hộ thị trường khu vực trước sự cạnh tranh của hàng hóa đến từ bên ngoài. Theo đó, Việt Nam cam kết ràng buộc trong WTO như sau:  Một số mặt hàng đang có mức thuế cao từ trên 20% sẽ được cắt giảm thuế ngay sau khi gia nhập. Những nhóm mặt hàng có cam kết cắt giảm thuế nhiều nhất gồm: Hàng dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc thiết bị - điện tử. CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 9 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM  Trong toàn bộ biểu cam kết, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế với khoảng 3.800 dòng thuế (chiếm 35,5% số dòng của biểu thuế); ràng buộc ở mức thuế hiện hành với khoảng 3.700 dòng (chiếm 34,5% số dòng của biểu thuế); ràng buộc theo mức thuế trần – cao hơn mức thuế suất hiện hành với 3.170 dòng thuế (chiếm 30% số dòng của biểu thuế), chủ yếu là đối với các nhóm hàng như: Xăng dầu, kim loại, hoá chất, một số phương tiện vận tải…  Việt Nam cũng cam kết tham gia một số Hiệp định tự do hoá theo ngành. Những ngành mà Việt Nam cam kết tham gia đầy đủ là sản phẩm công nghệ thông tin (ITA), dệt may và thiết bị y tế. Những ngành mà Việt Nam tham gia một phần là các thiết bị máy bay, hoá chất và thiết bị xây dựng. Thời gian ân hạn để giảm thuế từ 3 – 5 năm. Trong các hiệp định trên, ITA là quan trọng nhất, theo đó khoảng 330 dòng thuế thuộc diện công nghệ thông tin sẽ phải có thuế suất 0% sau 3 – 5 năm. Như vậy, các sản phẩm điện tử như: Máy tính, điện thoại di động, máy ghi hình, máy ảnh kỹ thuật số….sẽ đều có thuế suất 0% sau 3 – 5 năm, tối đa là sau 7 năm. Việt Nam bảo lưu quyền áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với các mặt hàng: Đường, trứng gia cầm, thuốc lá và muối. Riêng muối là mặt hàng WTO không coi là nông sản, do vậy thường không được áp dụng công cụ hạn ngạch thuế quan nhưng ta kiên quyết giữ để bảo vệ lợi ích của diêm dân. Đối với 4 mặt hàng này, mức thuế trong hạn ngạch là tương đương mức thuế MFN hiện hành (trứng 40%, đường thô 25%, đường tinh 40 – 50%, thuốc lá 30%, muối ăn 30%). Ta cũng cam kết tham gia đầy đủ 3 thoả thuận tự do hoá theo ngành gồm: Ngành công nghệ thông tin, dệt may, thiết bị y tế và tham gia một phần với các thoả thuận ngành máy bay, hoá chất, thiết bị xây dựng… sau 3 – 5 năm. 1.1.1. Đối với thuế xuất khẩu WTO không có nội dung nào yêu cầu cam kết về thuế xuất khẩu. Tuy nhiên, một số thành viên (chủ yếu là các nước phát triển) yêu cầu cắt giảm tất cả thuế xuất khẩu, đặc biệt đối với phế liệu kim loại màu và kim loại đen vào thời điểm gia nhập. 1.1.2. Đối với thuế nội địa Việt Nam cam kết thực hiện thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu, bia trong vòng 3 năm kể từ khi gia nhập. Tất cả các loại rượu được chưng cất có nồng độ từ 20 độ cồn trở lên sẽ chịu mức thuế tuyệt đối tính theo lít của rươu cồn nguyên chất hoặc một mức thuế phần trăm. Đối với bia trong vòng 3 năm kể từ khi gia nhập sẽ áp dụng một mức thuế phần trăm chung, không phân biệt hình thức đóng gói, bao bì. CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 10 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM 1.1.3. Về thuế nhập khẩu M ức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong 5 – 7 năm. Cụ thể, có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô – xe máy…vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định. Thuận lợi và hạn chế trong chính sách thuế xuất nhập khẩu VN hiện nay Thuận lợi Chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành đã có nhiều thay đổi căn bản và hoàn thiện hơn nhiều so với trước đây. Cụ thể:  Biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện hành được xây dựng trên cơ sơ danh mục điều hòa (HS) 1996 của Hội đồng hợp tác hải quan thế giới, đã bước đầu tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân loại hàng hóa dựa trên cấu tạo, đặc điểm của hàng hóa...góp phần làm cho chính sách thuế xuất nhập khẩu dần dần phù hợp với thông lệ quốc tế.  Thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng được thiết kế hợp lý hơn. Hiện nay đối với phần lớn hàng xuất khẩu có thuế suất 0%, trừ một số mặt hàng như dầu thô, một số loại quặng và song mây. Thuế nhập khẩu được quy định có 3 mức: thuế suất ưu đãi, thuế suất thông thường và thuế suất ưu đãi đặc biệt để áp dụng trong những trường hợp khác nhau tùy thuộc vào mức độ quan hệ thương mại giữa VN với các nước, tạo thuận lợi trong đàm phán về thuế, phù hợp với các quy định quốc tế mà nước ta cam kết thực hiện.  Mức thuế nhập khẩu tối đa có xu hướng giảm, nhà nước còn quy định bỏ áp dụng giá tối thiểu đối với tất cả các mặt hàng nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.  Công tác quản lý thực thi chính sách thuế xuất nhập khẩu được hoàn thiện hơn. Các thủ tục hải quan tinh gọn, tạo điều kiện tốt cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hạn chế Về thuế suất thuế nhập khẩu: thuế nhập khẩu hiện nay với chức năng bảo vệ sản xuất trong nước nên thuế xuất thường xuyên được thay đổi cho phù hợp với những mặt hàng trong nước đã sản xuất được, chính điều này cũng tạo ra những lệch lạc trong định hướng đầu tư trong nước, đặc biệt là trong thu hút đầu tư nước ngoài. CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 11 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM Hệ thống chính sách thuế hiện nay vẫn còn phức tạp và thiếu tính ổn định, làm cho chi phí quản lý thu thuế lớn, ảnh hưởng tới hiệu quả thu thuế, tạo điều kiện cho việc trốn thuế và bóp méo hệ thống thuế. Đồng thời, nó làm mất định hướng của nhà đầu tư, bóp méo sự lựa chọn của người sản xuất và vi phạm một nguyên tắc chung của thông lệ quốc tế. Hệ thống chính sách thuế được xây dựng để phục vụ nhiều mục tiêu trong từng sắc thuế, làm mất đi tính trung lập – một yếu tố dẫn tới hiệu quả trong phân bổ nguồn lực. Có nhiều mục tiêu trong chính sách thuế không thống nhất với nhau, do đó nếu đạt được mục tiêu này thì lại gây thiệt hại tới mục tiêu khác. Còn thiếu sự kết hợp hài hòa giữa các sắc thuế trong hệ thống chính sách thuế, giữa mục tiêu số thu cho ngân sách và mục tiêu kích thích sản xuất phát triển và điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua từng sắc thuế. Thuế tiêu thụ đặc biệt còn được sử dụng cho chức năng bảo hộ sản xuất trong nước, nên có sự phân biệt đối xử giữa một số mặt hàng nhập khẩu và sản xuất trong nước (như ô tô, thuốc lá…) dẫn đến vi phạm nguyên tắc của WTO. 1.2. Các biện pháp phi thuế quan 1.2.1. Hạch nghạch nhập khẩu 1.2.1.1. Trứng, muối, đường Theo Thông tư 22/2012/TT-BCT của Bộ Công Thương trong thời gian từ ngày 6/8/2012 đến hết ngày 31/12/2012. Theo đó, lượng muối nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan năm 2012 là 102.000 tấn; đường tinh luyện, đường thô là 70.000 tấn, lượng trứng gia cầm là 40.000 tá. Bộ Công Thương sẽ phân giao hạn ngạch thuế quan nhập khẩu 100.000 tấn muối công nghiệp cho các thương nhân trực tiếp sử dụng làm nguyên liệu sản xuất hóa chất và 2.000 tấn muối tinh khiết cho các thương nhân trực tiếp sử dụng làm nguyên liệu sản xuất thuốc, sản phẩm y tế. Theo Thông tư số 111/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính, muối (kể cả muối ăn và muối đã bị làm biến tính) và natri clorua tinh khiết, có hoặc không ở dạng dung dịch nước hoặc có chứa chất chống đóng bánh hoặc chất làm tăng độ chẩy; nước biển có thuế suất ngoài hạn ngạch là 50-60%. Bộ cũng phân giao hạn ngạch thuế quan nhập khẩu 50.000 tấn đường tinh luyện và đường thô cho các thương nhân trực tiếp sử dụng đường làm nguyên liệu sản xuất và 20.000 tấn đường thô cho thương nhân sản xuất đường để tinh luyện cung cấp phục vụ sản xuất, tiêu dùng. Đường thô chưa pha thêm hương liệu hoặc chất màu gồm đường của cải, các loại CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 12 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM đường mía khác có thuế suất thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch ở mức 80%. Đối với đường loại khác, đã pha thêm hương liệu hoặc chất màu có thuế suất thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch ở mức 100%... Các mặt hàng như trứng chim và trứng gia cầm nguyên vỏ, tươi, đã bảo quản, hoặc đã làm chín có thuế suất nhập khẩu ngoài hạn ngạch là 80%. 1.2.1.2. Thép Theo Tổng cục hải quan, trong 2 tháng đầu năm 2013, tổng lượng nhập khẩu sắt thép là 1,3 triệu tấn, tăng 9,3% trị giá 941 triệu USD, nhập khẩu từ Nhật, Trung Quốc, Đài Loan tăng so cùng kì năm 2012. Đáng chú ý là những sản phẩm thép Trung Quốc đã lợi dụng chính sách thuế của VN để cạnh tranh không lành mạnh. Lợi dụng quy định thép hợp kim được hưởng thuế suất 0% nhiều nhà nhập khẩu đã phù phép thép xây dựng sang thép hợp kim, bàn thấp hơn 300-500 nghìn / tấn so với thép trong nước, ảnh hưởng đến tiêu thụ trong nước. Ví như thép cuộn ở VN cơ cấu 20-25% nay tụt xuống 20% nghĩa là thép nước ngoài đã chiếm mất thị phần. Đã có quy định nguyên tố Bo từ 0,0008% là thép hợp kim, nếu thay đổi phải thay cả quy định này vì liên quan đến quy chuẩn thế giới. M ặt khác do chính sách quản lý hàng nhập khẩu còn khá lỏng lẻo, chưa bảo vệ được hàng sản xuất trong nước. Do đó về chính sách, Nhà nước cũng cần điều chỉnh lại, bản thân các doanh nghiệp cũng cần nổ lực đổi mới công nghệ, tiết kiệm chi phí nhằm nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh để có thể vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay 1.2.2. Trợ cấp xuất khẩu Việt Nam trợ cấp một số mặt hàng sau:  Gạo: Hỗ trợ lãi suất thu mua lúa gạo trong vụ thu hoạch, hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo, hỗ trợ lãi suất xuất khẩu gạo trả chậm, bù lỗ cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo, thưởng xuất khẩu.  Cà phê: Hoàn phụ thu, bù lỗ cho tạm trữ cà phê xuất khẩu, bù lỗ cho doanh nghiệp xuất khẩu cà phê, hỗ trợ lãi suất tạm trữ, thưởng xuất khẩu.  Rau quả hộp: Hỗ trợ xuất khẩu cho dưa chuột, dứa hộp, thưởng xuất khẩu.  Thịt lợn: Hỗ trợ lãi suất mua thịt lợn, bù lỗ xuất khẩu thịt lợn, thưởng xuất khẩu.  Đường: Hỗ trợ giá, hỗ trợ giống mía, giảm thuế 50% VAT, hỗ trợ giảm lãi suất đầu tư, bù chênh lệch tỷ giá, hỗ trợ lãi suất thu mua mía trong kì thu hoạch, hỗ trợ phát triển vùng mía nguyên liệu. CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 13 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM  Chè, lạc nhân, thịt gia súc, gia cầm các loại, hạt tiêu, hạt điều: Thưởng theo kim ngạch xuất khẩu.  Sản phẩm, phụ tùng xe 2 bánh, gắn máy: Thuế suất nhập khẩu ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hóa.  Xe đạp, quạt điện: Ưu đãi về tín dụng, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế xuất khẩu, miễn thuế nhập khẩu linh kiện, phụ tùng, vật tư, thiết bị, hỗ trợ lãi suât vay vốn ngân hàng.  Tàu biển 11.500 tấn, động cơ đốt trong dưới 30CV, máy thu hình màu, máy vi tính: Miễn thuế nhập khẩu, ưu đãi về thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.  Sản phẩm phần mềm: Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi về thuế giá trị gia tăng,miễn thuế xuất khẩu, miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu, ưu đãi về tín dụng, ưu đãi về sử dụng đất và thuê đất.  Sản phẩm cơ khí: Ưu đãi vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước  Sản phẩm dệt may: Ưu đãi vốn tín dụng, ưu đãi đầu tư, bảo lãnh của Chính phủ, cấp lại tiền sử dụng vốn để tái đầu tư, hỗ trợ kinh phí xúc tiến thương mại.  Gốm sứ, đồ mỹ nghệ, mây tre lá: Thưởng theo kim ngạch xuất khẩu. Hỗ trợ bằng tín dụng giúp cho nhà sản xuất có đủ điều kiện tài chính để mua hàng hóa phục vụ sản xuất xuất khẩu. Một số ví dụ về tài trợ xuất khẩu  Trợ cấp tín dụng xuất khẩu: Theo thông tin từ VDB (Ngân hàng phát triển Việt Nam), trong 3 năm qua tín dụng đầu tư nhà nước qua ngân hàng phát triển đã có mứa tăng bình quân 78%/năm. VDB quản lý cho vay trên 3260 dự án đầu tư với tổng mức đầu tư khoảng 430000 tỷ đồng, trong đó vốn do VDB cho vay khoảng 160.000 tỷ đồng. Trong lĩnh vực hỗ trợ xuất khẩu, hiện VDB có khoảng 390 doanh nghiệp là những khách hàng truyền thống và kim ngạch xuất khẩu hàng đầu trong cả nước. Tổng giải ngân là 76.000 tỷ, riêng 2009 VDB giải ngân 31.000 tỷ. Vốn tín dụng xuất khẩu VDB cho vay thương xuyên chiếm đến 35-60% kim ngạch xuất khẩu mặt hàng thủy sản, 35-55% mặt hàng tàu biển, 15-25% mặt hàng cà phê. Hiện có trên 60% DN XK thủy sản hàng đầu của Việt Nam có quan hệ tín dụng với VDB.  Thưởng xuất khẩu: đã được áp dụng từ năm 1998, số tiền thưởng đều tăng qua mỗi năm. CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 14 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM Năm 1998 Số doanh nghiệp 66 Số tiền thưởng (tỷ) 1999 106 6,210 2000 158 10,595 2001 196 12,744 2002 222 16,368 2003 232 19,532 2004 349 29,408 4,685 1.2.3. Các biện pháp hành chính kỹ thuật hạn chế nhập khẩu Hiện nay các hệ thống rào cản kỹ thuật mà tiêu biểu là TBT (rào cản kỹ thuật) và SPS (biện pháp kiểm dịch động thực vật) ở Việt Nam được bổ sung khá nhiều nhưng thực tế chúng ta chưa sử dụng chúng như những hàng rào bảo hộ giống như các nước phát triển. Tình trạng hàng hoá kém chất lượng vẫn tràn lan trên thị trường Việt Nam đã làm xôn xao dư luận đặc biệt từ sau khi gia nhập WTO. Các bộ tiêu chẩn TCVN được ban hành hầu như không còn phù hợp với xu thế phát triển nhanh về công nghệ , về yêu cầu bảo vệ môi trường. Ví như trong ngành dệt có gần 200 tiêu chuẩn, thì có tới 72 tiêu chuẩn cần phải xem xét hoặc thay thế, 49 tiêu chuẩn cần được xây dựng mới, tập trung vào các phương pháp xác định tồn dư kim loại và hoá chất có tác động đến con người… 1.2.4. Giấy phép nhập khẩu Nhập khẩu xe theo diện hồi hương: Tổng cục Hải quan vừa điều chỉnh tăng thời hạn cấp giấy phép nhập khẩu ô tô, xe máy dạng tài sản di chuyển của Việt kiều hồi hương, thêm 5 ngày làm việc. tức là không quá 7 ngày ( không bao gồm ngày nghỉ và nghỉ lễ), thay vì 2 ngày so với quy định hiện hành. Việc điều chỉnh này giúp công tác thẩm định hồ sơ, thực hiện đúng trình tự, thủ tục, và các điều kiện trước khi cấp giấy phép, qua đó tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với các loại tài sản, phương tiện nhập khẩu theo hình thức này. Theo đó, Việt kiều hồi hương được phép mang về nước 1 xe ô tô đang sử dụng theo chế độ nhập khẩu tài sản di chuyển của người Việt định cư ở nước ngoài, đã hoàn tất thủ tục đăng kí thường trú tại Việt nam, xe này được miễn thuế nhập khẩu, thuế VAT. CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 15 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM 2. Thực trạng cán cân thương mại Việt Nam và nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó 2.1. Thực trạng cán cân thương mại ở Việt Nam Sau 3 năm gia nhập tổ chức thương mại (WTO), hoạt động ngoại thương nói chung, đặc biệt hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam nói riêng có nhiều thuận lợi để phát triển. Các nhà xuất khẩu Việt Nam có điều kiện tiếp cận thị trường thế giới dễ dàng hơn, những hạn chế và rào cản thuế đối với hàng hoá Việt Nam được cắt giảm. Năm 2008, kinh tế-xã hội nước ta diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp, khó lường. Giá dầu thô và giá nhiều loại nguyên liệu, hàng hoá khác trên thị trường thế giới tăng mạnh trong những tháng giữa năm kéo theo sự tăng giá ở mức cao của hầu hết các mặt hàng trong nước, từ đó cũng ảnh hưởng đến kim ngạch xuất nhập khẩu nước ta. Về xuất khẩu: Tính chung cả năm 2008, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá ước đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 34,9 tỷ USD, tăng 25,7%, chiếm 49,7% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực kinh tế trong nước đạt 28 tỷ USD, tăng 34,7%, chiếm 50,3%. Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, tuy kim ngạch hàng hoá xuất khẩu năm 2008 tăng khá cao so với năm 2007 nhưng nếu loại trừ trị giá tái xuất sắt, thép, vàng và yếu tố tăng giá của 8 mặt hàng chủ yếu (dầu thô, than đá, gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều, chè) thì kim ngạch hàng hoá xuất khẩu chỉ tăng 13,5%. Về nhập khẩu: Trong 5 tháng đầu năm, nhập siêu tăng mạnh, cao hơn gần 3,4 lần so với cùng kỳ năm 2007, lên tới 14,4 tỷ USD. Nhưng liên tiếp trong 7 tháng còn lại, nhập siêu được kiềm chế ở mức thấp; một trong những nguyên nhân chính là do giá hàng nhập khẩu trên thị trường thế giới giảm mạnh, đặc biệt là xăng dầu. Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính 80,4 tỷ USD, tăng 28,3% so với năm 2007, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 51,8 tỷ USD, tăng 26,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 28,6 tỷ USD, tăng 31,7%. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá của một số mặt hàng thì kim ngạch nhập khẩu năm nay chỉ tăng 21,4% so với năm 2007. Năm2009, do những hậu quả còn tồn đọng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, nên cán cân thương mại Việt Nam vẫn nằm trong tình trạng thâm hụt cao. Tuy nhiên, con số thâm hụt đã giảm hơn so với năm trước. CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 16 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM Về xuất khẩu: Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2009 đạt khoảng 56,6 tỷ USD, giảm 9,7% so với năm 2008 và bằng 87,6% kế hoạch (kế hoạch điều chỉnh tăng 3% của Quốc hội). Kim ngạch của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 29,85 tỷ USD, chiếm 52,8% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giảm 13,5% so với năm 2008; của khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 26,7 tỷ USD, chiếm 47,2%. giảm 5,1%, so với năm 2008. Về nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá năm 2009 khoảng 68,8 tỷ USD, giảm 14,7% so với năm 2008 (năm 2008 so với 2007 tăng 28,7%), trong đó khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 24,87 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 36,1% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước, giảm 10,8%; Kim ngạch nhập khẩu của khối doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 43,96 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 63,9%, giảm 16,8% so với năm 2008. Năm 2009, Trung Quốc vẫn là thị trường dẫn đầu về cung cấp hàng nhập khẩu cho nước. Tiếp theo là N hật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia … Cán cân thương mại nước ta luôn nằm trong tình trạng thâm hụt, đặc biệt đang có xu hướng tăng nhanh vào những năm gần đây. Và thực tế cho thấy các mặt hàng xuất khẩu chưa có giá trị cao, giá cả cũng không ổn định. Đó là một điều đáng báo động cho nền kinh tế nước ta. Năm 2012-2013 Tuy còn nhiều thách thức, nhưng năm 2012 vẫn để lại một vài điểm sáng: xuất khẩu tăng 18,3% dù nhu cầu bên ngoài vẫn còn yếu; cán cân thương mại thặng dư sau 19 năm nhập siêu. CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 17 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM Cán cân thương mại hàng hoá của cả nước trong 2 tháng năm 2013 thặng dư 782 triệu USD. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tháng 2/2013 đạt gần 14,39 tỷ USD, giảm 35,1% so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu đạt gần 7,15 tỷ USD, giảm 37,7% và nhập khẩu là 7,24 tỷ USD, giảm 32,3%. Cán cân thương mại hàng hoá tháng 02/2013 thâm hụt 94 triệu USD. Tính đến hết tháng 2/2013, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá cả nước đạt 36,59 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2012; trong đó, xuất khẩu là gần 18,69 tỷ USD, tăng 22% và nhập khẩu là 17,91 tỷ USD, tăng 14,1%. Cán cân thương mại hàng hoá của cả nước trong 2 tháng năm 2013 thặng dư 782 triệu USD. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại giữa Việt Nam và ASEAN 6 tháng đầu năm 2008 – 2012: CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 18 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM Cán cân thương mại Việt Nam-Ấn Độ sắp cân bằng Cũng theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong năm 2012 Việt Nam nhập khẩu hàng hóa có xuất xứ từ Ấn Độ đạt 2,16 tỷ USD, trong khi xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này đạt 1,78 tỷ USD. Thâm hụt thương mại hàng hóa của Việt Nam từ thị trường này đã được giảm xuống còn 378 triệu USD, chưa bằng một nửa mức thâm hụt thương mại của năm 2011. Với xu hướng này, cán cân thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và Ấn Độ đang được kỳ vọng sẽ cân bằng trong năm 2013. Thâm hụt thương mại của Việt Nam từ Ấn Độ đã giảm xuống đáng kể trong những năm gần đây là nhờ xuất khẩu tăng trưởng rất mạnh (năm 2010 và 2011 tăng lần lượt là 236%, 157%). Trong đó, hai mặt hàng chính xuất khẩu sang thị trường này tăng mạnh gồm: điện thoại các loại và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện. Tổng kim ngạch của hai nhóm hàng này chiếm lần lượt là 30% và 35% trong tổng trị giá hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang Ấn Độ trong năm 2011 và 2012. Cùng chung xu hướng với tình hình nhập khẩu của cả nước, nhập khẩu hàng hóa từ Ấn Độ giảm 7,9% trong năm 2012, đạt trị giá 2,16 tỷ USD. Trong đó, Ấn Độ dẫn đầu về xuất khẩu ngô vào Việt Nam, đứng thứ 2 về xuất khẩu dược phẩm, nguyên phụ liệu dược phẩm và đứng thứ 3 về xuất khẩu bông, nguyên phụ liệu dệt may. Nhóm hàng thức ăn gia súc năm 2011 dẫn đầu về nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam nhưng lại giảm mạnh trong năm 2012, chủ yếu do giảm nhập khẩu khô dầu đậu tương. Ngược lại nhập khẩu ngô hạt từ thị trường này lại tăng mạnh và vươn lên dẫn đầu trong năm 2012. Số liệu thống kê hải quan mới nhất cũng cho thấy, trong tháng đầu tiên của năm 2013, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và Ấn Độ đạt gần 420 triệu USD, tăng 114,5 % so với tháng 12-2012, trong đó, nhập khẩu đạt 246 triệu USD, tăng 14,5% và xuất khẩu là 173 triệu USD, tăng 14,4%. Cán cân thương mại hàng hóa với Ấn Độ vì vậy thâm hụt hơn 73 triệu USD, tăng 14,9% so với tháng 12-2012. Việt Nam có cán cân thanh toán cân bằng nhất châu Á - Theo TTVN/ANZ Theo ANZ, cán cân tài khoản vãng lai hàm ý rằng so với Trung Quốc và Ấn Độ, Việt Nam vẫn là một thị trường mang lại nhiều cơ hội đầu tư và lợi nhuận hơn. Báo cáo tháng 3/2012 của ANZ về tình hình kinh doanh tại các nền kinh tế mới nổi cho thấy những kết quả trái ngược, đặc biệt là với những nền kinh tế lớn của khu vực. CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 19 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM Các nền kinh tế mới nổi tại châu Á vốn nhiều năm nay luôn duy trì thặng dư cán cân thanh toán lớn do mô hình kinh tế với tỷ lệ tiền tiết kiệm trên thu nhập ở mức cao. Một mức thặng dư cao tại khu vực này đòi hỏi thâm hụt từ các khu vực khác, chủ yếu là từ nền kinh tế Mỹ, nhằm đạt được cân bằng toàn cầu. Thật vậy, dữ liệu công bố bởi ANZ ngày 2/4 cho thấy thặng dư tài khoản vãng lai của khu vực đã sụt giảm đáng kể từ con số 533 tỷ USD trong năm 2007 xuống còn 333 tỷ USD trong năm 2011. Tỷ lệ thặng dư trên GDP thậm chí còn ấn tượng hơn, từ 7% năm 2007 xuống còn 2,5% trong năm 2011. Năm vừa qua cũng là một năm ấn tượng với Việt Nam khi cán cân tài khoản vãng lai được duy trì ở mức khá cân bằng, thặng dư 200 triệu USD, và chỉ chiếm 0,1% GD P, con số thặng dư thấp nhất trong số các nền kinh tế được báo cáo. Trong báo cáo, ANZ loại bỏ các yếu tố liên quan tới dòng thu nhập từ việc đầu tư ra nước ngoài hay dòng vốn tài trợ giữa các chính phủ. Vì vậy, để đơn giản, nhóm thực hiện báo cáo đã sử dụng công thức cán cân thương mại để chỉ cán cân tài khoản vãng lai. CA = X - M = S - I Trong đó: CA: cán cân tài khoản vãng lai X: xuất khẩu CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan