Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực công tại t...

Tài liệu Thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực công tại thành phố đà nẵng

.PDF
88
56
77

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ HỒNG ĐÀO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO KHU VỰC CÔNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG Hà Nội, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ HỒNG ĐÀO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO KHU VỰC CÔNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Ngành: Chính sách công Mã số: 8 34 04 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ TUẤN HƢNG Hà Nội, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin chân thành cảm ơn Thầy giáo, TS. Vũ Tuấn Hưng cùng toàn thể quý Thầy, Cô giáo của Học viện Khoa học xã hội, Cơ sở Học viện Khoa học xã hội tại thành phố Đà Nẵng, Sở Nội vụ và Trung tâm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thành phố Đà Nẵng đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn, quan tâm cung cấp các tư liệu, tài liệu, tạo điều kiện giúp đỡ trong suốt quá trình học tập và chắp bút hoàn thành luận văn. Luận văn được thực hiện dưới sự cố gắng và mong muốn góp phần hoàn thiện hơn việc thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực công tại thành phố Đà Nẵng. Bên cạnh những kết quả đạt được, luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế nhất định, tác giả mong nhận được sự thông cảm và các ý kiến đóng góp chân tình để luận văn được hoàn thiện tốt hơn, nhằm góp thêm phần nhỏ trong công tác thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực công cho thành phố Đà Nẵng nói riêng và cả nước nói chung ngày một hoàn thiện và phát triển hơn trong thời gian đến. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình khác./. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1 Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO KHU VỰC CÔNG .. 9 1.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................................ 9 1.2. Kinh nghiệm thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực công........................................................................................................................ 31 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO KHU VỰC CÔNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .......................................................................................................................... 34 2.1. Khái quát về thành phố Đà Nẵng và các nhân tố tác động đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực công ......................................................................... 34 2.2. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực công tại thành phố Đà Nẵng ......................................................................................... 38 2.3. Đánh giá việc thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực công thành phố Đà Nẵng ....................................................................................... 47 Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO KHU VỰC CÔNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .......................................................................................................... 61 3.1. Quan điểm, phương hướng và mục tiêu ................................................................ 61 3.2. Một số giải pháp .................................................................................................... 68 3.3. Đề xuất, kiến nghị .................................................................................................. 75 KẾT LUẬN ................................................................................................................. 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCH Ban chấp hành CBCCVC Cán bộ, công chức, viên chức CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CS Chính sách ĐH Đại hội HĐND Hội đồng nhân dân KT-XH Kinh tế - xã hội KVC Khu vực công NNL Nguồn nhân lực NXB Nhà xuất bản TP Thành phố UBND Ủy ban nhân dân GRDP Gross Regional Domestic Product Tổng sản phẩm trên địa bàn PCI Provincial Competitiveness Index Chỉ số đánh giá và xếp hạng chính quyền các tỉnh, thành của Việt Nam về chất lượng điều hành kinh tế và xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho việc phát triển doanh nghiệp dân doanh WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại thế giới DANH MỤC BẢNG BIỂU Số hiệu Tên bảng Trang Bảng 2.1 Đánh giá công việc được bố trí 49 Bảng 2.2 Đánh giá chính sách thu hút nguồn nhân lực 55 Bảng 2.3 Đánh giá mức thu nhập 57 Bảng 2.4 Đánh giá cơ hội đào tạo 58 Bảng 2.5 Đánh giá cơ hội thăng tiến 59 Bảng 3.1 Nhu cầu nhân lực trình độ cao của các cơ quan hành chính 64 Bảng 3.2 Nhu cầu nhân lực trình độ cao của các đơn vị thuộc lĩnh vực y tế 65 Bảng 3.3 Nhu cầu nhân lực trình độ cao thuộc lĩnh vực xây dựng, tài nguyên - môi trường 66 Bảng 3.4 Nhu cầu nhân lực trình độ cao thuộc lĩnh vực khoa học công nghệ 67 DANH MỤC HÌNH Số hiệu Tên hình Trang Hình 2.1. Tình hình tăng trưởng tổng sản phẩm xã hội 36 Hình 2.2. Cơ cấu ngành nghề đào tạo của chính sách thu hút 48 Hình 2.3. Cơ cấu nhóm ngành đào tạo 50 Hình 2.4. Bố trí công tác của học viên Đề án 51 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Con người được xem là nguồn lực quan trọng nhất, chi phối các nguồn lực khác và có vai trò quyết định sự phát triển KT-XH của mỗi quốc gia. Do đó, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1947, Bác Hồ đã viết “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, đó là lời dạy của Bác cho cán bộ chúng ta. Đúng vậy, trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, yếu tố con người và nhất là trọng dụng những nhân tài được các thế hệ cha ông quan tâm thì có những cách thức thể hiện khác nhau. Điều đó càng thấy rõ hơn các quốc gia có nguồn lực tài nguyên thiên nhiên khan hiếm thì yếu tố con người, sự sáng tạo của con người trở thành nguồn lực cơ bản để phát triển đất nước. Đất nước ta, kể từ ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đến nay, Đảng ta đã nhận thức ngày càng đầy đủ về vị trí, vai trò, động lực của nguồn lực con người đối với sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước cho nên các chủ trương, CS phát huy NNL ngày càng cụ thể, rõ ràng và thiết thực hơn. Định hướng phát triển trong thời kỳ CNH, HĐH, Đảng ta khẳng định phải “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”[9, tr.85]. Bởi vì “Con người và nguồn nhân lực, là yếu tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [12, tr.201]. Từ đó, Đảng ta xác định một trong những nhiệm vụ chủ yếu để phát triển KT-XH ở nước ta hiện nay là “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu kinh tế - xã hội đất nước” [13, tr.187]. Do vậy, ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, cùng với việc hoạch định các CS phát triển KT-XH thì việc xây dựng đội ngũ CBCCVC làm việc trong hệ thống chính trị nói chung và KVC nói riêng là khâu then chốt, đây là yếu tố quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của đất nước. Tuy nhiên, đội ngũ CBCCVC trong KVC ở nước ta đang trong tình trạng vừa thừa, vừa thiếu đó là thừa về số lượng, thiếu về chất lượng, bộ máy cồng kềnh, chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu công việc đặt ra. Bên cạnh đó, đất nước ta đang trong quá trình CNH, HĐH đất nước để thực hiện 1 chiến lược “đi tắt đón đầu”. Vai trò của NNL, trong đó NNL chất lượng cao là yếu tố thúc đẩy sự tăng trưởng KT-XH, đảm bảo sự phát triển bền vững. Vấn đề đào tạo và sử dụng NNL chất lượng cao luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo trong văn kiện ĐH lần thứ XII khẳng định: “Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là NNL chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội” [16]. Theo đó, ngày 16/10/2003, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển TP Đà Nẵng trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, trong đó đề ra mục tiêu là xây dựng TP Đà Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm KT-XH lớn của miền Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại du lịch và dịch vụ; là TP cảng biển, đầu mối giao thông quan trọng về trung chuyển vận tải trong nước và quốc tế; một trong những trung tâm văn hóa thể thao, giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ của miền Trung; là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh của khu vực miền Trung và cả nước. Đà Nẵng phải phấn đấu để trở thành một trong những địa phương đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH và cơ bản trở thành TP công nghiệp trước năm 2020. Để thực hiện được những mục tiêu trên, Nghị quyết ĐH Đại biểu Đảng bộ TP Đà Nẵng lần thứ XX (2010-2015) và lần thứ XXI (2015-2020) tiếp tục khẳng định nhiệm vụ “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới” là một trong ba đột phá về phát triển KT-XH của TP nhiệm kỳ 2015-2020. Để thực hiện chủ trương trên, ngày 07/7/2004, UBND TP Đà Nẵng ban hành Quyết định số 117/2004/QĐ-UB phê duyệt chương trình phát triển đào tạo nguồn lực có trình độ cao, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ CNH, HĐH, trong đó nhấn mạnh nội dung “Chú trọng đào tạo nguồn lực có chất lượng, có tay nghề cao cho các ngành kinh tế trọng điểm của TP, đặc biệt là các chuyên gia giỏi về quản lý và chuyển giao công nghệ”. Nhận thức tầm quan trọng NNL chất lượng cao trong KVC cũng như đối với sự phát triển KT-XH của TP, những năm qua Đà Nẵng ban hành nhiều CS khuyến khích về vật chất lẫn tinh thần để thu hút nhân tài, NNL chất lượng cao về làm việc trong KVC của TP. Sau khi Đà Nẵng trở thành TP trực thuộc Trung ương thì có nguy cơ thiếu hụt 2 nguồn lực, nhất là nguồn lực trong KVC. Để giải quyết tình trạng trên, TP Đà Nẵng đã ban hành và triển khai kịp thời các CS phát triển NNL, đặc biệt là CS thu hút NNL và đào tạo NNL chất lượng cao. Ngày 17/01/1998, UBND TP Đà Nẵng có Công văn số 93/CV-UB về tiếp nhận, bố trí công tác đối với những người tốt nghiệp đại học loại giỏi, khá chưa có việc làm. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên về CS thu hút NNL đến công tác tại cơ quan, đơn vị của TP. Cùng với CS thu hút NNL, ngày 06/9/2004, UBND TP Đà Nẵng có Quyết định số 151/2004/QĐ-UB về triển khai “Dự án đào tạo bậc đại học tại các cơ sở trong và ngoài nước cho học sinh Trường trung học phổ thông (THPT) chuyên Lê Qúy Đôn”. Nhìn chung, các CS thu hút và đào tạo NNL chất lượng cao của TP là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với quan điểm chỉ đạo của cấp trên và yêu cầu phát triển của TP, vai trò phát triển NNL thể hiện tầm chiến lược của TP, nhất là NNL chất lượng cao trong KVC. NNL này đã đáp ứng được một phần về số lượng lẫn chất lượng và đóng góp rất lớn vào sự phát triển chung của TP. Bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như vẫn còn một tỷ lệ thấp đối tượng thu hút chưa đáp ứng yêu cầu công việc, hạn chế về kỹ năng nhưng chưa có đánh giá sàn lọc để thực hiện phương châm có vào, có ra; Việc phối hợp quản lý và thực hiện CS, chế độ đối với các đối tượng được thu hút chưa đồng bộ, chặt chẽ; CS dành cho đối tượng thu hút có phần vượt trội, tuy nhiên mức lương và phụ cấp theo quy định vẫn còn thấp, chưa đảm bảo cho đối tượng thu hút sống bằng lương, nhất là các trường hợp ngoại tỉnh; Vấn đề phát huy năng lực của đối tượng thu hút còn hạn chế, môi trường làm việc chưa đồng bộ cao, sản phẩm đối tượng thu hút mang lại chưa có tính chất nổi trội, thuyết phục;… Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết trên, học viên chọn đề tài “Thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực công tại thành phố Đà Nẵng” nhằm góp phần hoàn thiện hơn việc thực hiện CS phát triển NNL chất lượng cao để thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng cho quá trình phát triển KT-XH tại địa phương trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 3 NNL là nhân tố cơ bản nhất tạo động lực thúc đẩy quá trình phát triển KT-XH nói chung và sự nghiệp CNH, HĐH nói riêng, vì thế nó luôn là mối quan tâm của các nhà hoạch định, đánh giá CS cũng như giới nghiên cứu khoa học. Có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề phát triển NNL và NNL chất lượng cao; trong đó có một số nghiên cứu điển hình như: Một là, nhóm các công trình nghiên cứu về NNL nói chung gắn với yêu cầu CNH, HĐH đất nước: - Giáo sư-Viện sĩ Phạm Minh Hạc cùng cộng sự thuộc Viện Nghiên cứu Giáo dục đã thực hiện đề tài khoa học cấp nhà nước thuộc chương trình KHXH-04 trong cuốn sách “Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” do NXB Chính trị quốc gia Hà Nội phát hành năm 2001. Theo đó, đề tài đã nghiên cứu các vấn đề về cơ sở lý luận, khoa học của chiến lược phát triển thể chất, đạo đức, trí tuệ, năng lực nghề nghiệp của con người Việt Nam. - PGS. Mai Quốc Chánh (1999), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Từ việc phân tích vai trò của NNL, tác giả chỉ ra sự cần thiết và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng NNL. - TS. Nguyễn Thanh (2002), Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả chỉ ra vai trò quan trọng của NNL và khẳng định NNL là yếu tố quyết định sự thắng lợi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Ngoài ra, vấn đề phát triển NNL ở nước ta còn được nhiều tác giả đề cập đến thông qua bài viết trên các tạp chí, đề tài khoa học và trên các phương tiện thông tin đại chúng như: “Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của TS. Nguyễn Đình Hòa, Tạp chí Triết học, số 1/2004; Đặc biệt các công trình khoa học về “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế” của Phạm Văn Sơn, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, số 2/2017; “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0” của Nguyễn Thị Tùng Lâm, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, số 9/2017. 4 Hai là, nhóm các công trình nghiên cứu về đào tạo và phát triển NNL: - Lê Thị Ái Lâm (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo. Kinh nghiệm Đông Á, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. Tập sách phân tích một số luận giải về phát triển NNL thông qua giáo dục và đào tạo ở Đông Á; đồng thời nêu lên các vấn đề, các giải pháp, kinh nghiệm và một số lưu ý cho Việt Nam trong phát triển NNL thông qua giáo dục và đào tạo từ bài học Đông Á. - PGS.TS. Võ Xuân Tiến (2007), Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực trong các cơ quan hành chính cấp quận (huyện), phường (xã) trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Đề tài lĩnh vực kinh tế cấp Bộ. Đề tài đã làm rõ lý luận cơ bản liên quan đến việc xây dựng và phát triển NNL trong KVC; đánh giá thực trạng trong khu vực hành chính cấp quận (huyện), phường (xã), mà chủ yếu là đội ngũ cán bộ chủ chốt ở TP Đà Nẵng; đề xuất những biện pháp có tính khoa học, khả thi để xây dựng và phát triển NNL hành chính đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. - BCH Trung ương Đảng khóa XI đã xây dựng Đề án “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở”, Đề án đề cập đến tình hình và nguyên nhân phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; phân tích quan điểm, mục tiêu cần đạt được trong đổi mới thể chế, kiện toàn tổ chức bộ máy gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ; xây dựng đội ngũ CBCCVC với số lượng hợp lý, có phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới. - “Phát triển nguồn nhân lực trong Nghị quyết ĐH Đảng lần thứ XI”, tác giả Trần Thắng năm 2013 đã khẳng định quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chú trọng yếu tố con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội. - Bài báo “Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực tại Đà Nẵng” của PGS.TS Võ Xuân Tiến trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng. Bài báo đã nêu bật mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa đào tạo và sử dụng NNL, làm rõ nội dung để phát triển NNL thì không thể bỏ qua đào tạo NNL và sau khi đào tạo thì phải sử dụng NNL đó một cách hợp lý hơn để không lãng phí nguồn tài nguyên to lớn đó. - Luận án “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình Việt Nam 5 hội nhập quốc tế” của Tiến sĩ Chính trị học Phạm Đức Tiến năm 2016, Đại học khoa học và xã hội, Hà Nội. Tác giả nghiên cứu sâu việc phát triển NNL chất lượng cao trong quá trình hội nhập quốc tế. 2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Trên thế giới, từ những năm của thập niên 90 trở lại đây có nhiều nghiên cứu về phát triển NNL một cách có hệ thống, nhất là ở một số nước phát triển như Mỹ, Đức, Nhật, Anh,… Tiêu biểu nhất là các nghiên cứu của các tác giả sau đây: - Priyanka Rani và M.S.Khan trong “Impact of Human Resource Development on Organisational Performance”-“Tác động của phát triển nguồn nhân lực lên hiệu năng của tổ chức” [32]. Nhóm nghiên cứu đưa ra kết quả sự phát triển NNL là tích cực, tác động lên kỹ năng, thái độ và hành vi mà còn cải thiện đến hiệu năng tổ chức. - Adeyemi O. Ogunade (2011) trong “Human capital investment in the developing world: an analysis of praxis” - “Đầu tư vào vốn nhân lực ở các nước đang phát triển: một phân tích của tập quán” đã khẳng định vai trò quan trọng của vốn nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế đối với các nước đang phát triển. - KellyD.J., nhóm nghiên cứu thuộc Tổ chức Hợp tác kinh tế Thái Bình Dương công bố năm 2001, đưa ra khái niệm về phát triển NNL đăng trên tạp chí Human Resource Development Outlook cho rằng phát triển NNL là một phạm trù trong tổng thể quá trình thuộc về sự nghiệp phát triển con người, phát triển NNL sẽ giúp tổ chức tạo ra lợi thế cạnh tranh và đạt hiệu quả cao hơn. Tóm lại, đến nay đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu và đóng góp về ý nghĩa khoa học, làm sáng tỏ nhiều vấn đề về NNL, NNL chất lượng cao cũng như vị trí, vai trò của nó trong sự phát triển của đất nước. Các công trình trên ở mức độ khác nhau đã cung cấp tư liệu, lý luận và thực tiễn về xây dựng và phát triển NNL chất lượng cao ở KVC. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại trên địa bàn TP Đà Nẵng chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về CS phát triển NNL chất lượng cao KVC, trong đó liên quan đến vấn đề về xây dựng, phát triển NNL chất lượng cao đáp ứng yêu cầu cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trong KVC trên địa bàn TP. Do vậy, việc nghiên cứu đánh giá quá trình triển khai thực hiện CS phát triển NNL chất lượng cao KVC tại TP Đà Nẵng hiện nay là rất cần thiết. 6 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu thực trạng việc thực hiện CS phát triển NNL chất lượng cao KVC tại TP Đà Nẵng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ cơ sở lý luận về thực hiện CS phát triển NNL chất lượng cao KVC. - Phân tích thực trạng triển khai thực hiện CS phát triển NNL chất lượng cao KVC tại TP Đà Nẵng thời gian qua. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện CS phát triển NNL chất lượng cao KVC tại TP Đà Nẵng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Việc thực hiện CS phát triển NNL chất lượng cao trong KVC tại TP Đà Nẵng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Không gian: TP Đà Nẵng. - Thời gian: Luận văn nghiên cứu vấn đề thực hiện CS phát triển NNL chất lượng cao KVC giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2016. - Nội dung: Thực hiện CS phát triển NNL chất lượng cao KVC có rất nhiều vấn đề, nhưng luận văn chỉ tập trung phân tích việc thực hiện một số CS cơ bản trong đào tạo, bồi dưỡng và thu hút nhân tài, nhằm nâng cao chất lượng NNL trong KVC tại TP Đà Nẵng. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở tiếp cận các phương pháp luận, quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,… 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp như nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp, thu thập thông tin, thống kê, đánh giá… để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu một cách khoa học. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 7 Góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về NNL, NNL chất lượng cao và thực hiện CS phát triển NNL chất lượng cao KVC. Đánh giá một cách khách quan về kết quả đạt được, hạn chế, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng NNL chất lượng cao KVC tại TP Đà Nẵng. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích giúp cho TP hoàn thiện hơn trong thực hiện CS phát triển NNL chất lượng cao KVC. Luận văn cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, gồm: Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực công. Chƣơng 2. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực công tại thành phố Đà Nẵng. Chƣơng 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện trong thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực công tại thành phố Đà Nẵng. 8 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO KHU VỰC CÔNG 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1.1. Nhân lực và nguồn nhân lực Nhân lực hiểu là nguồn lực của mỗi con người mà nguồn lực này có thể gồm: lực, trí lực của mỗi con người được đem ra sử dụng trong quá trình lao động sản xuất [18, tr.7]. Vậy thể lực, trí lực của con người được hiểu: Thể lực chỉ sức khỏe của thân thể, nó phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe của từng người, mức sống, chế độ dinh dưỡng, làm việc và nghỉ ngơi, tuổi tác,… còn trí lực chỉ sự hiểu biết, kỹ năng, sự tiếp thu kiến thức, tài năng cũng như quan điểm, nhân cách của từng người [19, tr.8]. Theo PGS.TS Trần Xuân Cầu và PGS.TS Mai Quốc Khánh: Nhân lực là sức lực của con người, nằm trong mỗi người và làm cho con người hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của cơ thể và đến một mức nào đó, con người đủ điều kiện tham gia vào quá trình lao động và có sức lao động [7]. Như vậy, có nhiều cách hiểu khác nhau về nhân lực, nên có thể khái niệm nhân lực tổng hợp tất cả sức lực cơ thể con người, làm cho con người có thể tham gia vào các hoạt động văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, sản xuất, kinh doanh... Nguồn nhân lực: NNL là một yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, là nguồn lực con người nên có nhiều yếu tố khác với nguồn lực khác. Bởi con người là một thực thể sinh vật xã hội trong quá trình vận động, NNL chịu tác động của các yếu tố tự nhiên, xã hội tâm lý,… NNL một mặt là động lực thúc đẩy sự phát triển của tổ chức, mặt khác NNL là mục tiêu của chính sự phát triển của tổ chức. NNL gồm số lượng và chất lượng; số lượng là lực lượng lao động và khả năng cung cấp lực lượng lao động cho sự phát triển KT-XH, còn chất lượng thể hiện ở thể lực, trí 9 lực và phẩm chất tâm lý xã hội của nguồn lực con người. Do vậy, thuật ngữ NNL được định nghĩa khác nhau như: Theo Liên Hiệp Quốc, “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước” [30]. Còn GS.VS Phạm Minh Hạc cho rằng: “Nguồn nhân lực cần phải hiểu là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước, một địa phương sẵn sàng tham gia vào một công việc nào đó”[20]. Nguồn lực con người được coi là nguồn lực quan trọng nhất “quý báu nhất, có vai trò quyết định, đặc biệt đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp” [11, tr.9]. Dù có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng có thể hiểu nguồn nhân lực là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động cùng các tiêu chí về trí lực, thể lực và nhân cách con người mà được quốc gia hay địa phương huy động vào quá trình lao động nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội. 1.1.1.2. Nguồn nhân lực chất lượng cao Ngày nay các quốc gia trên thế giới rất quan tâm đến chất lượng NNL do xã hội ngày càng phát triển. Đối với nước ta để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế thì đòi hỏi đội ngũ NNL có chất lượng, năng động, sáng tạo, có khả năng thích ứng nhanh với khoa học, kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Do vậy, hình thành nên thuật ngữ NNL chất lượng cao nhưng đến nay thì thuật ngữ NNL chất lượng cao được các nhà nghiên cứu quan niệm và hiểu theo nhiều cách khác nhau như: Theo GS.VS. Phạm Minh Hạc: “Nguồn nhân lực chất lượng cao là đội ngũ nhân lực có trình độ và năng lực cao, là lực lượng xung kích tiếp nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến, thực hiện có kết quả việc ứng dụng vào điều kiện nước ta, là hạt nhân đưa lĩnh vực của mình đi vào công nghiệp hóa - hiện đại hóa” [21, tr.147-148]. Tại ĐH Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng đưa ra quan niệm NNL chất lượng cao là bộ phận ưu tú nhất của NNL đất nước, đó là những “cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học công nghệ đầu đàn” [14, tr.130]. 10 Các Mác (Karl Marx) thì quan niệm NNL chất lượng cao là “Những con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông và nắm nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn”. Theo Giáo sư Chu Hảo thì “NNL chất lượng cao trước hết phải được thừa nhận trên thực tế, không phải dạng tiềm năng. Điều đó có nghĩa là nó không đồng nghĩa với học vị cao. NNL chất lượng cao là những người có năng lực thực tế hoàn thành nhiệm vụ được giao xuất sắc nhất, sáng tạo và có đóng góp thực sự hữu ích cho công việc của xã hội”. Khái niệm này xem xét NNL ở góc độ năng lực thực tế của người lao động được đo bằng chất lượng, hiệu quả mà không dựa trên bằng cấp đã qua đào tạo. Tuy nhiên, thực tế vẫn xem NNL chất lượng cao là những lao động được đào tạo có bằng cấp đầy đủ. Theo TS. Nguyễn Hữu Dũng: “Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một người lao động cụ thể có trình độ lành nghề về chuyên môn kỹ thuật ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn kỹ thuật nhất định như trên đại học, đại học, công nhân kỹ thuật lành nghề” [8]. Như vậy, khái niệm NNL chất lượng cao mang tính chất tương đối, một người có thể có tài năng trên lĩnh vực này nhưng lại bình thường trên các lĩnh vực khác. Vì thế, khi xem xét một người có thuộc NNL chất lượng cao hay không phải xác định tài năng của người đó trên một ngành, lĩnh vực, phạm vi nhất định. Ngoài những quan niệm trên, thuật ngữ NNL chất lượng cao có nội hàm cụ thể hơn để chỉ những người lao động có trình độ, năng lực trong các lĩnh vực sản xuất vật chất mang lại hiệu quả cao như nghệ nhân, chuyên gia, công nhân lành nghề hay trong lĩnh vực sản xuất tinh thần có những thuật ngữ như nhà chuyên môn, bác học, nhà khoa học, chuyên gia, nhân tài,... để tôn vinh NNL chất lượng cao. Từ các quan niệm nêu trên, có thể khái quát: NNL chất lượng cao là bộ phận tinh túy của NNL, gồm những người đã qua đào tạo bài bản, có khả năng sáng tạo, thích ứng nhanh với khoa học, công nghệ hiện đại. Đây là lực lượng nòng cốt trong quá trình lao động đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả cao nhằm góp phần cho sự phát triển chung của đất nước. 1.1.1.3. Nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực công 11 Đến nay, chưa có nghiên cứu cụ thể về khái niệm KVC, do vậy có thể hiểu thuật ngữ “khu vực công” là “khu vực nhà nước”. Theo đó, khu vực nhà nước là khu vực thuộc sở hữu nhà nước, thực hiện các hoạt động của xã hội, trong đó nhà nước giữ vai trò quyết định và chi phối như đất đai, sông ngòi, khoáng sản,… thuộc sở hữu nhà nước. Ngoài ra, nhà nước còn sở hữu nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ; hệ thống các trường công lập; hệ thống các bệnh viện công;… Hay phân biệt KVC và khu vực tư theo nguồn tài chính, theo đó KVC được nhà nước cấp ngân sách để hoạt động. Các nguồn thu của KVC chủ yếu từ thuế, phí và lệ phí dùng để chi tiêu cho các hoạt động của các cơ quan nhà nước như lương, thưởng, chi phí cho các hoạt động cung cấp dịch vụ công,... Tóm lại, KVC là khu vực tạo ra các sản phẩm và dịch vụ phục vụ các nhu cầu phát triển chung của xã hội. KVC có chức năng chủ yếu là bảo đảm trật tự xã hội thông qua hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động cung cấp dịch vụ công ích cho xã hội. Như vậy, có thể hiểu KVC là khu vực hoạt động do nhà nước làm chủ sở hữu, được nhà nước trao quyền lực để thực hiện việc quản lý xã hội bằng các văn bản luật và văn bản dưới luật, nhằm đảm bảo trật tự xã hội thông qua hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động cung cấp dịch vụ công để hướng đến lợi ích chung cho cộng đồng xã hội. NNL chất lượng cao KVC được coi là đội ngũ CBCCVC đang làm việc trong các cơ quan nhà nước có phẩm chất và sức khỏe tốt, có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi của công nghệ, biết sáng tạo, vận dụng kiến thức đã được đào tạo vào quá trình thực hiện nhiệm vụ nhằm góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao của cơ quan, đơn vị công tác đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. NNL chất lượng cao KVC là những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, những chuyên gia, nhà nghiên cứu khoa học, công nghệ hay đội ngũ công nhân, lao động lành nghề… đây là lực lượng nòng cốt, đầu tàu đáp ứng nhanh yêu cầu phát triển KT-XH. NNL chất lượng cao KVC là một bộ phận của NNL hoạt động trong các cơ quan nhà nước nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân nên phải tôn trọng, thực hiện quyền lợi hợp pháp cho nhân dân; đồng thời, đảm bảo tính công khai, minh bạch, 12 dân chủ, công bằng và chỉ được làm những gì pháp luật cho phép nhưng phải tuân thủ nguyên tắc thống nhất, liên tục theo trình tự, thứ bậc hành chính. Do vậy, để có NNL chất lượng cao KVC ngoài việc thu hút những người có trình độ cao từ các cơ sở đào tạo có uy tín thì cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao về chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước, kỹ năng làm việc,… cho đội ngũ NNL hiện có cũng như có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho NNL thu hút được. Trên phương diện tiếp cận NNL chất lượng cao đối với sự phát triển của xã hội, các nhà khoa học quan niệm “Nguồn nhân lực chất lượng cao trong khu vực công là những người có sức khỏe, có trình độ học vấn và trình độ chuyên môn cao, có năng lực công tác tốt, có phẩm chất đạo đức công vụ, luôn chủ động học tập nâng cao trình độ chuyên môn, chủ động trong hội nhập...”[6]. Tóm lại, NNL chất lượng cao KVC gồm những lao động qua đào tạo hoặc tự tích lũy lại, những người có chức vụ trong các cơ quan nhà nước, sức khỏe tốt, có chuyên môn, nghiệp vụ cao, có kỹ năng lao động giỏi, có khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi của môi trường, khoa học, công nghệ, xã hội và đem lại hiệu quả, năng suất hoạt động cao cho tổ chức, đơn vị và cho xã hội. Để có được NNL chất lượng cao KVC thì người lao động phải có một thời gian dài để đào tạo và tự tích lũy trong quá trình công tác. Khi nói đến năng lực công tác của người lao động thì cần nói đến yếu tố về thái độ, kỹ năng và kiến thức. Trong đó, yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công của người lao động với công việc cũng như với tổ chức đó là yếu tố thái độ. Một người có thể có kiến thức sâu rộng, kỹ năng chuyên nghiệp nhưng thái độ bàng quan với cuộc sống, không có trách nhiệm trong công việc và xã hội thì chưa chắc đã làm tốt công việc [25]. 1.1.1.4. Chính sách và chính sách công Trước khi tìm hiểu thực hiện CS phát triển NNL chất lượng cao KVC, cần phải tìm hiểu qua các quan niệm về CS, CS công: - Chính sách: Thuật ngữ CS được sử dụng rộng rãi trên sách, báo, phương tiện thông tin đại chúng và trong đời sống xã hội. Hiểu một cách đơn giản, CS là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện nào đó của Chính phủ, nó bao gồm các mục tiêu mà Chính phủ muốn đạt được và cách làm để thực hiện được các mục 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan