Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thi pháp truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975 1985...

Tài liệu Thi pháp truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975 1985

.PDF
193
841
94

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐOÀN VŨ CÔNG HOÀI THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975 – 1985 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Hà Nội – 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐOÀN VŨ CÔNG HOÀI THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975 – 1985 Chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số: 62.22.01.21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học PGS.TS. Tôn Thảo Miên Hà Nội – 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu, những kết luận, nhận định trong luận án là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Hà Nội, ngày 19 tháng 07 năm 2017 Tác giả luận án Đoàn Vũ Công Hoài MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ............................................ 5 5. Đóng góp về khoa học của luận án ................................................................ 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ....................................................... 7 7. Cơ cấu của luận án ......................................................................................... 7 Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu ................................................ 8 1.1. Những nghiên cứu lý thuyết về thi pháp và thi pháp truyện ngắn ............. 8 1.2. Những nghiên cứu về thi pháp truyện ngắn VN giai đoạn 1975-1985 .... 24 Chương 2: Truyện ngắn Việt Nam 1975-1985, bước chuyển đổi quan niệm nghệ thuật về con người ....................................................................... 36 2.1. Bối cảnh lịch sử xã hội và văn học nghệ thuật sau năm 1975 .................. 36 2.2. Quan niệm nghệ thuật về con người ........................................................ 51 Chương 3: Thời gian và không gian, giọng điệu và ngôn ngữ trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985 ............................................. 73 3.1. Thời gian và không gian nghệ thuật ......................................................... 73 3.2. Giọng điệu và ngôn ngữ ........................................................................... 93 Chương 4: Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985 trên bình diện thi pháp thể hiện ........................................................................................ ..116 4.1. Thi pháp cốt truyện, tình huống ………….…………………………....116 4.2. Thi pháp kết cấu, trần thuật ……………………………………….…...138 KẾT LUẬN………………………………………………………………...163 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ……………...167 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………168 PHỤ LỤC: TÁC PHẨM KHẢO SÁT TRONG LUẬN ÁN………….…184 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Thi pháp học là một trong những đường hướng nghiên cứu văn học có từ lâu, nhưng nó thực sự được các nhà nghiên cứu quan tâm vào những năm đầu của thế kỷ XX. Người ta căn cứ vào ngôn ngữ để cắt nghĩa thế giới tinh thần của nhà văn. Từ đó, trích đoạn để phân tích, so sánh, chỉ ra cách cảm nhận về tư tưởng thẩm mĩ trên ba phương diện: không gian, thời gian nghệ thuật và phương thức biểu hiện. Bởi nghệ thuật là một thế giới chủ quan của người nghệ sĩ. Nó kết tinh cách nhìn, cách nghĩ của nhà văn về thế giới. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu của văn học là chỉ ra ý thức của chủ thể nghệ thuật, các phạm trù của thế giới khách quan và chủ quan như một phương cách nhìn ra thế giới. Cách tiếp cận thi pháp học cho phép người ta khám phá ra các chiều kích khác nhau như: hình tượng tác giả, phong cách nghệ thuật trong chỉnh thể nghệ thuật của tác phẩm. Ở Việt Nam thi pháp học du nhập vào một số trường đại học ở miền Nam trước năm 1975. Tuy nhiên, hướng nghiên cứu này mới chỉ được giới thiệu, tiếp nhận theo hướng thi pháp xã hội học. Vào những năm 80, thi pháp học bắt đầu có sự du nhập, đổi mới mạnh mẽ với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu trúc luận, phân tâm học, phong cách học, thi pháp học lịch sử, tự sự học… Điều này thể hiện rõ trong các công trình nghiên cứu của Hoàng Trinh, Phan Ngọc, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Đình Sử, Nguyễn Phan Cảnh, Đỗ Đức Hiểu, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà, Đỗ Lai Thuý, Nguyễn Xuân Kính, Vương Trí Nhàn… Đây được coi như là hiện tượng mới của nghiên cứu văn học. 1.2. Sau 1975, tình hình đất nước đã có nhiều biến đổi, đời sống xã hội chuyển từ chiến tranh sang hoà bình. Cuộc sống mới hiện ra với tất cả những bộn bề, phức tạp của nó. Đây là thời kỳ giao thoa giữa cái cũ và cái 1 mới, cái cũ vẫn chưa mất đi, cái mới manh nha hình thành. Những khó khăn sau giải phóng và khủng hoảng kinh tế xã hội cuối thập niên 70, cho thấy tính chất phức tạp và sự chi phối của nền kinh tế bao cấp đưa đến sự phân cực giữa trắng - đen, thiện - ác, tốt - xấu…; cơ chế quan liêu bao cấp hiện ra ngày càng rõ. Tất cả những điều trên đã tác động không nhỏ đến đời sống văn học, tạo ra những đề tài nóng bỏng cho nhà văn khai vỡ, phát triển theo quy luật mới, quy luật đời thường. Nhà văn Nguyễn Minh Châu nhận định khái quát về bức tranh xã hội Việt Nam những năm sau chiến tranh đang diễn ra “một cuộc đối chứng giữa nhân cách và phi nhân cách, giữa hoàn thiện và chưa hoàn thiện, giữa ánh sáng và những khoảng bóng tối còn rơi rớt bên trong tâm hồn của mỗi con người” [30, 364]. Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã mở đường cho nền kinh tế bao cấp chuyển sang cá thể, cơ chế thị trường; cởi trói cho tư duy con người, đưa lại một bầu không khí dân chủ, cách nhìn thông thoáng, uyển chuyển về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội. Nhờ đổi mới, văn học có điều kiện chuyển mình với tinh thần nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Không khí cởi mở, dân chủ của đời sống và học thuật đã tác động mạnh mẽ đến chủ thể sáng tạo, khiến cho quan niệm của họ về hàng loạt vấn đề dần thay đổi. Từ quan niệm về hiện thực, con người cá nhân đến quan niệm về cách viết, về sự cần thiết của việc đổi mới thi pháp thể loại. Quá trình đổi mới văn học ở Việt Nam diễn ra hết sức sôi động và đa dạng trên các thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch, ký,… Ngoài ra, phải nói đến lý luận, phê bình đã đạt được nhiều thành tựu, đặc biệt khi đi sâu cắt nghĩa tiểu thuyết và truyện ngắn theo hướng thi pháp học. 1.3. Truyện ngắn từng đóng vai trò xung kích, tiên phong trong quá trình hiện đại hoá văn học nước nhà ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX. Thể tài này tiếp tục năng động, cơ động, có khả năng cập nhật hiện thực đời sống hàng ngày - một hiện thực luôn vận động, biến chuyển không ngừng. 2 Năm 2008, báo Văn nghệ đã xuất bản tuyển tập 60 năm truyện ngắn báo Văn nghệ (gồm 5 tập với 5 giai đoạn: 1945 - 1954, 1954 -1965, 1965 1975, 1975 - 1986, 1986 - 2007). Bộ tuyển tập này đã đem đến cho người đọc một cái nhìn bao quát về các chặng đường trong 60 năm phát triển của truyện ngắn Việt Nam. Qua đó, có thể hình dung được bước đi, những đổi mới của thể loại, dấu ấn của lịch sử, thời đại và tư duy nghệ thuật của nhà văn qua từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Trong ba mươi năm chiến tranh, truyện ngắn đã hoàn thành xuất sắc vai trò, sứ mệnh của mình là phục vụ kháng chiến với đề tài chiến tranh, không gian chiến trường và hình tượng là người lính. Với khối lượng đồ sộ, truyện ngắn giai đoạn này đã cổ vũ tinh thần nhiều thế hệ vượt qua khó khăn của kháng chiến, lay động lòng người vươn lên trong niềm tin chiến thắng, thức tỉnh con người về mặt trái của nó. Năm 1975, đất nước bước sang thời bình, nhưng văn học nói chung và truyện ngắn nói riêng vẫn còn lao theo quán tính của một nền văn học minh hoạ. Điều đó đã làm cho truyện ngắn xa rời cuộc sống, lạnh nhạt với tâm tư, tình cảm của con người. Tuy nhiên, đến cuối những năm 1970, truyện ngắn đã có sự chuyển động âm thầm, tích cực và cần thiết, tạo tiền đề cho quá trình đổi mới truyện ngắn đương đại. Tuy không phải là duy nhất, nhưng truyện ngắn lại tập trung nhiều các yếu tố đổi mới của nền văn học Việt Nam đang trăn trở chuyển mình. Có thể coi truyện ngắn giai đoạn 1975 -1985 là bước tiền trạm cho cái mới, là giai đoạn xây nền móng, vỡ giọng để phát triển rực rỡ từ sau năm 1985. 1.4. Trong các sáng tác qua từng giai đoạn, thi pháp truyện ngắn có chiều hướng rạn nứt dần, mà nhiều người gọi là hậu hiện đại. Là hướng nghiên cứu thiên về cắt nghĩa cái lý của hình thức, hình thức mang tính quan niệm, tức là hình thức mang tính nội dung, thi pháp học là cơ sở quan trọng trong việc xác lập và phân chia các giai đoạn, thời kỳ và khuynh 3 hướng văn học. Cho nên, để có giai đoạn phát triển rực rỡ từ năm 1986, văn học phải có thời gian manh nha hình thành, chuẩn bị hay gọi là thể nghiệm, đó là giai đoạn 1975 – 1985. Chúng tôi lấy thi pháp để soi rọi, so sánh giữa các giai đoạn phát triển của văn học, đặc biệt là giai đoạn trước và sau đổi mới. Rõ ràng, văn học luôn cần những tổng kết qua từng giai đoạn, từ đó đánh giá về nội dung, nghệ thuật và thi pháp, khuyến khích tìm tòi và thể nghiệm mới trong sáng tác và nghiên cứu. Đề tài Thi pháp truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985 sẽ góp phần giải mã những nét độc đáo đối với truyện ngắn giai đoạn này dưới góc nhìn thi pháp học. Trên cơ sở đó, so sánh với các thể loại văn học khác, hoặc giữa các giai đoạn, tạo điều kiện cho truyện ngắn tiếp tục có những đóng góp và tác động trong thực tiễn sáng tạo. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Chọn đề tài Thi pháp truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985, luận án khái quát những nét chung về truyện ngắn Việt Nam giai đoạn hậu chiến (1975 – 1985), đồng thời phác thảo diện mạo của thi pháp học trong nghiên cứu truyện ngắn nói chung và truyện ngắn thời kì này nói riêng. Tìm hiểu truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 trên quan niệm nghệ thuật về con người, thời gian, không gian và phương thức thể hiện dưới góc nhìn thi pháp học; luận án khẳng định vị trí, vai trò và đóng góp của những nhà văn tiêu biểu thời kì này trong tiến trình vận động và đổi mới văn học Việt Nam thế kỉ XX. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Đưa ra một cái nhìn chung về truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 từ góc nhìn thi pháp học. Khảo sát, phân tích, xác định thi pháp truyện ngắn 4 thời kì này trên phương diện quan niệm nghệ thuật về con người, thời gian, không gian nghệ thuật và phương thức thể hiện. Tìm hiểu thi pháp truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 trên một số bình diện, phương thức thể hiện. Sau đó rút ra một số kết luận về thi pháp truyện ngắn Việt Nam thời kỳ này. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Trước hết, luận án tập trung khảo sát những tuyển tập truyện ngắn đoạt giải, đặc sắc do Hội Nhà văn, Báo Văn nghệ và Tạp chí Văn nghệ Quân đội tuyển chọn từ năm 1975 đến 1985. Tiếp nữa, luận án khảo sát những truyện ngắn đặc sắc khác của các Nhà xuất bản ấn hành từ năm 1975 đến 1985. Ngoài ra, luận án còn mở rộng giao diện với một số truyện ngắn tiêu biểu ở giai đoạn văn học khác, nhằm chỉ ra nét độc đáo, khác lạ của một giai đoạn văn học. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu đặc điểm thi pháp truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985, luận án tập trung vào ba phương diện: quan niệm nghệ thuật về con người ; thời gian và không gian; thi pháp tạo dựng cốt truyện, tình huống, kết cấu, giọng điệu, ngôn ngữ và nghệ thuật trần thuật. Chúng tôi không khảo sát toàn diện mà chỉ tập trung nghiên cứu một số phương diện có tính chất loại hình nhằm nhận ra diện mạo của một giai đoạn văn học chuyển mình (1975 – 1985). 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Ngoài những phương pháp luận chung của nghiên cứu khoa học xã hội là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, để thực 5 hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp nhiều phương pháp chuyên biệt. Tựu trung lại có thể kể đến các phương pháp chủ yếu sau: - Phương pháp tiếp cận thi pháp học: đây được xem là phương pháp chính. Nhằm nghiên cứu về sự tiến hóa của các phương thức, phương tiện chiếm lĩnh thế giới bằng hình tượng, sự hoạt động chức năng xã hội - thẩm mỹ của chúng, nghiên cứu số phận của các khám phá nghệ thuật. - Phương pháp loại hình: nhằm tìm ra những đặc điểm tương đồng loại hình về thi pháp thể loại, qua đó thấy được nét đặc sắc của thể loại từ thực tế đời sống văn học. - Phương pháp so sánh: để có sự đối sánh và cái nhìn sâu hơn về đối tượng, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát truyện ngắn giai đoạn này trong sự liên hệ để tìm ra những nét tương đồng và khác biệt giữa truyện ngắn ở giai đoạn sau năm 1986 và truyện ngắn giai đoạn trước đó (1945 - 1975). - Phương pháp cấu trúc hệ thống: đặt truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985 trong sự vận động của văn học nói chung, xem xét đối tượng như một hiện tượng có tính hệ thống, chúng tôi hướng tới việc xác định vị trí, ý nghĩa của truyện ngắn giai đoạn này trong diễn trình văn học. - Phương pháp phân tích tác phẩm: nhằm tìm hiểu các yếu tố của văn bản tác phẩm thông qua việc phục nguyên lại đời sống văn hóa của một thời đại nhất định, dùng nó để lý giải các vấn đề văn học, đặc biệt là các quan niệm về văn học và sáng tác văn chương. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các thao tác nghiên cứu văn học khác như: phân tích, đối chiếu, thống kê, phân loại, mô hình hóa, khảo sát văn bản… 5. Đóng góp về khoa học của luận án Luận án là công trình đầu tiên tìm hiểu, xác định diện mạo của thi pháp truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 với cái nhìn văn học ở bề sâu. 6 Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc tìm hiểu và nghiên cứu truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 nói riêng, truyện ngắn Việt Nam nói chung. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Luận án vào tìm hiểu, bổ sung thêm một số kết quả nghiên cứu thi pháp truyện ngắn, góp phần xác định diện mạo và vai trò của truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 trong quá trình hiện đại hoá nền văn học Việt Nam. Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, tìm hiểu và nghiên cứu thi pháp truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 nói riêng và văn xuôi Việt Nam hiện đại nói chung. 7. Cơ cấu của luận án Ngoài Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án được triển khai thành 4 chương: Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu. Chương 2: Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985, bước chuyển đổi quan niệm nghệ thuật về con người. Chương 3: Thời gian và không gian, giọng điệu và ngôn ngữ trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985. Chương 4: Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985 trên một số bình diện thi pháp thể hiện. 7 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Những nghiên cứu lý thuyết về thi pháp học và truyện ngắn 1.1.1. Nghiên cứu lý thuyết về thi pháp học 1.1.1.1. Thi pháp học là một hướng nghiên cứu văn học có từ lâu, nhưng thực sự có ảnh hưởng và được nhiều nhà nghiên cứu chú ý vào thế kỉ XX. Thuật ngữ thi pháp học có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp, trong công trình Poetica (Thi pháp học) của Aristote, khi nhìn nhận bản chất nghệ thuật như các thể loại bi kịch, sử thi, cấu trúc cho đến ngôn từ. “Qua hàng nghìn năm tồn tại và phát triển, thi pháp học nhiều lần được hiểu khác nhau, khi thì thu hẹp vào loại hình thi ca, vào thi luật, phép làm thơ, biến thành quy phạm, giáo điều, khi thì mở rộng chỉ toàn bộ nghệ thuật, khi lại bị coi thường như một thứ hình thức chủ nghĩa ít có ý nghĩa và cho đến nay cách hiểu vẫn còn phân tán” [52, 9]. Từ đầu thế kỉ XX, vấn đề ngôn ngữ, văn bản, cấu trúc của văn học được đặt lên hàng đầu, tạo thành khuynh hướng thi pháp học ngôn ngữ nghệ thuật, lấy văn bản làm đối tượng nghiên cứu đã đổi mới thi pháp học. Đến những năm 60 (thế kỉ XX), khi phương tiện truyền thông nghe nhìn chiếm ưu thế, trong xu thế toàn cầu hoá về kinh tế, tri thức, giao lưu văn hoá thì nghiên cứu văn học từ bình diện ngôn ngữ chuyển sang văn hoá học, nghiên cứu các vấn đề văn hoá như diễn ngôn, tri thức, hậu thực dân, chủ nghĩa đa nguyên, chủ nghĩa nữ quyền, thân thể, thời thượng, phi huyền thoại hoá, phi trung tâm, đại tự sự, trò chơi và mua vui… trở nên thịnh hành. Đó đang là hướng vận động của thi pháp học mà nhiều người quan tâm. Từ cuối thế kỉ XIX, A. N. Veselovski, các nhà hình thức Nga đến các nhà cấu trúc Pháp, đều ra sức đi tìm định nghĩa về thi pháp học. Sau đây là một số định nghĩa tiêu biểu. V. Girmunski: “Thi pháp học là khoa học 8 nghiên cứu thi ca (tức là văn học) như là một nghệ thuật. Viacheslav Ivanov: “Thi pháp học là khoa học về cấu tạo của tác phẩm văn học và hệ thống các phương tiện thẩm mĩ được sử dụng trong đó…” [52, 11]. M. L. Gasparov: “Thi pháp học - khoa học về hệ thống các phương tiện biểu hiện trong tác phẩm văn học… Trong nghĩa rộng thi pháp học trùng với lí luận văn học, trong nghĩa hẹp trùng với một trong các lĩnh vực của thi pháp lí thuyết. Là lĩnh vực của lí luận văn học thi pháp học nghiên cứu đặc trưng của các loại hình, thể loại văn học, các dòng và trào lưu, các phong cách, phương pháp, nghiên cứu quy luật liên hệ nội tại và tuơng quan các cấp độ của chỉnh thể nghệ thuật”… V. Vinogradov: “Thi pháp học là khoa học về các hình thức, các dạng thức, các phương tiện, phương thức tổ chức tác phẩm sáng tác ngôn từ, về các kiểu cấu trúc và các thể loại tác phẩm văn học. Nó muốn bao quát không chỉ ngôn từ thơ, mà còn cả các khía cạnh khác nhau nhất của tác phẩm văn học và sáng tác dân gian,”. B. Tomashevski :“Nhiệm vụ của thi pháp học là nghiên cứu phương thức cấu tạo của tác phẩm văn học. Đối tượng của thi pháp học là các sáng tác có giá trị. Phương pháp nghiên cứu thi pháp là tiến hành miêu tả, phân loại và giải thích các hiện tượng được nghiên cứu.” [52, 12]. Đối với R. Jakobson, đối tượng của thi pháp học là “tính văn học” và “các thủ pháp”, phương pháp nghiên cứu thi pháp học là phương pháp ngôn ngữ học… Các học giả Pháp, như Kibedi Verga cho rằng thi pháp học tức là lí luận văn học; Gérard Genette thì cho rằng thi pháp học nghiên cứu các văn bản quá độ, khám phá tính liên văn bản trong đó. Từ các định nghĩa trên, ta thấy thi pháp học là “một lĩnh vực nghiên cứu về đặc trưng, tổ chức, các phương thức, phương tiện, nguyên tắc làm nên giá trị thẩm mĩ của văn học trong tính chỉnh thể của văn bản [52, 13]. Đó là lĩnh vực nghiên cứu quy luật nội tại của tác phẩm, cấu tạo và phong cách, nó phân biệt với các lĩnh vực nghiên cứu khác. Thi pháp về thực chất 9 là hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật, mang tính mở. “Thi pháp học bao gồm các bộ phận lí thuyết, miêu tả và lịch sử, gồm cả phong cách học, và ngày nay bao gồm cả tự sự học, tu từ học, mỗi bộ phận có đối tượng riêng, nhưng đều không ra ngoài phạm vi nói trên. Xét về cách tiếp cận còn có thể phân biệt thi pháp học lịch sử, thi pháp học ngôn ngữ học, thi pháp học so sánh, thi pháp học xã hội học, thi pháp học văn hoá” [52, 13]. Nhiều nhà nghiên cứu đồng nhất thi pháp học với lí luận văn học, theo R. Wellek, trong trường hợp đó, nên dùng thuật ngữ “lí luận văn học”, vì hàm ý của lí luận văn học rộng hơn thi pháp học. Tuy nhiên, người ta vẫn thích nói “thi pháp” để nhấn mạnh tính chất nghiên cứu nội tại của nó. Thi pháp học hiện đại (từ thế kỉ XX) khác thi pháp học truyền thống. Nó được hiểu như lĩnh vực nghiên cứu đặc trưng văn học hay tính văn học và ngôn ngữ biểu hiện của nó chứ không đóng khung trong nghệ thuật thi ca. Phương pháp lấy việc nghiên cứu tính hệ thống, tính chỉnh thể thay cho việc nghiên cứu các yếu tố cá biệt, khác biệt để khái quát theo quan niệm “nguyên tử luận; lấy việc nghiên cứu các biến số lịch sử thay cho nghiên cứu các nguyên lí bất biến, vĩnh hằng; nghiên cứu hướng tới người đọc hơn là dạy dỗ nhà văn về cách sáng tác; lấy việc khái quát các phương thức phương tiện từ trong bản thân sáng tác hơn là đưa ra những công thức quy phạm. Mặc dù đã có những quan điểm hoài nghi đặc trưng cũng như tính văn học, nhưng văn học ở đâu, thời nào cũng tồn tại trong sự đối lập với cái phi văn học, dù cho ranh giới giữa hai cái đó có đổi thay trong lịch sử. Chừng nào còn đối lập ấy thì chừng ấy còn thi pháp học. Chính vì thế phương pháp nghiên cứu thi pháp chủ yếu là miêu tả, quy nạp, hệ thống hoá và thuyết minh, diễn giải chứ không phải là diễn dịch từ những nguyên lí của đại tự sự”[52, 14]. Các trường phái hình thức ở Nga, Anh, Mĩ, Đức nghiên cứu thế giới tinh thần và thế giới nghệ thuật của nhà văn biểu hiện qua văn bản ngôn 10 ngữ. Fredric Gundolf “chủ trương phân biệt cuộc sống kinh nghiệm thực tế của nhà văn với cuộc sống trong tác phẩm nghệ thuật. E.R.Curtius căn cứ vào ngôn ngữ mà nghiên cứu thế giới tinh thần của nhà văn, phản đối lối nghiên cứu dựa vào các quy tắc để đánh giá sáng tác. Eric Auerbach nghiên cứu phương thức mô phỏng thế giới của các văn bản kinh điển mà ông trích từng đoạn để phân tích, so sánh, chỉ ra cách cảm nhận con người, không gian, thời gian, đồ vật”[52, 17]. Leo Spitzer chủ trương đi tìm thế giới bên trong, cách cảm nhận thế giới của nhà văn và giải thích bằng hệ thống biểu hiện ngôn ngữ, nhưng không loại trừ tác động của các nhân tố thời đại. Nghệ thuật là một thế giới chủ quan của nghệ sĩ, phân biệt với thực tại khách quan. Tác phẩm văn học như một thế giới thẩm mĩ đặc thù. Đối tượng nghiên cứu của văn học là ý thức của chủ thể nghệ thuật, là các phạm trù của thế giới quan như thế giới, không gian, thời gian… Cách tiếp cận này cho phép người ta khám phá các chiều kích thi pháp, phong cách nghệ thuật ngay trong tác phẩm nghệ thuật. Thi pháp học cấu trúc chủ nghĩa ở Pháp theo M. L. Gasparov nói: “Thi pháp học cấu trúc không phải là thi pháp của các yếu tố tách rời, mà là thi pháp về các quan hệ của các yếu tố tạo nên tác phẩm”[52, 20]. Thành công hơn cả của chủ nghĩa cấu trúc là “Tự sự học” của G. Genette. Đây là hệ thống các thuật ngữ dành để phân tích cấu trúc văn bản tự sự mà ngày nay đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu có hiệu quả như lĩnh vực thi pháp tiểu thuyết và nghệ thuật tự sự nói chung. Từ đó, theo J. Watte, các vấn đề của tự sự như người trần thuật, điểm nhìn, hình thức không gian…đã được bàn rộng rãi, chúng gắn liền với sự ý thức về vai trò độc lập tự chủ của con người cá nhân. Ngoài ra, phong trào kí hiệu học Pháp hiện đại rất sôi động, họ nghiên cứu theo hướng khám phá “tính văn học”, khai thác ý nghĩa siêu ngôn từ của văn bản văn học trong công trình nguyên lí kí hiệu học của Roland Barthes hay ngữ nghĩa học cấu trúc của Greimas. Đáng chú ý là 11 nghiên cứu kí hiệu học trong phong cách học. Phong cách học cũng là một bộ phận của thi pháp học, trở thành trào lưu “Phê bình mới” ở Pháp thập niên 60, 70 (thế kỉ XX). Đặc biệt, phân tâm học đem lại cho nghiên cứu phong cách một đường lối giải thích sự thống nhất của phong cách. Ch. Mauron là đại diện cho hướng nghiên cứu này đã giải thích các “hình tượng ám ảnh” chỉ từ phương diện tâm lí vô thức. Ở Nga, thi pháp học lý thuyết được hồi sinh, tiếp tục phát triển trong Những vấn đề thi pháp Đốtxtôiépxki, của M. Bakhtin. Ông xây dựng mô hình lí thuyết thi pháp bắt đầu từ quan niệm nhân vật như một ý thức độc lập, làm nền tảng cho cấu trúc phức điệu; tiếp đến xem xét thế giới của nhân vật với không gian, thời gian, đặc trưng cốt truyện, thể loại, đặc điểm ngôn ngữ. Các yếu tố của cấu trúc nghệ thuật đều phụ thuộc vào quan niệm con người. “Ngôn ngữ của Đốtxtôiépxki đều phụ thuộc vào đặc điểm của con người trong ấy. Mô hình của Bakhtin ở đây thích hợp trước hết đối với tiểu thuyết phức điệu của Đốtxtôiépxki. Chúng tôi đã rút ra và phổ quát hoá mô hình đó để có thể vận dụng vào thế giới nghệ thuật thuộc các thể loại văn học khác như thơ trữ tình, một thể loại mà Bakhtin không mấy hứng thú. Mô hình của chúng tôi bao gồm: quan niệm nghệ thuật về con người, không gian, thời gian nghệ thuật, hình tượng tác giả, tình tiết, kết cấu, trần thuật, ngôn ngữ thể hiện”[52, 31]. 1.1.1.2. Qua bức tranh khái quát trên, có thể thấy thi pháp học ở Việt Nam có cội nguồn từ thi pháp học hiện đại trên thế giới. Nó có khuynh hướng phong cách học ngôn ngữ, kí hiệu học, phân tâm học, thi pháp học xã hội và thi pháp học lịch sử, văn hoá. Trước năm 1975, ở miền Bắc nghiên cứu văn học đi theo thi pháp xã hội học, thể hiện ở chủ nghĩa hiện thực với các phạm trù văn học với hiện thực ý thức hệ; ở miền Nam, các quan niệm nghiên cứu, phê bình văn học hiện đại mới được giới thiệu, tiếp nhận trong các công trình của Nguyễn Văn Trung. Sau năm 1975, nghiên 12 cứu văn học trong cả nước có một thời gian trì trệ; cho đến những năm 80 bắt đầu có sự đổi mới. Thi pháp học được du nhập với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu trúc luận, phân tâm học, phong cách học, thi pháp học lịch sử, tự sự học… “Các công trình của Phan Ngọc, Nguyễn Phan Cảnh, Trần Đình Sử, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Xuân Kính, Đỗ Lai Thuý… xuất hiện, được coi như là hiện tượng mới của nghiên cứu văn học. Hoàng Trinh vận dụng kí hiệu học khẳng định văn bản là cơ chế tạo nghĩa” [52, 30]. Phan Ngọc nghiên cứu phong cách theo cơ chế lựa chọn, lệch chuẩn, thiên về cấu trúc, chú ý thao tác luận khách quan. Đỗ Đức Hiểu phê bình phong cách học trên cơ sở phát hiện từ chìa khoá, hình tượng ám ảnh, xếp chồng văn bản, làm nổ tung văn bản; từ ngôn từ, văn bản, bên cạnh một số bài phát hiện thi pháp có tính khách quan, nhiều bài khác gần với lối phê bình ấn tượng, nặng về cảm thụ chủ quan. Nguyễn Phan Cảnh giải thích đặc trưng thơ bằng cơ chế ngôn ngữ. Đỗ Lai Thuý cũng đi theo hướng khám phá đặc trưng ngôn từ, phát hiện quan niệm, giải thích từ nền tảng văn hoá trên cơ sở phân tâm học… Trong Thi pháp Truyện Kiều đã có tự sự học, trong “Thi pháp văn học trung đại Việt Nam đã có các bình diện của thi pháp văn học một giai đoạn. Các yếu tố của mô hình lí thuyết tương tự như thế có thể tìm thấy trong Thi pháp văn học Nga cổ và Con người trong văn học Nga cổ, Thế giới bên trong của tác phẩm văn học của Likhachev” [52, 31]. Các học giả của Viện văn học thế giới cũng thường xem xét thế giới nghệ thuật trong tương quan với quan niệm nghệ thuật. Đó là mô hình được đúc kết nhằm phản ánh chỉnh thể nội tại của các thế giới nghệ thuật do nghệ sĩ sáng tạo ra mà người ta chỉ có thể khám phá từ bên trong văn bản. Mô hình này cũng có thể vận dụng vào nghiên cứu thể loại văn học, bởi thể loại văn học là một kiểu thế giới nghệ thuật. Điểm đặc biệt là mô hình lí thuyết này có tính mềm dẻo, có thể bao hàm vào bản thân nó những bình diện của phong cách 13 học, tự sự học, tu từ học, kí hiệu học, ngôn ngữ học. Theo quan niệm này, thế giới nghệ thuật chỉ có thể được quy nạp, khái quát từ cái nền ngôn từ của văn bản, xuất phát từ những biểu hiện của ngôn từ. Trần Đình Sử trong Toàn cảnh thi pháp học cho rằng: "Thi pháp học là một lĩnh vực nghiên cứu có ảnh hưởng lớn trong ngành nghiên cứu văn học thế kỉ XX, tuy có cội nguồn xa xưa nhưng đã được cải tạo triệt để, mang nội dung mới, rất đa dạng về quan niệm, phương pháp, đồng thời tự nó cũng biến đổi nhanh chóng chưa từng thấy trong lịch sử” [52, 9]. Ở Việt Nam, thi pháp học đã có lịch sử phát triển lâu dài trong nhiều công trình nghiên cứu như đã nêu trên. Nhưng “phải đến Trần Đình Sử, thi pháp học hiện đại – từ lý thuyết, diện mạo, tinh thần, thao tác nghiên cứu – mới có tầm ảnh hưởng rộng lớn đến đời sống nghiên cứu và phê bình văn học. Nói chính xác hơn, một mặt, Trần Đình Sử là người giới thiệu vào Việt Nam một cách đầy đủ và có hệ thống về thi pháp học” [52, 470]. Đây là một đánh giá xác đáng, một ghi nhận trân trọng của tác giả Nguyễn Đăng Điệp trong công trình Thi pháp học ở Việt Nam. Trong Thi pháp hiện đại, Đỗ Đức Hiểu quan niệm: “Tôi hiểu phong cách học, nói một cách đơn giản nhất, nghiên cứu những đặc trưng ngôn từ văn chương của một tác giả, một tác phẩm, còn thi pháp học nghiên cứu tính văn học của một trào lưu, một thời đại, có thể gọi là phong cách lớn”[78]. Thành công của Đỗ Đức Hiểu là vận dụng lí thuyết, đi theo một hướng thi pháp học phương Tây, xem thi pháp biểu hiện ở phạm vi ngôn từ, lấy tính văn học của ngôn từ làm đối tượng nghiên cứu. Ông cũng xem xét thi pháp học theo phạm vi thể loại như thơ, văn xuôi, kịch, nghiên cứu cách vận dụng ngôn từ trong một số tác phẩm văn học cụ thể. Ngoài ra, Đỗ Lai Thúy cũng là một trong những nhà phê bình văn học theo khuynh hướng thi pháp học được chú ý. Ông đã nổi lên như một nhà nghiên cứu với nhiệt tình cách tân và định hình được phong cách riêng. 14 Đỗ Lai Thúy gây được tiếng vang với Con mắt thơ (1992), một tác phẩm phê bình thơ mới. Nhìn từ con đường tiếp cận, thành công vang dội của Hoài Thanh trước đây trong phê bình thơ mới, theo một số nhà nghiên cứu, gắn liền với phương pháp phê bình ấn tượng. Sau Hoài Thanh có thể kể đến Phan Cự Đệ với cách tiếp cận xã hội học trong công trình Phong trào Thơ mới. Đỗ Lai Thúy lại lựa chọn hướng tiếp cận thi pháp học và nó đã thực sự mang lại những phát hiện mới. Nhìn chung khuynh hướng thi pháp học đã gây được ảnh hưởng trong xã hội, nhất là trong các trường đại học và tạo thành một khuynh hướng nghiên cứu nổi bật trong nghiên cứu phê bình văn học suốt những năm 80 cho đến nay. Thi pháp học mang lại nhiều thuật ngữ và khái niệm mới trong nghiên cứu văn học như: quan niệm nghệ thuật về con người và nhiều khái niệm hình thức văn học đã đi vào phê bình một cách phổ biến, có tác dụng làm mới bộ công cụ phê bình văn học. Nhưng quan trọng hơn, đó là thi pháp học đem lại cách tiếp cận mới, phương pháp mới nghiêng về tính nội tại. Nó tuy là nghiên cứu phương diện nội tại, song không tách rời hiện thực, lịch sử, bởi đó vẫn là căn cứ để giải thích mọi sự biến đổi văn học. Đó là một hiện tượng chưa từng có trong phê bình, lí luận văn học Việt Nam trước những năm 80. Hàng loạt công trình nghiên cứu văn học có vận dụng thi pháp học ra đời. Trong số đó có không ít công trình có giá trị, có sức thuyết phục cao, mở ra triển vọng mới. Nhưng trong số đó cũng có một số không ít nghiên cứu theo hướng thi pháp học mà chưa thực sự thấu đáo về thi pháp học. Đó cũng là một chuyện thường tình, bởi chẳng có một tư tưởng, lí luận, hướng nghiên cứu mới nào mà không bị hiểu lầm, bị đọc nhầm trong quá trình tìm tòi, nghiên cứu. Mô hình lí thuyết có tính chất định hướng nghiên cứu, còn đặc điểm thi pháp cụ thể thì phải miêu tả, đúc kết từ văn bản nghệ thuật. Mô hình đó có thể thay đổi gia giảm tuỳ theo đối tượng nghiên cứu cụ thể như tác 15 phẩm, tác giả, thể loại… Tính quan niệm là yếu tố chi phối tất cả mọi yếu tố của văn bản: nhân vật, không gian, thời gian, sự kiện, điểm nhìn, ngôn ngữ. “Mô hình này đã khẳng định tính độc lập của thế giới nghệ thuật, phế bỏ mô hình xem hình tượng nghệ thuật là hình ảnh tương đồng với hiện thực của lí thuyết phản ánh thịnh hành, khẳng định cá tính và tính tích cực của chủ thể nghệ sĩ. Mô hình này như mọi mô hình khác cũng chỉ là một trong các mô hình có thể dùng để miêu tả thế giới nghệ thuật, tìm ra quy luật nội tại của chúng. Nghiên cứu thi pháp, như Todorov đã nhận xét, không nhằm để bình giảng, giảng văn, phát hiện ý nghĩa biểu đạt của một tác phẩm, mà nhằm khám phá quy tắc ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm, tìm thấy tính độc đáo, không lặp lại của ngôn ngữ ấy, cùng những giới hạn biểu hiện, chiếm lĩnh đời sống của nó” [52, 32]. Chừng nào còn có thế giới nghệ thuật thì chừng ấy vẫn còn có khả năng vận dụng mô hình thi pháp học, để khám phá ra tính độc đáo của văn bản. Dĩ nhiên, nó cần được hiểu đúng và đồng thời cập nhật nhiều khái niệm mới mà ngành nghiên cứu văn học mang lại, nhằm làm công cụ miêu tả thế giới nghệ thuật được hữu hiệu hơn. 1.1.2. Nghiên cứu về thể loại truyện ngắn 1.1.2.1. Truyện ngắn, một thể loại văn tự sự, nó thường là các câu chuyện kể bằng văn xuôi, có xu hướng ngắn gọn, súc tích và hàm nghĩa. Thông thường nó có độ dài từ vài dòng đến vài chục trang và chỉ tập trung vào một tình huống, một chủ đề nhất định. Do đó, truyện ngắn thường hết sức hạn chế về nhân vật; thời gian và không gian cũng không trải dài như tiểu thuyết. Đôi khi truyện ngắn chỉ là một khoảng khắc của cuộc sống, chẳng hạn như Chí phèo của Nam Cao thời gian chỉ dăm ngày, Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu chỉ xảy ra trong vài tiếng. Paul Bourget, nhà văn, nhà phê bình Pháp có nhận định về thể loại truyện ngắn, qua đó cũng giải thích phần nào về sự chênh lệnh số trang của 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan