Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thi hành hình phạt bổ sung từ thực tiễn tỉnh bình dương...

Tài liệu Thi hành hình phạt bổ sung từ thực tiễn tỉnh bình dương

.PDF
88
402
123

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN TẤN LINH THI HÀNH HÌNH PHẠT BỔ SUNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN TẤN LINH THI HÀNH HÌNH PHẠT BỔ SUNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN VĂN HIỂN HÀ NỘI – 2017 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT BỔ SUNG ........................................................................................... 6 1.1. Khái niệm, bản chất, đặc điểm của hoạt động thi hành án .............................. 6 1.2. Khái niệm, đặc điểm của thi hành hình phạt bổ sung .................................... 10 1.3. Thi hành hình phạt bổ sung theo pháp luật Việt Nam ................................... 19 Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH MỘT SỐ HÌNH PHẠT BỔ SUNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG ........................................................................... 30 2.1. Thực trạng thi hành và những kết quả đạt được trong thi hành án phạt tiền bổ sung, tịch thu tài sản giai đoạn năm 2011 đến năm 2015. .................................... 31 2.2. Thực trạng thi hành và kết quả đạt được trong thi hành án phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định và cấm cư trú ..... 36 2.3. Những hạn chế và bất cập trong công tác thi hành án phạt bổ sung ............. 38 2.4. Nguyên nhân của hạn chế và bất cập trong công tác thi hành một số hình phạt bổ sung nêu trên ............................................................................................ 51 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH MỘT SỐ HÌNH PHẠT BỔ SUNG TẠI TỈNH BÌNH DƯƠNG TRONG THỜI GIAN TỚI............................................................................................................................ 57 3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động thi hành hình phạt tiền bổ sung, tịch thu tài sản ....................................................................................................... 57 3.2. Tăng cường cơ chế quản lý quyền sở hữu tài sản công dân .......................... 62 3.3. Các giải pháp nâng cao nhận thức và phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành hình phạt bổ sung ......................................................................................... 63 3.4. Giải pháp nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức pháp luật của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân ................................................. 64 3.5. Các giải pháp về cơ sở vật chất, tổ chức, cán bộ thi hành án ........................ 66 3.6. Giải pháp tăng cường công tác kiểm tra, kiểm sát hoạt động thi hành án ..... 68 3.7. Một số giải pháp khác trong thi hành án........................................................ 68 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 76 PHỤ LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT - BLHS : Bộ luật hình sự - BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự - BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự - HPBS : Hình phạt bổ sung - HPC : Hình phạt chính - TAND : Tòa án nhân dân - THADS : Thi hành án dân sự - THAHS : Thi hành án hình sự - VKSND : Viện kiểm sát nhân dân DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU THỐNG KÊ Bảng 2.1: Số liệu thụ lý, thi hành án thu cho ngân sách nhà nước của các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương từ năm 2011 đến 2015. Bảng 2.2: Thống kê thi hành án phạt tiền bổ sung và tịch thu tài sản có quyết định thi hành án đến trước ngày 01/10/2015 trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Bảng 2.3: Biểu thống kê phân tích lý do các trường hợp không thể thi hành án các khoản là phạt tiền bổ sung và tịch thu tài sản tính đến thời điểm trước ngày 01/10/2015. Bảng 2.4: Biểu thống kê phân tích lý do các trường hợp không thể thi hành án các khoản là phạt tiền bổ sung và tịch thu tài sản tính đến thời điểm ngày 01/10/2015. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thi hành bản án của Tòa án nói chung và thi hành hình phạt bổ sung trong bản án hình sự nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động áp dụng pháp luật - một hoạt động cụ thể trong thực hiện pháp luật, đây là khâu cuối cùng của hoạt động áp dụng pháp luật. Nếu không thực hiện hiệu quả, nghiêm túc bản án đã được Tòa án phán quyết, thì tất cả các hoạt động tố tụng trước đó trở nên vô hiệu trên thực tế, làm giảm sút lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Tòa án, đối với chính quyền, là một tác nhân gây mất ổn định xã hội. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, bên cạnh những thành tựu đạt được thì mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng bộc lộ nhiều vấn đề tiêu cực, với mục tiêu lợi nhuận là chính, khó tránh khỏi là mâu thuẩn gay gắt, ganh đua quyết liệt trên thương trường sẽ dẫn đến không ít người lấy mục đích lợi nhuận, tiền bạc làm mục đích cao nhất, duy nhất trong cuộc đời mà bất chấp đạo lý, pháp lý. Họ sẵn sàng phạm tội để có tiền bạc, sẵn sàng đánh đổi hàng chục năm tù để trốn tránh việc thi hành hình phạt bổ sung trên thực tế. Chính vì vậy, việc tổ chức thực thi hình phạt bổ sung trong bản án hình sự có ý nghĩa hết sức quan trọng trong phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, là vấn đề nhạy cảm, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước. Trong những năm gần đây công tác thi hành án hình sự và công tác thi hành án dân sự về thi hành hình bổ sung trong bản án hình sự ngày càng được Đảng, Nhà nước chú trọng, quan tâm. Từ việc xây dựng Luật Thi hành án hình sự và Luật Thi hành án dân sự đến việc tăng cường phát triển đội ngũ cán bộ thi hành án về số lượng cũng như về chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành hình phạt bổ sung trong bản án hình sự còn tồn tại những bất cập cần được tiếp tục nghiên cứu để khắc phục và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác thi hành án nói chung và công tác thi hành hình phạt bổ sung trong bản án hình sự nói riêng. 1 Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Thi hành hình phạt bổ sung từ thực tiễn tỉnh Bình Dương” làm luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hình phạt và tội phạm là hai đối tượng nghiên cứu của Khoa học luật hình sự do vậy được rất nhiều nhà nghiên cứu lý luận hình sự, tội phạm học và các cơ quan bảo vệ pháp luật quan tâm nghiên cứu trên nhiều khía cạnh. Vấn đề có liên quan về thi hành án đã có nhiều bài viết được đăng trên các tạp chí như Dân chủ và pháp luật, nhưng thi hành hình phạt bổ sung trong bản án hình sự chưa được bàn luận nhiều. Một số bài viết được đăng tải trên tạp chí như: - Trần Quốc Toản, “Về hình phạt tiền trong luật một số nước”, Tạp chí nhà nước và pháp luật số 07/2002, - TS. Trương Quang Vinh, “Hình phạt tiền trong Bộ luật hình sự năm 1999”, Tạp chí Luật học số 4/2002, - Nguyễn Hoàng Lâm, “Một số vấn đề lý luận về hình phạt tiền”, Tạp chí Toà án số 16/2009, - Lê Thị Kim Dung, “Vướng mắc xử lý tài sản tịch thu sung công quỹ nhà nước trong thi hành án dân sự”, - Tạp chí nghề luật, “Toà án hay cơ quan thi hành án có thẩm quyền ra quyết định thi hành quyết định phạt tiền trong bản án hình sự”, Học viện Tư pháp 1/2007, - Công trình nghiên cứu có liên quan: Luận văn thạc sĩ Phan Thành Bút - “Giải quyết vấn đề dân sự trong tố tụng hình sự”. Tuy nhiên, trên địa bàn tỉnh Bình Dương thì chưa có bài viết, công trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề thực tiễn thi hành HPBS của các cơ quan Thi hành án trong tỉnh Bình Dương. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về thi hành hình phạt bổ sung, đánh giá thực trạng công tác thi hành một số hình phạt bổ sung trên địa bàn tỉnh Bình Dương (hình phạt tiền bổ sung; tịch thu tài sản; cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc 2 nhất định và cấm cư trú), chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hạn chế tồn tại trong công tác này. Trên cơ sở đó đưa ra một số đề xuất về giải pháp nhằm phát huy có hiệu quả công tác thi hành một số hình phạt bổ sung ở tỉnh Bình Dương. Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: + Nghiên cứu, làm rõ các vấn đề lý luận về hình phạt bổ sung, thi hành hình phạt bổ sung; + Phân tích và đánh giá đầy đủ thực trạng các quy định của pháp luật hình sự về hình phạt bổ sung và thực tiễn thi hành một số hình phạt bổ sung trên địa bàn tỉnh Bình Dương trong những năm gần đây, chỉ ra những mặt tích cực cũng như hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân. + Đưa ra những giải pháp áp dụng đúng hình phạt bổ sung trên thực tế và các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt bổ sung trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về vấn đề thi hành HPBS theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cả về lý luận và thực tiễn áp dụng, kết quả thi hành. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về tình hình áp dụng và thực tiễn tổ chức thi hành một số HPBS trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015. Tuy nhiên, trên thực tiễn thi hành án hình sự tại tỉnh Bình Dương giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 cho thấy các hình phạt bổ sung khác: Tước một số quyền công dân; Quản chế và trục xuất… trên thực tế Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bình Dương áp dụng rất ít. Do vậy, để đánh giá được thực trạng thi hành các hình phạt bổ sung trên là rất khó và sẽ không đủ mẫu để đánh giá chính xác. Mặt khác trong dung lượng của một luận văn thạc sĩ luật học thì không thể đánh giá hết thực tiễn thi hành các hình phạt bổ sung. Vì vậy, trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ, học viên xin tập trung phân tích, đánh giá sâu về thực trạng thi hành hình phạt bổ sung là hình phạt tiền; tịch thu tài sản; cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định và cấm cư trú. 3 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Cơ sở phương pháp luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực pháp luật hình sự; pháp luật dân sự, những thành tựu của khoa học, triết học, xã hội học, luật học, các học thuyết chính trị pháp luật… - Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra, xã hội học… Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả tham khảo ý kiến chuyên gia, tạp chí và phương pháp nghiên cứu các bản án và hồ sơ thi hành án. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Đây là công trình đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sĩ nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về thi hành một số HPBS từ thực tiễn địa bàn tỉnh Bình Dương. Những kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng sau: - Ý nghĩa khoa học: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn thiện lý luận khoa học về thi hành một số HPBS trong bản án, quyết định hình sự. - Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả của đề tài có thể được vận dụng trong thực tiễn xét xử; áp dụng và thi hành một số HPBS của Tòa án, cơ quan Thi hành án các cấp trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng và Thi hành án có cái nhìn toàn diện, nhận thấy được vị trí, vai trò của HPBS và những hạn chế, thiếu sót trong quá trình áp dụng, tổ chức thi hành để khắc phục trong thời gian tới. Đây là đề tài nghiên cứu một cách toàn diện về thực tiễn thi hành một số HPBS, do vậy luận văn có thể là cơ sở cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tham khảo trong việc sửa đổi, bổ sung BLTTHS, Luật THAHS và Luật THADS trong thời gian tới, và dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, học tập tại các cơ sở nghiên cứu và đào tạo chuyên ngành luật ở nước ta. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: 4 Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về thi hành hình phạt bổ sung. Chương 2: Thực tiễn thi hành một số hình phạt bổ sung trên địa bàn tỉnh Bình Dương trong những năm gần đây. Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành một số hình phạt bổ sung trên địa bàn tỉnh Bình Dương trong thời gian tới. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT BỔ SUNG 1.1. Khái niệm, bản chất, đặc điểm của hoạt động thi hành án 1.1.1. Khái niệm, bản chất của hoạt động thi hành án Tòa án là cơ quan xét xử, nhân danh Nhà nước ban hành ra các phán quyết nhằm góp phần đảm bảo việc giữ gìn trật tự kỹ cương xã hội. Song những phán quyết đó có được thi hành trên thực tế hay không là nhờ một phần rất lớn vào hoạt động tổ chức thi hành án. Theo từ điển tiếng Việt, "thi hành" có nghĩa là làm cho thành hiện thực điều đã được chính thức quyết định. Như vậy, có thể định nghĩa thi hành án là việc đưa các bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án ra thi hành. Thi hành án là quá trình diễn ra sau quá trình xét xử của Tòa án. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở để tiến hành các hoạt động thi hành án. Vì vậy, có thể nói không có kết quả của hoạt động xét xử thì cũng không có hoạt động thi hành án. Tuy nhiên, bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không phải là cơ sở duy nhất để tiến hành các hoạt động thi hành án mà thi hành án đòi hỏi những nguyên tắc, thủ tục và cách thức hoạt động riêng bao gồm thi hành án hình sự và thi hành án dân sự. Trong khoa học pháp lý hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về bản chất, khái niệm của thi hành án, nhưng tựu chung những ý kiến đó đều thể hiện rõ ở hai quan niệm cơ bản: Coi thi hành án là giai đoạn của tố tụng và thi hành án là dạng hoạt động hành chính - tư pháp. Quan niệm thứ nhất cho rằng, thi hành án là một giai đoạn của tố tụng, vì: “Có xét xử thì phải có thi hành án, thi hành án dựa trên cơ sở của công tác xét xử. Xét xử và thi hành án là hai mặt thống nhất của quá trình bảo vệ lợi ích của đương sự”. Quan điểm này thừa nhận “không phải mọi hoạt động trong quá trình thi hành án và quyết định của Tòa án đều nằm trong phạm vi điều chỉnh của Luật tố tụng...” nhưng lại cho rằng thi hành án “thực chất là hoạt 6 động tố tụng của Tòa án, của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm bảo đảm cho bản án và quyết định của Tòa án được thi hành một cách chính xác, kịp thời”. Quan niệm thứ hai lại cho rằng thi hành án là dạng hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Theo quan niệm này thì tố tụng là quá trình tiến hành giải quyết các vụ án theo quy định của pháp luật; quá trình này trải qua nhiều giai đoạn nhưng các giai đoạn có liên quan mật thiết với nhau trong thể thống nhất và xét xử là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng cho nên bản án, quyết định của Toà án là kết quả cuối cùng đánh dấu sự kết thúc của quá trình tố tụng. Điều 106 Hiến pháp 2013 quy định: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” [34]. Từ quy định mang tính Hiến định này, có thể đưa ra khái niệm về thi hành án như sau: Thi hành án nói chung là một dạng hoạt động Nhà nước, do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành nhằm thực thi các bản án, quyết định của TAND đã có hiệu lực pháp luật; việc thi hành án được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp Nhà nước theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ; tất cả các cơ quan, tổ chức và công dân đều phải tôn trọng; tổ chức và cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh thi hành [25, Tr. 3]. Về bản chất của thi hành án bao gồm thi hành án hình sự và thi hành án dân sự, việc xác định bản chất thi hành án là một trong những vấn đề lý luận cơ bản của thi hành án hình sự và thi hành án dân sự. Bởi lẽ, việc xác định đúng bản chất của thi hành án nói chung có ý nghĩa quan trọng trên nhiều phương diện, đặc biệt là tạo ra cơ chế quản lý, mô hình tổ chức và hoạt động phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động thi hành án. Quan điểm thứ nhất: thi hành án là hoạt động tư pháp, là một giai đoạn của quá trình tố tụng. Những người theo quan niệm này cho rằng: Một vụ án chỉ được coi là giải quyết xong khi phán quyết của Tòa án đã được thi hành xong trên thực tế. Như vậy, hoạt động thi hành án là một giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng, là sự nối tiếp để hiện thực hóa các bản án, quyết định của Tòa án và nó được diễn ra ngay sau quá trình xét xử, được quy định trong BLTTHS và BLTTDS [25, Tr. 4]. 7 Theo quan điểm này, bản án, quyết định của Tòa án mới chỉ xác định chân lý sự việc, xác định hành vi có tội hay vô tội, ai là người có tội. Phán quyết đó sẽ vô nghĩa và do vậy, vụ án vẫn chưa được giải quyết chừng nào bản án, quyết định của Tòa án chưa được thực hiện trên thực tế nên thi hành án là hoạt động bảo vệ pháp luật, phù hợp với hoạt động của tố tụng tư pháp. Ở đây, kết quả của giai đoạn xét xử là cơ sở, là căn cứ để tiến hành hoạt động thi hành án. Thi hành án dường như là sự tiếp tục của giai đoạn xét xử và chịu sự chi phối của cơ quan tố tụng, đặc biệt là Tòa án. Việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án đều được tiến hành dựa trên các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS và BLTTDS. Tuy nhiên, xét về bản chất, tố tụng là việc giải quyết các tranh chấp thông qua thủ tục xét xử của Tòa án. Điều đó có nghĩa là khi Tòa án đã đưa ra phán quyết về chân lý của sự việc, về việc phạm tội hay không phạm tội và về hình phạt áp dụng đối với trường hợp này hay trường hợp khác thì quá trình tố tụng cũng kết thúc. Quan điểm thứ hai: Thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp, bởi vì: Thứ nhất, tính chất hành chính – tư pháp phản ánh mối quan hệ giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong thi hành án và thi hành án là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử. Với tính chất là hoạt động chấp hành, căn cứ để thi hành án là các bản án, quyết định của Tòa án. Toàn bộ quá trình thi hành án với những hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau đều tuân theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm thực hiện nội dung quyết định của bản án, quyết định của Tòa án [25, Tr. 4]. Thứ hai, thi hành án là dạng hoạt động quản lý vì trong quá trình thi hành, các CQTHAHS, CQTHADS phải tác động trực tiếp tới đối tượng phải thi hành án, để họ tự nguyện thi hành hoặc áp dụng các biện pháp cưỡng chế buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án; giáo dục họ ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của cá nhân, của Nhà nước và xã hội, giáo dục họ trở thành người công dân có ích cho xã hội [25, Tr. 4]. Thứ ba, thủ tục thi hành án nói chung không phải là thủ tục tố tụng mà là thủ tục hành chính của hoạt động chấp hành. Với tính chất là hoạt động chấp hành, cho dù căn cứ để thi hành án là các bản án và quyết định của Tòa án nhưng quá trình thi 8 hành án hình sự được thực hiện với những hoạt động, biện pháp, cách thức không mang tính tố tụng, mà ở đây có thể thấy sự kết hợp giữa luật nội dung và luật hình thức; Thứ tư, các nguyên tắc thi hành án không giống với các nguyên tắc tố tụng; Thứ năm, cơ quan Thi hành án hình sự và cơ quan thi hành án dân sự không phải là cơ quan tố tụng; Thứ sáu, trong thi hành án, để thực hiện được các hoạt động chấp hành và quản lý nói trên, phương pháp thuyết phục, giáo dục người chấp hành án có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhưng phương pháp mệnh lệnh, cưỡng chế bắt buộc phải thi hành có tính chất đặc biệt [25, Tr. 5]. Thứ bảy, việc tổ chức thi hành hình phạt bổ sung do cơ quan THAHS, cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương cơ sở theo thủ tục quản lý hành chính và một phần do cơ quan THADS thực hiện. Như vậy, có thể nói trong quá trình thi hành án, pháp luật được áp dụng chủ yếu không phải là pháp luật tố tụng, mà là các quy định pháp luật về hành chính – tư pháp. Tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai về cách lý giải như trên và nhận thấy, thi hành án tuy có quan hệ chặt chẽ với các giai đoạn tố tụng trước đó nhưng vẫn là hoạt động có tính đặc thù và có mục đích trực tiếp riêng biệt. Nếu tất cả các hoạt động tố tụng đều nhằm đạt đến một phán quyết đúng đắn của Tòa án, thì thi hành án lại nhằm thực hiện các nội dung trong phán quyết của Tòa án. Mọi hoạt động tố tụng đều dừng lại ở việc phán quyết của Tòa án, trong khi đó thi hành án lại được triển khai bắt đầu từ việc phán quyết của Tòa án có hiệu lực thi hành. Hơn nữa, các mối quan hệ phát sinh trong quá trình thi hành án hình sự và thi hành án dân sự tuân theo các nguyên tắc mang đậm tính hành chính hơn là tính tố tụng. 1.1.2. Đặc điểm của hoạt động thi hành án Từ khái niệm, bản chất thi hành án nói chung nêu trên đã phản ánh đặc điểm thi hành án, bao gồm: 9 Thứ nhất, thi hành án là một dạng hoạt động của Nhà nước, nhằm thực hiện quyền lực Nhà nước, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện, bảo đảm hiệu lực thực tế của các bản án, quyết định của Tòa án bằng các biện pháp Nhà nước. Thứ hai, thi hành án được tiến hành theo một trật tự do pháp luật quy định, với những trình tự, thủ tục chặt chẽ. Toàn bộ quá trình thi hành các bản án, quyết định và các quan hệ liên quan đến việc thi hành được quy định cụ thể, rõ ràng. Thứ ba, căn cứ và nội dung của thi hành án chính là các nội dung cụ thể trong các phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Đây là điểm thể hiện rõ nhất tính tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước của thi hành án. Thứ tư, có nhiều cơ quan tham gia vào quá trình thi hành án, nhất là trong việc tổ chức thi hành các bản án và quyết định của Toà án có nhiều nội dung. Thực tế đã cho thấy rõ, trong thi hành án vai trò của các cơ quan tư pháp là rất quan trọng, nhất là các cơ quan Thi hành án, nhưng trong nhiều trường hợp nếu không có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tư pháp với cơ quan hành pháp và có sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng thì việc thi hành các bản án phức tạp khó đạt được kết quả tốt. 1.2. Khái niệm, đặc điểm của thi hành hình phạt bổ sung 1.2.1. Khái niệm hình phạt bổ sung và thi hành hình phạt bổ sung Trong xã hội khi có hành vi vi phạm pháp luật thì Nhà nước sẽ dùng những biện pháp khác nhau để ngăn chặn và trừng trị các hành vi đó như các biện pháp về chính trị, pháp lý, kinh tế, văn hóa xã hội, giáo dục… Các biện pháp này đan xen hỗ trợ nhau và tùy thuộc vào yêu cầu cụ thể của công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm trong những thời kỳ lịch sử mà biện pháp này hay biện pháp kia được đặt lên hàng đầu. “Trong tất cả các biện pháp đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm thì hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, được áp dụng phổ biến và có lịch sử lâu đời nhất”[45, Tr 20]. Bộ luật hình sự hiện hành của nước ta đã xác định “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong BLHS và do Tòa án quyết định. Đây là lần đầu tiên khái niệm hình phạt được quy định trong Điều 26 BLHS 10 hiện hành, là một điểm mới so với BLHS năm 1985. Việc quy định này không những đảm bảo nhận thức thống nhất về hình phạt trong khoa học, mà còn nhiều mục đích khác như: giáo dục, cải tạo người phạm tội, bảo đảm tính răn đe và nghiêm minh của pháp luật hình sự cũng như yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong cuộc sống mỗi con người có nhiều lợi ích khác nhau cần đạt tới, cần phải được thỏa mãn. Tuy nhiên, nếu khái quát lại, mỗi người chỉ có hai loại lợi ích, đó là lợi ích về nhân thân và lợi ích về tài sản. Lợi ích nhân thân là lợi ích về tinh thần, thể chất của mỗi cá nhân trong xã hội, như danh dự, nhân phẩm, uy tín, sự bất khả xâm phạm về thân thể… Lợi ích về nhân thân không có đại lượng ngang giá, gắn liền với chủ thể không thể chuyển giao cho người khác trừ trường hợp pháp luật qui định khác. Tác động vào lợi ích nhân thân của cá nhân là hình thức tác động đến ý chí chủ thể quyền một cách mạnh mẽ nhất, trực tiếp nhất, và chính người phạm tội phải thực hiện hình phạt này. Chính vì vậy, nhà làm luật quy định đa số hình phạt đối với người phạm tội là hình thức hạn chế tước bỏ quyền nhân thân. Lợi ích về tài sản là lợi được hưởng lợi từ chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản do tài sản mang lại. Lợi ích này là lợi ích ngoại thân của mỗi người, có đại lượng ngang giá, có thể chuyển giao cho người khác. So với lợi ích về nhân thân, nếu một người phạm tội bị hạn chế tước bỏ lợi ích này thì sự tác động mang tính gián tiếp. Người khác có thể gián tiếp thay thế thi hành hình phạt bằng cách chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho người phạm tội để người này trực tiếp thực hiện. Chính điều này sẽ dẫn đến tác dụng giáo dục, sự cảm nhận về sự tác động của hình phạt tiền bổ sung và tịch thu tài sản còn tùy thuộc vào hoàn cảnh kinh tế, tình trạng tài sản của người phạm tội. Vấn đề đặt ra là, trong BLHS hiện hành không có quy phạm định nghĩa về HPBS. Do vậy, về mặt khoa học cần phải xây dựng một khái niệm về HPBS, trong đó phản ánh được bản chất và các đặc trưng cơ bản của HPBS. Nghiên cứu các công trình đã được công bố ở trong và ngoài nước. Các học giả có quan niệm riêng về HPBS như: “Các HPBS về nguyên tắc được thêm cho HPC, khi thì luật buộc 11 Thẩm phán tuyên các HPBS (các HPBS bắt buộc), khi thì luật chỉ cho các Thẩm phán tùy nghi áp dụng (các HPBS tùy nghi)” [40, Tr. 53], “Các HPBS là những hình phạt được quy định đối với một số tội phạm nhất định và nhằm bổ sung cho các HPC…HPBS cần phải được quy định trong luật và được Thẩm phán tuyên phạt rõ ràng”, “HPBS là hình phạt có thể thêm vào HPC khi luật có quy định nó và được Thẩm phán tuyên đối với người bị kết án”. “Các hình phạt được thêm vào HPC nhưng nó chỉ áp dụng với người phạm tội nếu đã được tuyên trong bản án kết tội của Tòa án”; “HPBS là hình phạt chỉ có thể được tuyên kèm theo HPC” [40, Tr. 54]. Theo PGS.TS Trần Văn Độ: “HPBS là hình phạt được áp dụng kèm theo HPC nhằm tăng cường hiệu quả của việc áp dụng hình phạt, đáp ứng mục tiêu cải tạo, giáo dục người phạm tội, phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng” [20, Tr. 8]. GS.TS Võ Khánh Vinh định nghĩa “HPBS là hình phạt được bổ sung thêm cho HPC và không được tuyên độc lập mà chỉ có thể tuyên kèm theo một HPC Tòa án có thể tuyên một hoặc vài HPBS” [47, Tr. 113]. Trong Bách khoa toàn thư Việt Nam, HPBS được định nghĩa: “HPBS là hình phạt được Tòa án quyết định thêm đối với người bị Tòa án quyết định HPC”. Phân tích những khái niệm nêu trên về HPBS cho thấy, các nhà khoa học Việt Nam cũng như nước ngoài đều có sự thống nhất khi khẳng định HPBS là loại hình phạt được thêm, bổ sung cho các HPC. Trong các định nghĩa về HPBS các nhà khoa học cũng nêu lên được một số đặc trưng của HPBS. Kế thừa các quan niệm về HPBS nêu trên, đồng thời căn cứ vào các quy định của BLHS Việt Nam hiện hành, tác giả cho rằng cần phải hiểu HPBS như sau: “HPBS là một trong những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước, được quy định trong BLHS, do Tòa án có thể hoặc bắt buộc áp dụng kèm theo HPC đối với người bị kết án về một số tội phạm cụ thể mà luật định, được thể hiện ở việc hạn chế một số quyền, lợi ích của họ nhằm bổ sung cho HPC trong việc đạt được mục đích của hình phạt”. Từ khái niệm thi hành án và hình phạt bổ sung kể trên, có thể hiểu hoạt động thi hành hình phạt bổ sung là việc đưa ra thi hành các quyết định của Tòa án về việc 12 áp dụng các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước, được quy định trong BLHS, do Tòa án có thể hoặc bắt buộc áp dụng kèm theo HPC đối với người bị kết án về một số tội phạm cụ thể mà luật định, được thể hiện ở việc hạn chế một số quyền, lợi ích của họ nhằm bổ sung cho HPC trong việc đạt được mục đích của hình phạt. Theo Khoản 2 Điều 28 BLHS 1999, HPBS bao gồm: (a) Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; (b) Cấm cư trú; (c) Quản chế; (d) Tước một số quyền công dân; (đ) Tịch thu tài sản; (e) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; (g) Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính. Thi hành án phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định là việc cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Luật này buộc người phải chấp hành án không được đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc nhất định theo bản án đã có hiệu lực pháp luật [33]. Thi hành án phạt cấm cư trú là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật này buộc người chấp hành án không được tạm trú, thường trú ở một số địa phương nhất định theo bản án đã có hiệu lực pháp luật [33]. Thi hành án phạt quản chế là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật này buộc người chấp hành án phải cư trú, làm ăn sinh sống ở một địa phương nhất định dưới sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền và nhân dân địa phương theo bản án đã có hiệu lực pháp luật [33]. Thi hành án phạt tước một số quyền công dân là việc cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Luật này tước bỏ một hoặc một số quyền công dân của người chấp hành án theo bản án đã có hiệu lực pháp luật [33]. Thi hành án phạt tiền bổ sung và tịch thu tài sản là một dạng cụ thể của thi hành bản án hình sự được thi hành theo trình tự thủ tục của Luật thi hành án dân sự. Thi hành án là giai đoạn kết thúc trình tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử nhằm làm cho phán quyết của tòa án nhất định có hiệu lực pháp luật. Vì vậy bản án sau khi đã có hiệu lực pháp luật thì phải được thi hành nghiêm chỉnh. cũng có thể thấy hình phạt tiền khi là hình phạt chính chỉ áp dụng cho các tội phạm 13 mang tính chất ít nghiêm trọng, với tính cách là hình phạt chính thì hình phạt tiền được tuyên một cách độc lập. Ngược lại hình phạt tịch thu tài sản mặc dù là hình phạt phạt bổ sung, nhưng được pháp luật quy định áp dụng đối với những tội phạm mang tính nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng và phải được tuyên chung với các hình phạt chính khác kể cả tù chung thân hoặc tử hình. Thi hành án phạt trục xuất là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật này buộc người chấp hành án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo bản án đã có hiệu lực pháp luật [33]. 1.2.2. Đặc điểm của hình phạt bổ sung Trong hệ thống hình phạt được quy định tại Điều 32 BLHS hiện hành, ngoài việc quy định bảy HPC theo thứ tự từ thấp đến cao của mức độ nghiêm khắc, khoản 2 Điều 32 BLHS có quy định bảy HPBS, gồm có: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền khi không áp dụng là HPC; trục xuất khi không áp dụng là HPC. Các HPBS có đặc điểm: - Thứ nhất, HPBS không được áp dụng độc lập đối với mỗi tội phạm cụ thể mà chỉ được áp dụng bổ sung cho HPC và không được áp dụng đối với tất cả các tội phạm được quy định trong BLHS [40, Tr.55]. Hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam được phân thành HPC và HPBS được phân biệt chủ yếu dựa vào khả năng áp dụng độc lập của từng loại hình phạt đối với các trường hợp phạm tội cụ thể. HPC là loại hình phạt được áp dụng độc lập cho mỗi tội phạm cụ thể, không phụ thuộc vào các loại tội phạm khác. Khoản 2 Điều 28 BLHS hiện hành quy định đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ có thể bị áp dụng một HPC và có thể bị áp dụng một hoặc một số HPBS. Đây là một đặc điểm quan trọng của HPBS giúp phân biệt được hình phạt này với HPC. Đối với HPBS do nội dung trừng trị, giáo dục, cải tạo của nó về cơ bản không tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng loại tội phạm. Chỉ riêng HPBS sẽ không có khả năng thể hiện đầy đủ sự phản ứng của Nhà nước, 14 xã hội đối với từng loại tội phạm nhất định, không thỏa mãn yêu cầu đặt ra đối với chế tài về loại hình phạt cụ thể, cho dù các HPBS được quy định hoàn thiện đến mức nào chăng nữa cũng không thể đảm bảo đủ khả năng để Tòa án lựa chọn một HPBS tương xứng với mọi tội phạm. Giả sử HPBS được áp dụng độc lập thì do mức độ trừng trị, cưỡng chế của nó ít nghiêm khắc, khả năng giáo dục, cải tạo hạn chế nên mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung khó đạt được trong thực tiễn áp dụng và thi hành. Chính bởi tính chất trên của HPBS, nên HPBS không được quy định đối với mọi loại tội phạm cụ thể trong luật hình sự và cũng không được áp dụng độc lập mà chỉ có thể được áp dụng bổ sung kèm theo HPC đối với tội phạm cụ thể. Do tính chất phụ thuộc của HPBS vào HPC nên đối với trường hợp phạm tội cụ thể, người phạm tội không bị áp dụng HPC (được miễn hình phạt) thì Tòa án cũng không được áp dụng HPBS đối với họ. Tòa án chỉ có thể áp dụng những HPBS cụ thể nếu điều luật về tội phạm ấy có quy định. Trường hợp một người bị kết án về nhiều tội thì HPBS như trên không chỉ xuất phát từ chính sách hình sự mà còn từ các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự, trong đó có nguyên tắc công bằng “Việc nhà làm luật chỉ rõ đối với người phạm tội chỉ có thể áp dụng một HPC là khía cạnh ngang nhau của nguyên tắc công bằng trong việc quy định hình phạt và việc chỉ rõ kèm theo HPC có thể áp dụng một hoặc nhiều HPBS là thể hiện khía cạnh phân phối của nguyên tắc công bằng trong việc quy định hình phạt”[47, Tr. 114]. - Thứ hai, trong hệ thống hình phạt, các HPBS không được sắp xếp theo một trật tự nhất định như HPC. Đối với các HPC được quy định có tính hệ thống, liên kết chặt chẽ với nhau, sắp xếp theo một trật tự nhất định do tính chất nghiêm khắc của từng loại hình phạt quy định. Tùy theo chính sách hình sự của mỗi nước mà các HPC trong hệ thống hình phạt của luật hình sự được sắp xếp theo thứ tự khác nhau, có thể được sắp xếp theo thứ tự hình phạt nặng đến hình phạt nhẹ hoặc ngược lại. Nhưng việc sắp xếp đó phải tuân theo nguyên tắc hình phạt kế ngay sau hình phạt kia phải nặng hơn 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan