VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN MẠNH HÀ
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG
Chuyên ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính
Mã số: 60. 38. 01. 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. BÙI THỊ ĐÀO
HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ Luật học với đề tài “Thi hành án
dân sự đối với doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” là công trình
nghiên cứu khoa học độc lập của tôi.
Các thông tin, tài liệu, số liệu mà tôi thể hiện trong luận văn bảo đảm
tính chính xác, trung thực. Những kết quả nêu trong luận văn chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Mạnh Hà
DANH MỤC VIẾT TẮT
1. BCĐTHADS
2. HĐND
3. THA
4. THADS
5. TNHH
6. UBND
Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự
Hội đồng nhân dân
Thi hành án
Thi hành án dân sự
Trách nhiệm hữu hạn
Ủy ban nhân dân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU. .............................................................................................................. .1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP. .............................................................................. .8
1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án dân sự và thi hành án dân sự đối với
doanh nghiệp..... ..................................................................................................... .8
1.2. Quy định của pháp luật về thẩm quyền thi hành án đối với doanh nghiệp .... 16
1.3. Nội dung thi hành án đối với doanh nghiệp ................................................... 19
1.4. Thủ tục thi hành án đối với doanh nghiệp ..................................................... 21
1.5. Tổ chức thi hành quyết định thi hành án dân sự đối vói doanh nghiệp ......... 22
Chương 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP Ở TỈNH HẢI DƯƠNG ....................................................................... 29
2.1. Thực trạng thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải
Dương .................................................................................................................... 29
2.2. Đánh giá chung về thực trạng thi hành án dân sự đối với Doanh nghiệp
trên địa bàn tỉnh Hải Dương ................................................................................. 48
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP........................................................................ 61
3.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp từ
thực tiễn tỉnh Hải Dương................................................................................ ..... .61
3.1.1. Nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các cán bộ công chức ngành
thi hành án............................................................................................................. 61
3.1.2. Bảo đảm công tác chỉ đạo điều hành thi hành án dân sự...................... ..... .64
3.1.3. Hoàn thiện cơ chế phối hợp giải quyết thi hành án dân sự của các cơ
quan hữu quan ....................................................................................................... 67
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp... ..... 69
3.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp.............................................................................................................. ..... 69
3.2.2. Xã hội hóa một phần công tác Thi hành án dân sự............................... ...... 72
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 78
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Biểu đồ 2.1. Kết quả về việc thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp ở tỉnh Hải
Dương từ năm 2013-2016............................................................................................47
Biểu đồ 2.2. Kết quả thi hành án về tiền đối với doanh nghiệp ở tỉnh Hải Dương
từ năm 2013-2016 ........................................................................................... 47
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự là hoạt động làm cho các bản án, quyết định đã có
hiệu lực thi hành của Tòa án được thực hiện. Nếu như kết quả hoạt động xét
xử là đưa ra phán quyết (bản án, quyết định) trên cơ sở áp dụng các điều luật
cụ thể để xem xét các tình tiết xảy ra, thì kết quả của thi hành án làm cho các
phán quyết đó được thực hiện trong thực tế. Như vậy, thi hành án dân sự là
hoạt động diễn ra ngay sau khi Tòa án đã có phán quyết giải quyết các tranh
chấp trong xã hội hoặc áp dụng các chế tài xử phạt các hành vi phạm tội. Thi
hành án dân sự là hoạt động do cơ quan thi hành án dân sự tiến hành theo
những thủ tục, trình tự nhất định, nhằm đưa ra các bản án, quyết định dân sự
đã có hiệu lực thi hành của Tòa án ra để thi hành, các bản án, quyết định dân
sự của Tòa án không phải chỉ bao gồm bản án, quyết định do Tòa án dân sự
tuyên về những vấn đề hoàn toàn nội dung dân sự như: trả nợ, đòi nhà cho
thuê… mà còn về ly hôn, cấp dưỡng nuôi con… (án hôn nhân và gia đình),
trả tiền công lao động… (án lao động), phạt tiền do vi phạm hợp đồng… (án
kinh tế), thanh toán cho các chủ nợ có bảo đảm… (án về phá sản), đặc biệt
trong những năm qua cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội mạnh mẽ của
đất nước bên cạnh những cơ hội phát triển đi lên cũng kèm theo không ít
những khó khăn thách thức đặt ra tình trạng vi phạm hợp đồng, tranh chấp
thương mại liên quan đến doanh nghiệp diễn ra ngày càng phức tạp.
Những văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới về tổ chức và
hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự; xác định rõ hơn địa vị pháp lý của
các chủ thể pháp luật đối với việc thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự
nhất là trong lĩnh vực doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, nhận thức của các chủ thể
về pháp luật thi hành án dân sự được nâng lên. Nhiều bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật của Tòa án (quyết định dân sự trong bản án hình sự; bản
án, quyết định dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại) đã được các cơ
1
quan thi hành án dân sự kịp thời đưa ra thi hành theo quy định của pháp luật
đạt kết quả tương đối cao. Điều này, đã đảm bảo tính hiệu lực của các bản án,
quyết định của Tòa án, bảo đảm lợi ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp
của các tổ chức và công dân; thể hiện tính nghiêm minh của các bản án, quyết
định của Tòa án nhân dân, tạo lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà
nước, góp phần đảm bảo an ninh trật tự xã hội, giữ gìn kỷ cương, phép nước,
thực hiện dân chủ, công bằng xã hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Hải Dương là một tỉnh có số lượng án thụ lý hàng năm tương đối lớn.
Trong những năm qua, công tác thi hành án dân sự ở Hải Dương đã đạt những
kết quả đáng ghi nhận; luôn hoàn thành tốt chỉ tiêu Quốc hội và Chính phủ
giao cho, nhiều vụ việc khó khăn, phức tạp, tồn đọng lâu năm đã được tổ chức
thi hành dứt điểm. Kết quả đạt được nói trên phản ánh sự cố gắng, nỗ lực của
toàn ngành Tư pháp nói chung, cũng như đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự
nói riêng; sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của cấp ủy đảng, chính quyền địa
phương; sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ của các ngành hữu quan trong việc thi
hành án dân sự.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, cũng như nhiều tỉnh
trên cả nước, thực trạng thi hành án dân sự ở Hải Dương vẫn còn bộc lộ nhiều
vấn đề tồn tại, yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong
tình hình mới hiện nay. Lượng án tồn đọng qua các năm còn rất lớn đặc biệt
là án đối với người phải thi hành án là doanh nghiệp. Tình trạng trên có nhiều
nguyên nhân khác nhau như: Pháp luật thi hành án dân sự hiện hành còn thiếu
tính khả thi, và chưa kịp thời điều chỉnh những quan hệ liên quan đến doanh
nghiệp nhiều điểm còn chưa rõ ràng, bất cập; một số cán bộ thi hành án nhất
là đội ngũ Chấp hành viên còn thiếu trách nhiệm trong công việc, có thái độ
hách dịch, vòi vĩnh khiến cho quần chúng nhân dân bức xúc và còn lúng túng
trong việc áp dụng pháp luật liên quan đến doanh nghiệp; ở một số nơi, cấp
ủy, chính quyền các cấp chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình trong
2
việc thực hiện tổ chức, chỉ đạo thi hành án dân sự theo quy định của pháp
luật; Ban chỉ đạo thi hành án dân sự hoạt động còn hình thức, chưa hiệu quả;
công tác phối hợp thi hành án của các cơ quan chức năng theo quy định của
pháp luật còn nhiều bất cập; nhận thức và tạo điều kiện của các tổ chức, cá nhân
về công tác thi hành án dân sự còn chưa đầy đủ. Thực tế đó, đòi hỏi nâng cao
việc thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự, đảm bảo cho các quyết định và
bản án dân sự có hiệu lực pháp luật được thi hành trong thực tế đặc biệt là thi
hành án đối với doanh nghiệp tại tỉnh Hải Dương trở nên cấp thiết.
Với những lý do trên tôi chọn để tài: “Thi hành án dân sự đối doanh
nghiệp từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” làm luận văn Thạc sỹ Luật học chuyên
ngành Luật hiến pháp và luật hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta trong những năm gần đây, vấn đề thi hành án đối với doanh
nghiệp đang được đặt ra và là nhiệm vụ cấp bách của các cơ quan Đảng, Quốc
hội, Chính phủ. Nghiên cứu về thi hành án dân sự trên một số lĩnh vực cụ thể
có các đề tài: Nghiên cứu về thi hành án dân sự đã có một số đề tài: “Luận cứ
khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong
giai đoạn mới” đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước do Bộ Tư pháp chủ
trì; Cục Quản lý thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành
án”; tác giả Nguyễn Quang Thái có công trình: “Đổi mới tổ chức và hoạt
động thi hành án dân sự ở Việt Nam”, (Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003); tác giả Nguyễn Công Long có công
trình: “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự”, (Luận văn thạc sĩ Luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội); tác giả Nguyễn Thanh Thủy có công
trình: “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự”, (Luận văn thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001); Luận văn thạc sỹ luật học “Một số vấn
đề về tổ chức và thi hành án dân sự Việt Nam”, của tác giả Trần Văn Quảng;
3
tác giả Lê Xuân Hồng có công trình: “Xã hội hóa một số nội dung thi hành án
dân sự”, (Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002); tác
giả Bùi Xuân Khánh có công trình: “Một số ý kiến về thủ tục thi hành án dân
sự- kinh tế của Việt Nam từ cách tiếp cận của Luật so sánh, tài liệu hội thảo:
Đổi mới tư pháp dân sự trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi”, Viện nghiên
cứu Nhà nước và pháp luật; tác giả Lê Anh Tuấn có công trình: “Đổi mới thủ
tục thi hành án dân sự Việt Nam”, (Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội); tác giả Nguyễn Đức Nghĩa có công trình: “Cơ sở lý luận và
thực tiễn khắc phục án tồn đọng trong thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện
nay”, (Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
2005); Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định
thừa phát lại, mã số 95-98/114/DT, tác giả Hoàng Thế Anh có công trình
“Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay” (Luận văn Thạc sĩ Luật
học, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2005); Luận án tiến sĩ năm
2012 của tác giả Đặng Đình Quyền về “Hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi
hành án dân sự ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ năm 2008 của tác giả Nguyễn
Thanh Thủy về “ Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện
nay” tác giả Phạm Nguyễn Đức Tài có công trình “ Xử lý tài sản có đăng ký
giao dịch bảo đảm để thu nợ cho các tổ chức tín dụng theo pháp luật thi hành
án dân sự từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh” (Luận văn Thạc sĩ Luật
học, Viện hàn lâm khoa học xã hội, 2014); tác giả Bùi Ngọc Hiếu có công
trình “Thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp ở nước ta hiện nay (Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Viện hàn lâm khoa học xã hội, 2015)”.
Những công trình nghiên cứu nói trên đã nghiên cứu những vấn đề
chung của pháp luật; thực hiện pháp luật trên một số lĩnh vực của đời sống xã
hội và những công trình nghiên cứu về vấn đề mang tính tổng thể hoặc những
khía cạnh, phạm vi cụ thể khác nhau của thi hành án dân sự. Nhưng đến nay,
chưa có công trình nghiên cứu nào dưới góc độ lý luận và thực trạng thi hành
4
án đối với doanh nghiệp, lý giải các nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng
thực hiện pháp luật, đề ra các giải pháp đảm bảo pháp luật thi hành án dân sự
đối với doanh nghiệp là người phải thi hành án nói chung và ở tỉnh Hải
Dương nói riêng.
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kết quả các công trình nghiên cứu, các
bài viết, đồng thời bằng kinh nghiệm thực tiễn và những hiều biết của mình,
tác giả trình bày trong luận văn cơ sở lý luận, nội dung pháp luật thi hành án
dân sự, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật thi hành án đối với doanh nghiệp
trên địa bàn tỉnh Hải Dương, đưa ra nhóm giải pháp đảm bảo hiệu lực các văn
bản pháp luật đã ban hành trong lĩnh vực thi hành án dân sự, đáp ứng vấn đề
cấp bách của thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở địa phương mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn nêu ra các giải pháp nhằm thi hành án
hiệu quả trong lĩnh vực thi hành án dân sự nói chung và thi hành án đối với doanh
nghiệp là người phải thi hành án nói riêng tại tỉnh Hải Dương.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích đã nêu trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau:
Một là, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp là người phải thi hành án;
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp là người phải thi hành án ở tỉnh Hải Dương hiện nay;
Ba là, xác định quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả
THADS đối với doanh nghiệp là người phải thi hành án ở tỉnh Hải Dương
trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Pháp luật thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp rất rộng được nghiên cứu
ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, tác giả tập
5
trung nghiên cứu vào những vấn đề cơ bản nhất thuộc nội dung đề tài như khái
niệm, đặc điểm, nội dung, thực trạng và giải pháp. Phạm vi nghiên cứu được giới
hạn dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật, thông qua thực tiễn và số
liệu của cơ quan thi hành án dân sự tỉnh và các cơ quan liên quan đến thi hành án
dân sự ở Hải Dương từ năm 2013 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận của luận văn
Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; bám sát đường lối, chủ
trương của Đảng về pháp luật, về công tác thi hành án dân sự và chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp duy vật biện
chứng của triết học Mác- Lênin theo quan điểm phát triển, toàn diện, lịch sử,
cụ thể. Ngoài ra luận văn còn kết hợp các phương pháp như: logic, phân tích,
tổng hợp, thống kê, khảo sát thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Thông qua việc làm rõ thực trạng thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp tại tỉnh Hải Dương- kết quả đã đạt được và những hạn chế, bất cập,
luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề vể pháp luật thi hành án dân sự,
từ đó nâng cao nhận thức của xã hội đối với việc thực hiện pháp luật thi hành
án dân sự đối với doanh nghiệp ở tỉnh Hải Dương.
Khẳng định, củng cố nhận thức về vị trí, vai trò ý nghĩa của thực hiện
pháp luật về THADS đối với doanh nghiệp là người phải thi hành án trong
việc phát huy tính tích cực, chủ động trong thi hành án dân sự của các cơ quan
bảo vệ pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của các tổ chức và
công dân đối với công tác thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp.
6
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số
vấn đề của pháp luật thi hành án dân sự. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo
cho cấp ủy và chính quyền của tỉnh Hải Dương trong việc lãnh đạo, chỉ đạo
công tác thi hành án dan sự đối với doanh nghiệp. Luận văn cũng có thể là tài
liệu tham khảo của Cục Thi hành án dân sự tỉnh trong việc nghiên cứu và chỉ
đạo các hoạt động về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp là người phải
thi hành án. Đối với các cơ quan có liên quan đến thi hành án dân sự, luận văn
có thể là tài liệu tham khảo trong việc thực hiện trách nhiệm của mình theo
quy định của pháp luật, trong việc phối hợp hoạt động thi hành án dân sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; luận văn
gồm 3 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp.
Chương 2: Thực trạng thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp ở tỉnh
Hải Dương.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự đối với
doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án dân sự và thi hành án dân sự
đối với doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án dân sự
Khái niệm thi hành án dân sự: Dưới góc độ lý luận, thi hành án dân sự
hiện nay còn có hai quan điểm khác nhau về nghĩa hẹp và nghĩa rộng của khái
niệm "dân sự".
Quan điểm thứ nhất cho rằng, khái niệm "dân sự" trong thi hành án dân
sự được hiểu là những bản án, quyết định liên quan đến quan hệ tài sản và
nhân thân phi tài sản như bản án, quyết định về giải quyết tranh chấp đối với
các loại hợp đồng dân sự, hôn nhân và gia đình và một số loại án khác có tính
chất dân sự.
Quan điểm thứ hai cho rằng, khái niệm "dân sự" ở đây phải được hiểu
theo nghĩa rộng, đó không chỉ bao gồm các bản án, quyết định về giải quyết
tranh chấp đối với các loại hợp đồng dân sự, hôn nhân và gia đình và một số
loại án khác có tính chất dân sự của Tòa án, mà còn bao gồm các bản án,
quyết định khác do pháp luật quy định.
Chúng tôi đồng tình với quan điểm này, bởi lẽ, theo quy định của pháp
luật hiện hành, nhiều vụ việc có tính chất khác nhau, được giải quyết theo các
trình tự khác nhau nhưng đến giai đoạn thi hành án đều được áp dụng theo
trình tự, thủ tục thi hành án dân sự như đã nêu.
Vì vậy, phạm vi của thi hành án dân sự phải được hiểu theo nghĩa rộng
bao gồm: bản án, quyết định về dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia
đình; quyết định hình sự về bồi thường thiệt hại; quyết định về tài sản và
quyền tài sản trong bản án, quyết định hành chính; bản án, quyết định dân sự
8
của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài được Tòa án
Việt Nam công nhận và cho thi hành ở Việt Nam. Điều này cũng hoàn toàn
phù hợp với pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới: Việc tổ chức thi hành
các bản án có nguồn gốc pháp luật về nội dung là luật tư (luật dân sự, kinh
doanh, thương mại, lao động), được thực hiện theo một thủ tục chung mà
không có sự tách bạch căn bản việc thi hành án dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh tế, thương mại hay lao động.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm thi hành án dân sự như
sau: Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp do cơ quan thi
hành án, Chấp hành viên tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định để đưa bản án, quyết định dân sự của tòa án hoặc các quyết định khác
theo quy định của pháp luật, được thực hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ
trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
- Đặc điểm của thi hành án dân sự: Hiện nay trong các văn bản pháp lý
về thi hành án vẫn chưa có điều luật nào khái niệm cụ thể về thi hành án dân
sự. Chính vì vậy cũng phát sinh những ý kiến khác nhau về tính chất đặc
trưng của thi hành án dân sự:
Có ý kiến cho rằng "Thi hành án dân sự là tổng hợp các hành vi tố tụng
thực hiện bản án, quyết định dân sự của Tòa án theo trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định". Theo ý kiến này, thì có thể coi đây là một giai đoạn kết thúc
quá trình tố tụng dân sự. Có ý kiến lại cho rằng: Thi hành án dân sự là tố tụng
hành chính vì các cơ quan thực hiện việc thi hành án thuộc Chính phủ không
phải thuộc Tòa án, việc giải quyết khiếu nại, kháng nghị trong thi hành án dân
sự đã khác hẳn về hình thức, thủ tục so với việc giải quyết kháng cáo, kháng
nghị trong tố tụng dân sự. Nhưng trên cơ sở bản chất của hoạt động thi hành
án dân sự là hoạt động mang tính chất tư pháp đặt dưới sự chỉ đạo, tổ chức và
quản lý của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước cho thấy:
9
Thứ nhất, cơ sở của hoạt động thi hành án là các bản án, quyết định dân
sự của Tòa án; các cơ quan tham gia vào quá trình thi hành án chủ yếu là cơ
quan tư pháp (theo nghĩa rộng).
Thứ hai, thi hành án và giai đoạn tố tụng trước đó có mối quan hệ với
nhau. Nếu một bản án, quyết định được Tòa án tuyên một cách công bằng,
thấu tình, đạt lý, thì việc thi hành án sẽ dễ dàng, nhanh chóng và ngược lại.
Xuất phát từ sự phân tích trên, trên cơ sở các quy định của pháp luật
hiện hành và thực tiễn công tác thi hành án dân sự có thể đưa ra khái niệm
mang tính bao quát: Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp, là
giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng do các cơ quan thuộc hệ thống hành
pháp quản lý và thực hiện nhằm thi hành trên thực tế các bản án, quyết định
về dân sự của Toà án có hiệu lực pháp luật. Từ khái niệm trên, có thế thấy thi
hành án dân sự có những đặc điểm sau:
Một là, thi hành án dân sự là hoạt động mang tính tài sản. Bản chất của
các quan hệ dân sự là quan hệ mang tính tài sản chính vì thế mà quá trình thi
hành án dân sự cũng mang tính tài sản.
Hai là, thi hành án dân sự là hoạt động mang tính định đoạt: Xuất phát
từ quyền tự định đoạt của các chủ thể trong luật dân sự. Chủ thể có quyền
được yêu cầu chủ thể khác thực hiện những hành vi nhất định hoặc không
thực hiện những hành vi nhất định để đáp ứng lợi ích.
Ba là, thi hành án dân sự còn là hoạt động mang tính thỏa thuận: Pháp
luật công nhận sự thỏa thuận tự nguyện của người thi hành án và người phải
thi hành án về việc chấp hành quyết định của Tòa án, nếu sự thỏa thuận đó
không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Bốn là, thi hành án dân sự là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước
nhằm bảo đảm hiệu lực thực tế của các bản án, quyết định của Tòa án, được
sử dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật.
Năm là, hoạt động thi hành án dân sự phải tuân thủ những trình tự, thủ
10
tục chặt chẽ do pháp luật quy định.
Sáu là, trong quá trình thi hành án dân sự Chấp hành viên, cán bộ thi
hành án độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp
Theo Đại từ điển tiếng Việt, thi hành là "Thực hiện điều đã chính thức
quyết định" [53, tr.1559]. Theo từ điển Luật học thì thi hành án là "giai đoạn
kết thúc trình tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử
nhằm làm cho phán quyết của toà án nhất định có hiệu lực pháp luật" [36,
tr.464].
Thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp có thể được hiểu là thực hiện
bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế. Bản án, quyết định của Tòa án
được hiểu là là văn bản pháp lý của Tòa án nhân danh nhà nước tuyên tại
phiên tòa, giải quyết về các vấn đề trong vụ việc dân sự, lao động, kinh doanh
thương mại. Việc thực hiện bản án, quyết định của Tòa án có hiệu quả, một
mặt bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của
xã hội và các tổ chức đối với phán quyết của cơ quan nhân danh nhà nước là
Tòa án, mặt khác nó là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các quyền, lợi ích
hợp pháp của nhà nước, tổ chức và công dân bị xâm hại.
Như vậy, thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp là hoạt động thi hành
án nhằm mục đích buộc doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án,
quyết định của Tòa án, quyết định của Trọng tài hoặc quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh đã có hiệu lực pháp luật
hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay.
Thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp: có những đặc điểm chung
phổ biến của THADS, đồng thời cũng có những đặc điểm đặc thù riêng. Đặc
tính chung, phổ biến của thi hành án dân sự là được phát sinh trên cơ sở bản
án, quyết định của Tòa án, do pháp luật thi hành án dân sự quy định; các chủ
thể trong hoạt động thi hành án bao gồm: Cơ quan THADS, Thủ trưởng cơ
11
quan THADS, Chấp hành viên, Thừa phát lại, người được thi hành án, người
phải thi hành án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và những quyền
phải thực hiện các nghĩa vụ đó theo quy định của pháp luật. Song nhìn chung,
THADS đối với doanh nghiệp là người phải thi hành án có những đặc điểm
sau đây:
Thứ nhất, thi hành án dân sự là hoạt động mang tính tài sản. Chính vì
thế mà quá trình thi hành án dân sự đối với các doanh nghiệp là người phải thi
hành án cũng mang tính tài sản. Nhưng tài sản của các doanh nghiệp lại mang
tính chất phức tạp và chịu sự điều chỉnh của nhiều luật khác nhau, ví dụ như:
một số doanh nghiệp thuộc loại công ty mẹ, công ty con. Khi phát sinh tranh
chấp pháp lý, công ty con là người phải thi hành án theo bản án, quyết định
nhưng đến khi cơ quan thi hành án xác minh để tiến hành kê biên, cưỡng chế
thi hành án thì toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của công ty mẹ, công ty con chỉ
thuê lại để tiến hành sản xuất... Cũng có những doanh nghiệp phải thi hành án
nhưng lại thuộc diện bảo lãnh, hoặc doanh nghiệp bị kê biên tài sản nhưng
việc định giá rất khó khăn vì toàn bộ máy móc đều thuộc diện máy móc
chuyên dụng, phải thuê chuyên gia trong lĩnh vực đó. Do vậy, bên cạnh việc
đảm bảo quyền và lợi ích của người được thi hành án theo phán quyết của Tòa
án thì cũng phải đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người phải thi hành
án đối với tài sản bị kê biên, xử lý nên trình tự thủ tục kê biên, xử lý tài sản
được quy định hết sức chặt chẽ qua nhiều giai đoạn từ tiến hành kê biên, định
giá tài sản, bán đấu giá tài sản và giao tài sản cho người mua trúng đấu giá...
Mặc dù, các quy định pháp luật về kê biên, xử lý tài sản được Luật thi hành án
dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định khá cụ thể, chặt
chẽ nhưng trong quá trình áp dụng đã nảy sinh ra một số bất cập làm ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự và gây khó khăn lúng
túng cho cơ quan thi hành án khi áp dụng trên thực tế đòi hỏi Chấp hành viên,
cán bộ thi hành án phải am hiểu, tinh thông pháp luật thuộc các lĩnh vực như
12
Luật doanh nghiệp, luật phá sản, thống kê, kế toán….
Thứ hai, cơ sở phát sinh hoạt động thi hành án dân sự bắt buộc phải từ
một bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của Trọng tài thương mại, của
Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh tuyên buộc doanh nghiệp phải thực hiện
một nghĩa vụ nhất định, phần lớn là nghĩa vụ về tài sản. Những trường hợp ít
phổ biến hơn là “buộc thực hiện hành vi nhất định” ví dụ như buộc nhận
người lao động trở lại làm việc, tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động hoặc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời như cấm chuyển dịch tài
sản, quyền sở hữu tài sản, phong tỏa tài khoản…
Thứ ba, người phải thi hành án là doanh nghiệp – là pháp nhân có con
dấu, tài sản độc lập, nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật. Được
thành lập và hoạt động phù hợp với pháp luật Việt Nam. Đồng thời theo quy
định của Luật doanh nghiệp, thì doanh nghiệp gồm các loại hình công ty trách
nhiệm hữu hạn (một thành viên và hai thành viên trở lên), công ty cổ phần và
công ty hợp danh, công ty tư nhân. Vì là một pháp nhân nên hoạt động của
doanh nghiệp gắn liền với hoạt động của người đại diện theo pháp luật hoặc
đại diện theo ủy quyền. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân được
quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc quyết định thành lập pháp nhân.
1.1.3. Vai trò của thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp
Vai trò của việc thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp là người phải
thi hành án thể hiện như sau:
Một là, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nhà nước, các tổ chức và cá
nhân
Thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp là một quá trình hoạt động có
mục đích nhằm làm cho các bản án, quyết định dân sự của Tòa án và các
quyết định khác theo quy định của pháp luật được thực hiện trên thực tế. Mọi
hành vi thi hành án chậm, thi hành không đúng với nội dung của bản án,
quyết định hoặc để án tồn đọng..., về thực chất đều xâm phạm đến lợi ích của
13
nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Vì vậy, thực hiện
nghiêm chỉnh pháp luật thi hành án dân sự không những bảo đảm tính nghiêm
minh của pháp luật, mà còn bảo đảm bảo đảm lợi ích của nhà nước, quyền lợi
ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Hai là, bảo đảm, giữ gìn bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, pháp luật nói chung và pháp
luật về thi hành án dân sự nói riêng là quá trình hoạt động có mục đích làm
cho các qui phạm pháp luật thi hành án dân sự được thực thi trên thực tế do
đó các bản án và quyết định có hiệu lực pháp luật về dân sự phải được thực
thi. Vấn đề tổ chức thi hành án dân sự cũng phải được thực hiện theo thủ tục,
trình tự pháp luật quy định. Các cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan thi
hành án nói riêng, các tổ chức và công dân phải có trách nhiệm trong việc
thực hiện tốt các các quy phạm pháp luật thi hành án dân sự góp phần bảo
đảm sự nghiêm minh của pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật của nhân
dân, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong thi hành án dân sự. Qua đó
làm cho tính thượng tôn pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân được nâng cao.
Ba là, góp phần ổn định xã hội, ổn định nền kinh tế
Thi hành án dân sự là làm cho những phán quyết của Tòa án trở thành
hiện thực. Nếu không được tổ chức thi hành, thì toàn bộ kết quả của cả quá
trình tố tụng trước đó trở nên vô nghĩa, dẫn đến kỷ cương phép nước bị coi
thường. Thông qua thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp, các mối quan hệ
kinh tế, tài sản bị xâm hại được khôi phục lại tình trạng ban đầu, trật tự pháp
luật được lập lại. Bản án có hiệu lực pháp luật được thi hành một cách triệt để
sẽ có tác động đến ý thức chấp hành pháp luật của người được thi hành án,
người phải thi hành án nói riêng và nhân dân nói chung, từ đó nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật trong tổ chức, cá nhân làm cho mọi người hiểu và làm
14
theo pháp luật.
Nội dung của các bản án dân sự là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của Nhà nước của doanh nghiệp bị xâm phạm. Nghĩa vụ dân sự là nghĩa vụ
bồi thường tài sản; tài sản có ý nghĩa rất to lớn đối với hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp do đó quá trình giải quyết một vụ việc sẽ chỉ được coi là kết
thúc khi bản án, quyết định của Tòa án được thực thi đầy đủ và kịp thời, đúng
như ý kiến của PGS.TS Trần Đình Hảo:
Các đương sự khi tham gia tố tụng kinh tế - dân sự không chỉ
quan tâm đến kết quả xét xử là bản án hoặc quyết định của Tòa án;
ý nguyện và lợi ích của họ còn là ở chỗ: quyền và lợi ích hợp pháp
của họ được công nhận và bảo đảm thi hành trên thực tế bằng sự
cưỡng chế của Nhà nước trong trường hợp cần thiết [18, tr.23].
Nếu bản án, quyết định của Toà án chỉ nằm trên giấy không được thực thi
trên thực tế, thì không những thể hiện pháp luật không nghiêm, còn ảnh hưởng
trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức và công dân, dẫn
đến việc khiếu nại, tố cáo gay gắt, bức xúc kéo dài của đương sự. Vì vậy, việc
thực hiện tốt pháp luật thi hành án dân sự được góp phần bảo đảm trật tự, an toàn
xã hội, ổn định nền kinh tế tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội.
Bốn là, tạo khuôn khổ pháp lý, trật tự, kỷ cương cho hoạt động thi hành
án dân sự
Nguyên tắc pháp chế là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đối
với pháp luật thi hành án nói chung, thi hành án dân sự nói riêng, Điều 106 Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: "Bản án,
quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ
chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh
chấp hành" [35, tr 132]; Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm
2014 quy định cụ thể:
15
- Xem thêm -