ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ - LUẬT
BÀI THẢO LUẬN
Môn: Lịch sử nhà nước và pháp luật
Nhóm
:7
Lớp
: 1402BLAW2411
Giáo viên hướng dẫn
: Phạm Minh Quốc
Hà Nội, ngày 4 tháng 6 năm 2014
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 7
ST
T
HỌ VÀ TÊN
CHỨC VỤ
61
Nguyễn Thị Thùy Linh
62
Võ Thị Khánh Linh
63
Vũ Thị Diệu Linh
64
Phan Thị Loan
65
Đỗ Hoàng Long
66
Bùi Thảo Ly
67
Lý Hoàng Hương Ly
67
Nguyễn Thị Khánh Ly
69
Vũ Thị Khánh Ly
Thư kí
70
Bùi Việt Hà Mi
Nhóm trưởng
ĐIỂM
HS tự
đánh giá
1
GV
đánh giá
CHỮ KÍ
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*-----*-----*
BIÊN BẢN HỌP NHÓM
Học phần: Lịch sử nhà nước và pháp luật
Nhóm: 7 (1402BLAW2411)
I.
Thành phần tham gia: 10/10 thành viên.
II.
Nội dung
Họp nhóm lần 1.
-
Thời gian: Từ 12h đến 12h30 ngày 01 tháng 06 năm 2014
Địa điểm: Mạng xã hội facebook
Nội dung thảo luận:
Phân công nhóm trưởng, thư kí.
Cả nhóm tập trung thống nhất làm rõ nội dung, phân công công việc cho từng
thành viên trong nhóm.
Bùi Việt Hà Mi (Nhóm Trưởng)
Câu 1
Nguyễn Thị Khánh Ly
Câu 1
Nguyễn Thị Diệu Linh
Câu 2
Nguyễn Thùy Linh
Câu 2
Bùi Thảo Ly
Câu 3
Võ Khánh Linh
Câu 3
Vũ Thị Khánh Ly (Thư Kí)
Câu 4
Phan Thị Loan
Câu 4
Lý Hoàng Hương Ly
Câu 5
Đỗ Hoàng Long
Câu 5
2
Mỗi bạn làm một bài, sau đó gửi cho nhóm trưởng, thời hạn nộp là ngày
02/06/2014.
Nhóm trưởng tổng kết bài của các thành viên thành một bài hoàn chỉnh.
Cả nhóm đã đồng ý với sự sắp xếp trên.
Thư kí
Nhóm trưởng
Vũ Thị Khánh Ly
Bùi Việt Hà Mi
3
Câu 1: Anh (chị) hãy trình bày những đặc trưng cơ bản của Bộ luật Hammurabi
ở Lưỡng Hà cổ đại luật và quan điểm của anh (chị) về những đặc trưng trên.
Nền kinh tế của Lưỡng Hà phát triển chủ yếu là kinh tế nông nghiệp. Tuy vậy,
kinh tế hàng hoá phát triển, dẫn đến nhu cầu cần phải có quy định để giải quyết các
tranh chấp trong quan hệ dân sự. Người Lưỡng Hà phát hiện chữ viết (văn tự) từ rất
sớm (giữa thiên niên kỷ thứ 4 trước CN). Tiền lệ pháp, tập quán pháp đã được sử dụng
rất rộng rãi trước khi Bộ luật này ra đời.
Về mặt nguồn gốc: Bộ luật Hammurabi được xây dựng trên cơ sở pháp điển
hoá nhiều văn bản trước đó và trên cơ sở kế thừa luật lệ của người Xu-me, người
Amôrít. Bộ luật Hammurabi được phát hiện năm 1901 của đoàn khảo cổ người Pháp,
khắc trên đá bazan cao 2,25 m và dựng tại quảng trường thành phố cho nhân dân đọc
mà thi hành. Bộ luật Hammurabi là Bộ tương đối hoàn chỉnh thời kỳ cổ đại, gồm 282
điều (hiện chỉ đọc được 247 điều) bao gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và
kết luận. Đây là một bộ luật tổng hợp, được xây dựng dưới dạng luật hình, bao gồm
các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhiều lĩnh vực và đều có chế tài, chủ yếu điều
chỉnh những quan hệ xã hội liên quan đến lợi ích của giai cấp thống trị. Phần mở đầu,
Vua Hammurabi tuyên bố rằng các vị thần đã trao đất nước cho nhà vua thống trị để
làm cho đất nước giàu có, nhân dân no đủ. Ở phần kết luận Hammurabi tuyên bố sẽ
trừng trị tất cả những ai xem thường và định huỷ bỏ đạo luật. Tác giả bộ luật đã ý thức
sâu sắc kết hợp thần quyền, vương quyền, và pháp quyền, khiến bộ luật trở nên được
“thiêng hoá” nhằm đạt được mục đích cai trị dân chúng.
Vượt ra khỏi hạn chế lịch sử, giá trị xã hội của Bộ luật: được hiện rõ ngay từ
mục đích của Bộ luật, thể hiện ở phần mở đầu của Bộ luật:“Vì hạnh phúc của loài
người, thần Anu và thần Enlin đã ra lệnh cho trẫm – Hammurabi, một vị quốc vương
quang vinh và ngoan đạo, vì chính nghĩa, diệt trừ những kẻ gian ác không tuân theo
pháp luật, làm cho kẻ mạnh không hà hiếp người yếu, làm cho trẫm giống như thần
Samát sai xuống dân đen, tỏa ánh sáng khắp muôn dân.” Về kĩ thuật lập pháp, tuy
không phân chia thành các ngành luật nhưng bộ luật cũng được chia thành nhóm các
điều khoản có nội dung khác nhau. Phạm vi điều chỉnh của bộ luật là những quan hệ
xã hội rộng, bao quát lên toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội như hôn nhân gia
đình, ruộng đất, thừa kế tài sản, hợp đồng dân sự, hình sự, tố tụng …
4
Về mức độ điều chỉnh: mức độ điều chỉnh pháp luật phụ thuộc vào tính chất
của các loại quan hệ xã hội cần được điều chỉnh bằng pháp luật, các yếu tố chủ quan
của nhà làm luật. Thông thường người ta phân biệt thành hai mức độ điều chỉnh pháp
luật: cụ thể – chi tiết và khái quát hoá cao. Bộ luật về cơ bản áp dụng mức độ điều
chỉnh cụ thể, chi tiết.
Về mặt hình thức pháp lý: đây là một bộ luật tổng hợp được xây dựng dưới
dạng luật hình, bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhiều lĩnh vực và đều có
chế tài. Phần nội dung, bộ luật tập trung điều chỉnh bốn lĩnh vực chủ yếu đó là dân sự,
hình sự, hôn nhân gia đình và tố tụng, tuy vậy không có sự tách rời giữa các lĩnh vực.
Các quy phạm của Bộ luật Hammurabi cũng giống như các bộ luật khác ở Phương
Đông thời kỳ cổ đại là mang tính hàm hỗn, các điều luật đều kèm theo chế tài.
a. Về dân sự
Những điểm tiến bộ, đặc sắc nhất của Bộ luật này chính là các quy định về dân sự.
Bộ luật đã đặc biệt chú ý điều chỉnh quan hệ hợp đồng, vì đây là quan hệ phổ biến ở xã
hội Lưỡng Hà cổ đại, có nhiều quy định không những tiến bộ về nội dung, mà còn chặt
chẽ về kĩ thuật lập pháp.
Về chế định hợp đồng, Luật quy định ba điều kiện bắt buộc đối với hợp đồng
mua bán: Thứ nhất, người bán phải là chủ thực sự, Thứ hai, tài sản phải có giá
trị sử dụng, Thứ ba, phải có người làm chứng. Bộ luật cũng quy định các điều
khoản lĩnh canh ruộng đất. Đối với ruộng, người lĩnh canh nhận mỗi mùa từ 1/3
– 1/2 số sản phẩm thu hoạch. Đối với vườn được nhận 2/3 số sản phẩm thu
hoạch. Điểm tiến bộ hơn nữa là luật đã quy định mức lãi suất đối với hợp đồng
vay nợ. Cụ thể luật quy định mức lãi suất đối với tiền là 1/5, vay thóc là 1/3.
Về chế định thừa kế tài sản, Luật Hammurabi phân làm hai loại thừa kế: thừa kế
theo pháp luật và thừa kế theo di chúc. Thừa kế theo pháp luật: Nếu người cho
thừa kế không để lại di chúc thì tài sản được chuyển đến cho những người có
quyền đối với tài sản đó theo luật định. Thời gian đầu tài sản tập trung ở dòng
họ và dần dần được chuyển về gia đình có quyền thừa kế và thành tài sản chung
của gia đình. Đó là cách thừa kế theo pháp luật. Thừa kế theo di chúc: Bộ luật
đã hạn chế quyền tự do của người viết di chúc như qui định người cha không
được tước quyền thừa kế của con trai nếu người con mới phạm lỗi lần đầu và
5
lỗi không nghiêm trọng. Con trai, con gái đều được hưởng quyền thừa kế ngang
nhau.
b. Về lĩnh vực hôn nhân và gia đình
Theo xu hướng củng cố địa vị của người chồng, người cha nên trách nhiệm và
nghĩa vụ thuộc về người vợ và con cái. Nếu không có con, người chồng có quyền ly dị,
bán vợ hoặc lấy vợ lẽ. Nếu bắt được vợ ngoại tình thì chồng có quyền trói vợ và nhân
tình của vợ ném xuống sông cho chết. Ngược lại nếu vợ bắt được chồng ngoại tình, chỉ
có quyền ly dị mà thôi. Điểm tiến bộ là đã có quy định kết hôn phải có giấy tờ, ở mức
độ nào đó có quy định bảo vệ người phụ nữ (người vợ có quyền ly hôn khi người
chồng đi khỏi nhà không có lý do, chồng có quan hệ ngoại tình hay vu cáo vợ ngoại
tình). Có một quy định rất nhân đạo nếu đặt trong hoàn cảnh lúc bấy giờ là: ”Người
chồng không được bỏ vợ khi biết người vợ mắc bệnh phong hủi.”
c. Về hình sự
Lĩnh vực Hình sự là lĩnh vực thể hiện rõ nhất tính giai cấp và sự bất bình đẳng. Một
nguyên tắc xuyên suốt và thể hiện rõ trong Bộ luật là nguyên tắc bảo vệ quyền lợi, địa
vị của người chồng, người cha trong gia đình. Thí dụ, nếu không có con, người chồng
có quyền ly dị hoặc bán vợ hoặc lấy vợ lẽ; nếu bắt được vợ ngoại tình thì chồng có
quyền trói vợ và nhân tình của vợ ném xuống sông cho chết. Ngược lại nếu vợ bắt
được chồng ngoại tình, chỉ có quyền ly dị mà thôi. Điều 129 quy định : "Nếu vợ của
dân tự do ngủ với người đàn ông khác mà bị bắt, thì phải trói cả hai người này lại và
ném xuống sông" Tàn dư của xã hội nguyên thuỷ rất rõ là nguyên tắc trả thù ngang
bằng, thậm chí còn cho phép trừng trị cả những người không liên quan đến tội phạm.
Nguyên tắc này chỉ căn cứ vào hậu quả xảy ra trên thực tế để áp dụng trách nhiệm
pháp lí, chứ không xét trên phương diện mức độ lỗi và chủ thể thực hiện hành vi vi
phạm. Thí dụ, Điều 38 quy định: "Nếu thợ xây nhà mà xây không đảm bảo, nhà đổ,
chủ nhà chết thì người thợ xây bị giết." hoặc Điều 39: "Nếu nhà đổ, con của người chủ
nhà chết thì con của người thợ xây cũng phải chết theo". Bằng phương pháp thống kê,
tác giả thấy trong Luật Hammurabi có nhắc tới 32 trường hợp xử tử hình. Thường là
các hình phạt rất khắc nghiệt như dìm, đóng đinh, chém v.v…Tính chất tương xứng
trong trách nhiệm pháp lý nhấn mạnh nhiều đến tính trừng trị đối nhân hoặc đối vật,
mà chưa tính đến tính giáo dục, hay tạo điều kiện để người vi phạm hoàn lương. Bên
6
cạnh đó, Bộ luật còn nêu ra trách nhiệm tập thể của các thành viên công xã đối với nhà
nước; quy định về trừng phạt kẻ giúp nô lệ chạy trốn, trừng phạt những kẻ xâm phạm
quyền sở hữu của nhà vua, chủ nô; trừng phạt người quản gia làm thất thoát tài sản của
chủ bị ném cho dã thú xé xác; lấy cắp gia cầm hoặc các đồ dùng khác của chủ sẽ bị
phạt từ 10 đến 30 lần giá trị thứ lấy cắp. Nếu không nộp được phạt, kẻ lấy cắp sẽ bị
giết. Điểm tiến bộ trong lĩnh vực hình sự là luật đã manh nha phân biệt phạm tội vô ý
và phạm tội cố ý. Ví dụ luật ghi trong khi ẩu đả làm chết người, nếu kẻ làm chết người
chứng minh được rằng không cố ý giết người thì sẽ không bị tử hình, chỉ bị phạt tiền.
d. Về tố tụng
Tố tụng là thủ tục giải quyết các vụ án. Bộ luật đã có nhiều quy định về thủ tục bắt
giữ, giam cầm, qui định những nguyên tắc khi xét xử như xét xử phải công khai, phải
coi trọng chứng cứ, phán quyết phải được thi hành nghiêm minh… Có hai quy định rất
đặc thù về tố tụng của Bộ luật này: Thứ nhất, quy định về trách nhiệm của thẩm phán.
”Nếu thẩm phán xử một vụ kiện mà ra phán quyết bằng văn bản, nếu sau đó phát hiện
lỗi trong văn bản là do lỗi của thẩm phán, thẩm phán sẽ phải trả 12 lần giá trị tiền phạt
mà ông ta đã yêu cầu bồi thường trong vụ kiện, đồng thời ông ta sẽ bị buộc phải rời
khỏi ghế thẩm phán vĩnh viễn và không bao giờ có thể trở thành thẩm phán lần nữa.
Quy định về trách nhiệm của thẩm phán trong việc xét xử như quy định trên trong một
xã hội thể hiện tính giai cấp sâu sắc quả thật là một sự tiến bộ. Qua đó cho thấy, thời
kỳ này rất coi trọng công tác xét xử, rất coi trọng trách nhiệm xét xử công bằng của
thẩm phán. Sử sách đã ca ngợi rằng ở Lưỡng Hà cổ đại, tinh thần thượng tôn luật pháp
và thói quen cầu viện công lý đã ăn sâu vào tác phong sinh hoạt của người dân nơi
đây. Thứ hai, về hình thức xét xử Nếu một người kiện một người khác, bị đơn sẽ phải
đi đến một dòng sông và nhảy xuống, nếu anh ta chìm, bị dòng nước cuốn đi, nguyên
đơn sẽ sở hữu nhà của bị đơn. Nhưng ngược lại, nếu dòng sông chứng minh rằng bị
đơn là không có tội, tức là anh ta còn sống sót, thì nguyên đơn sẽ bị giết chết, và bị
đơn sẽ sở hữu nhà của nguyên đơn.
Có một thực tế là người cổ đại bất lực trước tự nhiên, bất lực trước việc giải thích
các hiện tượng tự nhiên và xã hội, hơn nữa không phải lúc nào cũng dễ dàng có được
chứng cứ xác thực khi khoa học chưa phát triển, nên ta thấy cách thức xử lý có vẻ như
bất bình thường kia lại trở nên rất dễ hiểu, dễ hiểu đến mức bình thường và tự nhiên
7
trong quan niệm, trong cách hành xử của người dân Lưỡng Hà cổ đại. Họ tin rằng
đấng tối cao đã sáng tạo muôn loài, sáng tạo nên nhà nước và luật pháp nên họ chấp
nhận điều đó, và tin rằng thần thánh mới là người công minh nhất, thần thánh mới là
người cho họ biết thế nào nào là đúng, thế nào là sai, thế nào là công bằng hay không
công bằng. Phần kết luận, Hammurabi khẳng định lại mục đích của Bộ luật và tuyên
bố sẽ trừng phạt bất cứ ai vi phạm Bộ luật này: “Để cho kẻ mạnh không hà hiếp kẻ
yếu; để cho những người cô quả có thể nương tựa ở thành Babilon…; để cho sự tuyên
án trong nước tiện việc quyết định; để cho những kẻ thiệt thòi được trình bày lẽ phải…
Nếu kẻ nào thi hành triệt để bộ luật này thì sẽ được các thần phù hộ, trái lại nếu người
nào không nghiêm chỉnh thi hành hoặc sửa đổi bộ luật thì sẽ bị thần linh trừng phạt”.
Bộ luật Hammurabi là Bộ luật thành văn cổ nhất trên thế giới, là một trong những
thành tựu có giá trị bậc nhất của lịch sử văn minh cổ đại. Giá trị của Bộ luật này cho
đến nay vẫn tiếp tục được nhiều nhà khoa học tập trung nghiên cứu, khai thác và kế
thừa. Bộ luật đã xây dựng rất công phu, điều chỉnh và phản ánh một cách sinh động
các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội của vương quốc Babilon. Bộ luật
không chỉ có giá trị về nghiên cứu pháp lý mà còn là nguồn cứ liệu lịch sử phong phú,
qúy giá để nghiên cứu nền văn hoá Babilon – Lưỡng Hà cổ đại. Vượt ra khỏi hạn chế
về tính giai cấp, có thể thấy chứa đựng trong nhiều quy phạm của Bộ luật dù ở dạng
thức sơ khai nhất, cổ xưa nhất vẫn hằng chứa đậm nét những giá trị tiến bộ, nhân văn,
đặc biệt là về kĩ thuật lập pháp trong các qui định từ hôn nhân gia đình đến thừa kế, và
qui định về hợp đồng. Gấp Bộ luật lại, nhìn vào cuộc sống và suy ngẫm ta thấy không
khỏi ngạc nhiên và trân trọng những giá trị lịch sử pháp lý của Bộ luật, những qui định
ra đời cách đây gần 4000 năm vẫn chứa đựng nhiều giá trị đương đại đáng kế thừa, và
phát triển.
Câu 2: Anh (chị) hãy phân tích cách thức tổ chức bộ máy nhà nước ở thành
8
bang Aten và quan điểm của anh (chị) về tính dân chủ của nhà nước đó.
a. Tổ chức bộ máy nhà nước ở thành bang Aten
Hội nghị công dân: Tính chất cộng hoà của nhà nước này thể hiện rõ nhất ở tổ
chức và hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Hội nghị công dân. Về
tổ chức, thành phần của hội nghị công dân theo qui định của luật năm 451 TCN, những
công dân được tham gia Hội nghị này phải là những công dân tự do Aten, là nam giới,
đủ 18 tuổi trở lên, có cả cha mẹ là người Aten. Về thẩm quyền, Hội nghị công dân có
quyền quyết định những vấn đề lớn của đất nước như vấn đề chiến tranh, hoà bình;
vấn đề xây dựng hay thông qua các đạo luật; giám sát các cơ quan nhà nước khác.
Ngoài ra Hội nghị công dân còn có quyền bầu ra các quan chức nhà nước, xét duyệt
công việc quan trọng của Toà án, có quyền cung cấp lương thực cho thành phố.
Hội đồng 500 người: Được thành lập bởi Hội nghị công dân bằng hình thức bỏ
phiếu. Cơ quan này giữ chức năng hành chính, tư vấn. Sau cải cách Clixten thì đây còn
là cơ quan đại diện cho nhà nước về đối ngoại, có quyền quản lí về tài chính.
Hội đồng 10 tướng lĩnh: Cơ quan này cũng được bầu trong hội nghị công dân. Về
chức năng, đây là cơ quan lãnh đạo quân đội, thực hiện chính sách đối ngoại nhưng
chịu sự kiểm sát của Hội nghị công dân, nhưng không được hưởng lương.
Toà bồi thẩm: Là cơ quan xét xử và giám sát tư pháp cao nhất của nhà nước. Thành
phần tham dự toà bồi thẩm rất đông. Dưới thời Pêriclét, có tới 6000 thẩm phán, họ
được bầu hàng năm ở Hội nghi công dân bằng hình thức bỏ phiếu. Nhà nước Aten
không có Viện công tố, mọi người dân có thể phát đơn kiện - tức là tự khởi tố hoặc là
tự bào chữa cho mình. Trong phiên toà sau khi đã nghe hai bên đối chất toà họp kín để
quyết định bản án.
b. Nhận xét chung về tính chất dân chủ của nhà nước cộng hoà dân chủ chủ
nô Aten
Thành quả rõ nét nhất của nhà nước Aten chính là xây dựng được một nhà nước
dân chủ chủ nô đầu tiên trong lịch sử nhân loại, là nhà nước đầu tiên khai sinh ra hình
thức DÂN CHỦ TRỰC TIẾP, khai sinh ra hình thức chính thể Cộng hoà. Một trong
những nguyên nhân quan trọng khiến nhà nước Aten có thể phát triển và đạt đến trình
độ văn minh cao ở thời cổ đại là do nhà nước này đã liên tục có các cuộc cải cách rất
toàn diện từ kinh tế, chính trị, đến văn hoá - xã hội.
9
Ngay từ cuộc cải cách của Xô lông, xu hướng chung của các cuộc cải cách là
tước bỏ bớt đặc quyền kinh tế và quyền lợi chính trị của quí tộc. Trong ba cuộc
cải cách thì cải cách của Xô lông đã đưa ra bước đột phá về kinh tế, đây chính
là nền móng cơ bản nhất để kinh tế công thương nghiệp phát triển, là cơ sở hạ
tầng vững chắc, tạo điều kiện cho các cuộc cải cách về các lĩnh vực chính trị xã hội của Clít-xten và Pêriclét sau này.
Việc phân chia đẳng cấp đã tạo điều kiện cho tầng lớp nông dân và thợ thủ công
ngày càng đông đảo, không những thế nó còn tạo điều kiện để củng cố, nâng
cao địa vị về kinh tế của quý tộc chủ nô mới, tạo điều kiện kích thích công
thương nghiệp phát triển.
Thường dân cũng được tham gia vào sinh hoạt chính trị của nhà nước khi thoả
mãn ba điều kiện: là công dân tự do cha và mẹ đều là người Aten, nam giới và
đủ 18 tuổi. Đây là một quy định đặc biệt tiến bộ đối với một nhà nước thời kỳ
cổ đại.
Hội nghị công dân có thực quyền. Đặc biệt hội nghị công dân có nhiều quyền
mà không một thiết chế nào trong bộ máy nhà nước có được đó là:
+ Quyết định vấn đề chiến tranh, hoà bình.
+ Xây dựng hay thông qua các đạo luật.
+ Có quyền giám sát các cơ quan nhà nước khác
+ Bầu các quan chức nhà nước, xét duyệt công việc quan trọng của Toà án, có
quyền cung cấp lương thực cho thành phố, có thực quyền rất lớn.
Luật bỏ phiếu bằng vỏ sò để chống lại âm mưu thiết lập nền độc tài là một quy
định khá đặc thù, mặc dù còn có hạn chế song phần nào đã khẳng định khát
vọng dân chủ, không chỉ ở người dân mà ở cả những nhà cải cách, những người
thuộc tầng lớp quí tộc chủ nô mới.
Sản phẩm của thể chế dân chủ ở Hy Lạp cổ đại nói chung và nhà nước Cộng
hòa dân chủ chủ nô Aten nói riêng đã đưa Hy Lạp phát triển rực rỡ trở thành
đỉnh cao của nền văn minh cổ đại trên nhiều phương diện như văn học (nhiều
thể loại thần thoại, thơ ca ra đời); sử học (với những tên tuổi như Hêrôđốt,
Tuxiđít); khoa học tự nhiên (với những tên tuổi như Talét, Pitago, Acsimét,
ơclít…), Y học (Hyppôcrát). Triết học (Platông, Xôcrat, Arixtốt…).
Tuy nhiên tính chất dân chủ của nhà nước Aten cũng có nhiều hạn chế, trước hết ta
10
thấy số lượng những người không được tham gia vào đời sống chính trị là nô lệ và
kiều dân chiếm số lượng áp đảo so với số lượng dân tự do (365.000 nô lệ và 45.000
kiều dân trên tổng số 90.000 dân tự do). Như vậy những người là lực lượng lao động
chủ yếu trong xã hội không có quyền công dân. Hơn nữa trong số 90.000 dân tự do, có
không quá 30% thoả mãn đầy đủ cả 3 yêu cầu: nam giới, 18 tuổi, cha mẹ là người
Aten. Vì rất nhiều người già, phụ nữ và trẻ nhỏ hoặc nam giới 18 tuổi nhưng cha mẹ là
kiều dân thì cũng không được tham gia vào đời sống chính trị. Con số cao nhất của
Hội nghị công dân ước tính là khoảng 6000 người, lại tập trung ở thủ đô của Aten, do
vậy không phải tất cả những người đủ điều kiện ở những nơi khác có thể tham gia.
Câu 3: Anh (chị) hãy phân tích và đánh giá sự tiến bộ của pháp luật tư sản so với
pháp luật phong kiến
Trong thế giới luôn luôn vận động và phát triển, mọi sự vật hiện tượng không
ngừng được sinh ra, phát triển, rồi bị thay thế bằng các sự vật, hiện tượng khác. Và có
thể nói rằng, mọi quá trình vận động và phát triển trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống đều diễn ra thông qua quy luật phủ định của phủ định, cái mới ra đời kế thừa và
tiến bộ hơn cái cũ. Lịch sử nhân loại đã chứng minh đầy đủ cho quy luật đó. Thực tế
khi mà kiểu nhà nước phong kiến không còn đủ sức chống lại các cuộc cách mạng xã
hội nữa, buộc nó phải mất đi, nhường quyền thống trị cho kiểu nhà nước tư sản. Cũng
giống như nhà nước tư sản, pháp luật tư sản là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng,
là công cụ trực tiếp, quan trọng nhất để thực hiện chuyên chính tư sản. So với kiểu
pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản tiến bộ hơn rất nhiều và được coi là một trong
những thành tựu đánh dấu sự phát triển của lịch sử nhân loại.
1. Khái niệm cơ bản
Pháp luật: là khuôn mẫu, là hệ thống những nguyên tắc xử sự chung do nhà nước
ban hành hoặc thừa nhân, đảm bảo thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế, thể hiện ý chí
và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
2. Cơ sở lí luận
Pháp luật tư sản, pháp luật phong kiến là sự thể hiện ý chí của thiểu số giai cấp
thống trị, là những kiểu pháp luật bóc lột. Chúng là những kiểu pháp luật được xây
dựng trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liêu sản xuất duy trì và bảo vệ sự thống trị về
chính trị, kinh tế, của giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản. Trong tuyên ngôn Đảng
11
cộng sản, Mác và Ăngghen đã chỉ rõ “pháp luật các ông chỉ là ý chí của giai cấp các
ông được đề lên thành luật, cái ý chí mà nội dung là do các điều kiện sinh hoạt vật chất
các ông quyết định”. Tuy nhiên, so với pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản có nhiều
điểm tiến bộ cả về nội dung lẫn hình thức.
a. Xét về mặt nội dung
Pháp luật tư sản có những điểm tiến bộ hơn pháp luật phong kiến.
Thứ nhất: Pháp luật tư sản công khai tuyên bố nguyên tắc phân chia quyền lực trong
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Cùng với sự hình thành chế độ tư bản,
nguyên tắc "phân chia quyền lực" đã trở thành một trong những nguyên tắc chính của
chủ nghĩa lập hiến tư sản. Học thuyết pháp luật - chính trị (thuyết "phân quyền") với
quyền lực nhà nước được hiểu không phải là một thể thống nhất, mà là sự phân chia
thành ba quyền: quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền lập pháp do nghị viện
thực hiện; quyền hành pháp do chính phủ thực hiện; quyền tư pháp do tòa án tối cao
thực hiện. Các cơ quan này hoạt động độc lập với nhau, kiểm tra và giám sát lẫn nhau
theo cơ chế “kiềm chế và đối trọng” để không có cá nhân nào nắm hết mọi quyền lực,
tạo sự cân bằng giữa các quyền, đảm bảo cho những mối liên hệ cần thiết giữa các
quyền lực bị chia tách để những cơ quan độc lập tách biệt có thể cộng tác với nhau
phục vụ cho lợi ích chung của đất nước. Chẳng hạn: Hiến pháp của Hợp chủng quốc
Hoa Kì đã quy định tại khoản 1 điều 1 là: “Mọi quyền hành lập pháp sẽ được trao cho
một Quốc hội của Hợp chủng quốc gồm một thượng nghị viện và một hạ nghị viện”.
Trong khoản 1 điều 2 quy định: “Quyền hành pháp được trao cho một tổng thống
nhiệm kì bốn năm”. Còn tại khoản 1 điều 3 viết: “quyền tư pháp được trao cho một tối
cao pháp viện và cho những viện hạ cấp nào mà Quốc hội sẽ có thể đôi khi, quyết định
hoặc triệu tập”. Trong khi đó ở nhà nước phong kiến tất cả các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp đều nằm trong tay nhà vua - người có quyền lực tối cao. Vì tất cả
quyền lực đều do nhà vua nắm giữ nên dễ dẫn tới tình trạng độc đoán, chuyên quyền,
lạm quyền cho nên không có dân chủ trong nhà nước do đó cũng không thể có dân chủ
ngoài xã hội. Vua là “thiên tử” và không phải chịu bất cứ trách nhiệm gì trước pháp
luật, thậm chí có quyền đứng trên pháp luật. Vua có thể bắt mọi thần dân của mình
phải tuân theo ý chí của mình, gây nên sự thiếu dân chủ.
Thứ hai, lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật thế giới, pháp luật tư sản công khai ghi
12
nhận và đảm bảo thực hiện quyền công dân của các cá nhân trong xã hội tư bản chủ
nghĩa. Ở pháp luật phong kiến quyền con người không được ghi nhận trong các văn
bản pháp luật, cũng không có các khái niệm, quy định nào nói về quyền cơ bản của
con người. Trong xã hội phong kiến người dân được gọi là thần dân, quan hệ giữa nhà
nước phong kiến với thần dân có những đặc điểm nhất định, là người tự do, được giải
phóng về thân thể khỏi địa chủ nhưng vẫn bị lệ thuộc về nhiều mặt: chính trị, tư tưởng
và đặc biệt là kinh tế. Đó là mối quan hệ giữa bộ máy chuyên chính của giai cấp địa
chủ với nhân dân lao động đã bị phân chia thành đẳng cấp, thứ bậc mà mỗi đẳng cấp
có vị thế và những đặc quyền khác nhau. Vì thế nên không có sự bình đẳng về quyền
và nghĩa vụ trong quan hệ giữa thần dân với nhà nước phong kiến, và đó cũng là lí do
để giải thích cho câu hỏi: “Tại sao pháp luật phong kiến không ghi nhận những quyền
cơ bản của con người và đảm bảo để họ có thể thực hiện những quyền đó?”. Đối với
pháp luật tư sản, khái niệm “công dân” được nhà nước tư sản đưa vào trong đạo luật
cơ bản của mình, có thể khẳng định rằng đây là điểm tiến bộ hơn và thể hiện tính nhân
đạo hơn so với pháp luật phong kiến. Người dân trong xã hội được chuyển từ thần dân
thành công dân, bình đẳng với nhau trong mọi lĩnh vực đồng thời cũng được pháp luật
quy định trong các văn bản pháp luật, các bản hiến pháp đầu tiên như nước Mĩ,
Pháp… Tại Luật công pháp Đức, chế định về các quyền cơ bản của công dân được bảo
vệ rất chặt chẽ. Trong đó danh mục các quyền cơ bản của công dân được lập theo một
nguyên tắc cơ bản, đó là yêu cầu phải bảo vệ phẩm tước của con người, mọi quyền cơ
bản đều được quy định trên cơ sở nguyên tắc này. Do đó trong pháp luật tư sản, xây
dựng xã hội công dân mà ở đó con người bình đẳng, ngang quyền về mặt pháp lí, mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật ghi nhận và đảm bảo thực
hiện. Nhưng cũng nhấn mạnh rằng sự tự do, bình đẳng ở đây là về mặt pháp lí tức là
còn mang nặng tính hình thức, không dân chủ, bình đẳng thật sự và triệt để. Tuy nhiên
nó vẫn được ghi nhận và bởi thế nó thể hiện sự tiến bộ hơn so với pháp luật phong
kiến. Khi quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong pháp luật tư sản thì
mỗi cá nhân có mối quan hệ pháp lí ràng buộc với một nhà nước tư sản nhất định (tức
là mang quốc tịch của nước đó) thì được nhà nước thừa nhận là công dân của nước
mình được hưởng quyền công dân đồng thời thực hiện nghĩa vụ công dân với đất
nước. Nhà nước yêu cầu công dân nước mình thực hiện những quyền đúng đắn và thực
13
hiện đầy đủ nghĩa vụ đồng thời nhà nước đảm bảo các quyền lợi cơ bản của công dân.
Trên cơ sở đó nhà nước tư sản lập ra các chế định “quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân” trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, dân sự,… dù nhiều trường
hợp vẫn mang tính hình thức nhưng nó cũng đã thể hiện được sự tiến bộ so với pháp
luật phong kiến.
Thứ ba, pháp luật tư sản công khai tuyên bố nguyên tắc tự do hợp đồng trong các
lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình. Chế định hợp đồng đã trở
thành một trong những chế định cơ bản của pháp luật tư sản. Pháp luật tư sản không
những giải phóng sức lao động con người mà còn giải phóng chính thân phận con
người thoát khỏi sự lệ thuộc tồn tại. Từ đây mọi cá nhân đều có quyền tự do ý chí, tự
do thỏa thuận theo nguyên tắc bình đẳng giữa hai bên trong các quan hệ giao dịch.Còn
trong xã hội phong kiến, phần nào đã coi nông dân là con người nhưng nó công khai
thừa nhận và bảo vệ sự bất bình đẳng giữa các giai cấp trong xã hội, trong mọi lĩnh
vực. Ví dụ: ở xã hội phong kiến người có địa vị càng cao thì nắm trong tay địa vị và
ruộng đất. Nông dân không có ruộng đất vì vậy họ bị trói buộc vào ruộng đất mà địa
chủ giao cho, và bị bắt giao cho địa chủ gần hết sản phẩm làm ra, người dân phải chịu
sự bóc lột đó nếu không họ sẽ chết đói. Còn đối với nhà nước tư sản thì pháp luật tư
sản đã thừa nhận nguyên tắc tự do hợp đồng: đó là sự thỏa thuận, theo đó một hay
nhiều bên có nghĩa vụ với một hay nhiều bên khác chuyển giao một vật, thực hiện hay
không thực hiện một việc nào đó, nguyên tắc đó dựa trên sự bình đẳng giữa các chủ
thể và đảm bảo lợi ích của từng bên, như bộ luật hiện hành của Pháp: hợp đồng song
vụ điều 1102, hợp đồng ngang giá điều 1104, hợp đồng có đền bù điều 1106.
Thứ tư của pháp luật tư sản so với pháp luật phong kiến là đã ghi nhận, bảo đảm thực
hiện các nguyên tắc pháp chế trong hoạt động của nhà nước tư sản, của các tổ chức
chính trị xã hội và trong hoạt động của công dân. Có nhiều định nghĩa khác nhau về
khái niệm pháp chế nhưng chúng ta có thể hiểu pháp chế là một chế độ và trật tự pháp
luật trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải
tông trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, tự giác, triệt để và chính
xác. Pháp chế tư sản được pháp luật tư sản ghi nhận là một nguyên tắc pháp lý, với
những nội dung cơ bản:
- Triệt để tôn trọng hiệu lực pháp lý cao nhất của Hiến pháp tư sản.
14
- Bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở hiến pháp và pháp luật;
quyền lực nhà nước được phân chia thành ba quyền lực độc lập với nhau nhưng có thể
kiềm chế và đối trọng lẫn nhau.
- Các đảng phái chính trị và các tổ chức xã hội khác đều thành lập và hoạt động
theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
- Mọi cá nhân trong xã hội đều tôn trọng và thực hiện hiến pháp một cách tự
giác, đầy đủ, nghiêm chỉnh, chính xác.
Với những nội dung trên, chúng ta có thể khẳng định rằng: Pháp luật phong kiến
không ghi nhận và đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế trong tổ chức, hoạt động
của nhà nước phong kiến và đời sống xã hội. Thật vậy, trong nhà nước phong kiến cực
quyền pháp luật chỉ dành cho nhà vua, người có quyền hành tuyệt đối và trong xã hội
chỉ tồn tại một nền chính trị hà khắc tùy tiện bất chấp cả pháp luật. Với bản chất như
vậy pháp luật không thể ghi nhận nguyên tắc pháp chế - một nguyên tắc đòi hỏi sự
bình đẳng, tự do, dân chủ. Pháp chế tư sản được ghi nhận và bảo đảm thực hiện đã góp
phần đấu tranh chống lại chế độ đặc quyền, đặc lợi. Hơn nữa, việc thực hiện nguyên
tắc này còn thể hiện sự bình đẳng, dân chủ của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Với những ý nghĩa này, có thể khẳng định rằng việc ghi nhận và đảm bảo nguyên tắc
pháp lí là điểm tiến bộ của pháp luật tư sản so với pháp luật phong kiến.
Thứ năm, đặc điểm nổi bật nhất của pháp luật tư sản cho thấy sự tiến bộ vượt trội so
với pháp luât phong kiến là sự ra đời của hiến pháp. Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có
hiệu lực pháp lí cao nhất, là cơ sở để xây dựng hệ thống pháp luật. Dựa vào hiến pháp,
hệ thống pháp luật tư sản trở nên thống nhất, hoàn thiện hơn thể hiện đầy đủ ý chí của
giai cấp tư sản. Ngược lại, pháp luật phong kiến không có hiến pháp làm nền tảng nên
tản mạn, thiếu thống nhất, chủ yếu dựa vào chiếu chỉ do vua ban, mang tính chung
chung, không có sự tách biệt giữa các ngành luật. Do đó, hệ thống pháp luật thiếu
phong phú, đa dạng, chuyên quyền, độc đoán. Rõ ràng việc ra đời của Hiến pháp đánh
dấu bước ngoặt lớn trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật.
b. Xét về mặt hình thức biểu hiện
Pháp luật tư sản biểu hiện chủ yếu dưới luật thành văn, được ghi trong các văn bản
pháp luật một cách rõ ràng. Các loại văn bản pháp luật tư sản cũng hết sức phong phú,
điển hình nhất cần phải kể đến là hiến pháp, luật, các sắc lệnh và nghị định trong khi
15
đó hình thức phổ biến của pháp luật phong kiến là tập quán pháp và được ban hành
dưới dạng lệnh, chiếu chỉ, khẩu lệnh… của nhà vua. Nếu như luật pháp phong kiến là
sự kết hợp của Lễ và Hình, sự kết hợp giữa Đức trị với Pháp trị và hoà đồng giữa quy
phạm pháp luật với quy phạm đạo đức thì pháp luật tư sản chủ yếu là các đạo luật và
luật. Giai cấp tư sản không cho rằng việc dùng đạo đức để răn đe, giáo huấn là có hiệu
quả hơn pháp trị.
3. Nguyên nhân
Thứ nhất, pháp luật tư sản là kiểu pháp luật ra đời sau, nó loại bỏ những hạn chế và
kế thừa phát huy những đặc điểm tiến bộ của những kiểu pháp luật trước để có thể
thích ứng và tồn tại trong xã hội mới.
Thứ hai, ở nhà nước phong kiến quyền lực tập trung trong tay một người, pháp luật
thể hiện ý chí của nhà vua nên mang tính chuyên quyền, độc đoán. Trong khi đó, ở nhà
nước tư sản quyền lực được phân chia theo nguyên tắc tam quyền phân lập. Vì thế
pháp luật tư sản thể hiện tính dân chủ hơn so với pháp luật phong kiến.
Có thể nói sự ra đời của pháp luật tư sản đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch
sử lập pháp. Kể từ đây loài người được biết đến một bản hiến pháp, trong đó quy định
quyền tự do của công dân, mà trước đây trong xã hội phong kiến chưa bao giờ giám
nghĩ đến.
Pháp luật tư sản vẫn không tránh khỏi những hạn chế, những không thể phủ nhận
những gì mà pháp luật tư sản mang đến cho loài người chúng ta. Vì vậy, trong xã hội
hiện đại và phát triển như ngày nay, chúng ta sẽ tiếp tục phát huy những mặt tích cực,
loại trừ những mặt yếu, góp phần làm nên một thế giới hòa bình, tốt đẹp hơn.
Câu 4: Anh (chị) hãy chứng minh pháp luật phong kiến Trung Quốc là pháp luật
Nho giáo
1.Đôi nét về Trung Quốc
Trung Quốc là một trong bốn nền văn minh lớn của phương đông có ảnh hưởng rất lớn
tới nước ta. Đây là một chính thể quân chủ chuyên chế điển hình ở Phương Đông.
Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của mình, nhà nước phong kiến Trung Quốc
luôn sử dụng tư tưởng Nho giáo làm tư tưởng thống trị.
2. Khái quát về Nho giáo
16
Là học thuyết do Khổng Tử khởi xướng vào thời Xuân Thu và được bổ sung và
phát triển ở các giai đoạn sau đó. Tư tưởng cơ bản của Nho giáo là tạo ra một
thể chế xã hội ổn định trong trật tự gia đình, nhà nước.; coi việc bảo đảm lợi ích
của giai cấp thống trị là mục tiêu cơ bản.
Phương pháp giải quyết các mối quan hệ trong xã hội của nho giáo là tuân theo
một cách vô điều kiện. Người trẻ tuổi phải phục tùng người lớn tuổi, người dưới
phải phục tùng người trên và người không phải người Trung Quốc thì phải phục
tùng người Trung Quốc.
Tam cương là nền tảng giáo lý của Nho giáo. Về mặt chính trị thực chất là mối
quan hệ vua-tôi, cha-con, chồng-vợ nhằm mục đich củng có trật tự đẳng cấp
phong kiến mà cụ thể là trật tự quan liêu và trật tự gia trưởng.
Mục tiêu của giáo lý Nho giáo là xây dựng một nhà nước quân chủ chuyên chế
lớn mạnh và bành trướng lãnh thổ ra bên ngoài.
3. Pháp luật Trung Quốc là pháp luật Nho giáo.
Được thể hiện trên hai nội dung đó là pháp luật phong kiến Trung Quốc có sự két hợp
giữa lễ và hành; pháp luật phong kiến Trung Quốc có sự phối hợp giữa đức trị và pháp
trị. Nội dung cụ thể như sau:
- Pháp luật phong kiến Trung Quốc là sự kết hợp giữa lễ và hình
Hình là hình phạt, biểu hiên của các chế tài pháp luật.
Lễ là nguyên tắc xử sự của con người đã được hệ thống theo một chuẩn mực
nhất định. Lễ là nội dung quan trọng của Nho giáo. Lễ giáo phong kiến xác lập
và củng cố các mối quan hệ đã nêu trên của tam cương.
Vì hệ tư tưởng chính trị pháp lý Trung Quốc bị ảnh hưởng rất lớn từ học thuyết
Nho giáo nên tiền đề tư tưởng của đặc trưng này chính là một số chủ trương chính trị
của Nho gia.
Tam cương nêu ra ba mối quan hệ: vua tôi, cha con, vợ chồng. Trong đó; tôi, con
và vợ phải phục tùng vua, cha, và chồng. Như vậy, "Lễ" xác lập nguyên tắc xử sự của
con người trong ba mối quan hệ xã hội cơ bản đó. Pháp luật dùng Lễ tức là pháp luật
bảo vệ những nguyên tắc xử sự được quy định trong Lễ. Mà đa phần những quy định
đó lại bảo vệ cho quyền lợi của giai cấp thống trị và chế độ phụ quyền. Vì thế, nhà
nước Trung Quốc lấy Lễ làm cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
Việc sử dụng Hình vốn không phải chủ trương của Nho gia. Sách Luận Ngữ,
17
chương II, tiết 3 viết: "Tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ." Tức là: nếu dùng hình phạt
thì dân vì sợ bị phạt chứ không phải họ biết hổ thẹn mà tránh. Tuy nhiên, khi Lễ đã
phát triển, khuôn phép ngày một khắt khe; nếu không có Hình để răn đe thì chắc chắn
sẽ chẳng ai tuân theo Lễ.
Từ thời Tây Chu, lễ dàn dàn trở thành một thể chế chính trị hỗ trợ cho hình luật.
Cùng 1 số các tư tưởng chính trị khác. Dưới thời Tần, Tần Thủy Hoàng chủ trương chỉ
sử dụng pháp luật để cai trị mà không dùng đến lễ giáo phong kiến. Do đó lễ trong thời
kì này rất mờ nhạt.
Sau khi nhà Tần suy vong, nhà Hán lên thay, Nho giáo được phục hồi. Kể từ đó trở
đi, Nho giáo là hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội phong kiến. Lễ kết hợp với hình nhằm
mục đích xây dựng và thực thi pháp luật.Trong mối quan hệ giữa lễ và hình, lễ là yếu
tố quyết định, chỉ đạo trong khuôn phép của việc lập pháp,hành pháp;… lễ mượn sự
cưỡng chế của hình để duy trì sự tồn tại của mình.
Nói tóm lại, việc kết hợp giữa Lễ và Hình trong luật pháp phong kiến Trung Quốc
có nguồn gốc từ đường lối chính trị Nho giáo. Tuy thủy tổ học thuyết Nho giáo không
chủ trương dùng hình, nhưng trong quá trình xây dựng và bảo vệ pháp luật, Hình tất
yếu phải được áp dụng để bảo vệ sự tồn tại của Lễ.
Mối quan hệ giữa Lễ Và Hình.
Trong việc thực hiện và áp dụng pháp luật phong kiến Trung Quốc, giữa Lễ và
Hình có mối quan hệ biện chứng như sau:
- Lễ là yếu tố quyết định, chỉ đạo, mang tính khuôn phép của việc lập pháp, hành
pháp cũng như giải thích pháp luật.
- Hình giữ vai trò cưỡng chế, thi hành. Hình pháp phong kiến Trung Quốc rất nặng
nề và hà khắc.
- Lễ đã "mượn" Hình làm công cụ để duy trì sự tồn tại của mình bằng cách hợp
pháp hoá và hợp lý hoá tính cưỡng chế của Hình.
Nhận xét, đánh giá.
Việc kết hợp giữa Lễ và Hình đã tạo nên một khung pháp lý vững chắc cho hệ
thống pháp luật Trung Quốc. Hình bảo vệ Lễ và Lễ lại bảo vệ chế độ quân chủ chuyên
chế phong kiến phụ quyền. Trong đó Lễ giữ vai trò quyết định vì Lễ bảo vệ quyền lợi
giai cấp thống trị và hợp lý hoá Hình, biến Hình thành công cụ bảo vệ sự tồn tại của
18
mình. Vì vậy tất cả luật pháp từ thời Hán đến Thanh đều tuân theo một quy tắc: "Nhất
chuẩn hồ lễ”
- Pháp luật phong kiến Trung Quốc có sự phối hợp giữa đức trị và pháp trị
Đức trị là đường lối cai tri của nho giáo, là tư tưởng chính trị cơ sở của Nho
giáo
Pháp trị là tư tưởng chính trị quan trọng của phái pháp gia
Học thuyết này được tóm gọn ở hai điều:
- Mọi người dân bình đẳng trước pháp luật
- Lấy thưởng phạt làm nguyên lý trị nước, không cần giáo dục.
Có thể thấy đường lối: 'không cần giáo dục' của pháp gia có nguồn gốc từ học
thuyết "vô vi" của Lão Tử và đó là đặc trưng cơ bản để phân biệt học thuyết
Pháp gia với Nho gia
Ngay từ buổi đầu của nhà nước phong kiến, các triều đình đã sử dụng pháp luật để
cai trị đất nước. Kể từ thời nhà Hán, đức trị được bổ sung bằng lễ trị và là biện pháp
chặt chẽ nhất để thực hiện đức trị. Đây là giá trị chủ đạo của pháp luật phong kiến
Trung Quốc. Trong các triều đại sau đó, đức trị được hỗ trợ thêm bởi Nhân trị được
mô phỏng theo giáo ý Phật giáo.
Pháp trị là thể chế chính trị chủ yếu ở thời kỳ xã hội chiếm hữu nô lệ và buổi đầu
nhà nước phong kiến còn đức trị lại là thể chế chính trị quan trong trong suốt lịch sử
nhà nước phong kiến Trung Quốc.
Hai thể chế này đều là phương pháp cai trị của giai cấp thống trị các triều đại
phong kiến Trung Quốc. Đức trị và pháp trị phối hợp với nhau một cách tuần tự, nhuần
nhuyễn giúp việc cai trị nhà nước trở nên quy củ và triệt để hơn.
Mối quan hệ giữa Đức trị và Pháp trị.
- Ta thấy, Đức trị đóng vai trò là hình thức cai trị chủ chốt, theo đúng chủ trương
học thuyết Nho gia. Từ thời Hán Vũ đế, nhà Hán đã bãi truất bách gia, độc tôn nho
học. Tuy nhiên, thực chất, những điểm tích cực của Đức trị được vận dụng rất hạn chế.
Các vua thời phong kiến rất kém tự giác tu thân, nhiều người còn sa đọa, tàn ác nên
chắc chắn không thể có Đức hơn người dân được. Ngoài ra, chính sách giáo dục tuy có
được thi hành nhưng không được coi là quốc sách, trong xã hội chỉ có một bộ phận có
tiền của là được học hành nghiêm chỉnh còn đa phần là mê muội, mù chữ. Đức trị chỉ
là một phương tiện để mị dân của giai cấp thống trị.
- Pháp trị tuy không phải là hình thức cai trị chính thống nhưng lại được vận dụng
19
- Xem thêm -