Mô tả:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
------------------------------------
TRẦN CHUNG THỦY
NHẬN DẠNG, ĐO LƯỜNG HIỆU ỨNG ĐÁM ĐÔNG
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VÀ
PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2010
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------------------------------------
CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT
TRẦN CHUNG THỦY
NHẬN DẠNG, ĐO LƯỜNG HIỆU ỨNG ĐÁM ĐÔNG
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VÀ
PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số : 60.31.14
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Trần Ngọc Anh
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2010
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích dẫn và
số liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất trong
phạm vi hiểu biết của tôi. Luận văn này không nhất thiết phản ánh quan điểm của
Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh hay Chương trình giảng dạy kinh tế
Fulbright.
Học viên
Trần Chung Thủy
TÓM TẮT
Tâm lý bầy đàn là một nhân tố quan trọng tác động lên các hành vi trên thị
trường tài chính đặc biệt vào những thời kỳ thị trường căng thẳng (quá nóng hoặc sụt
giảm suy thoái). Trong đề tài này, tác giả áp dụng một phương pháp của Hwang và
Salmon (2004) để đo lường và kiểm chứng hiệu ứng đám đông trên TTCK Việt Nam.
Kết quả cho thấy tồn tại hiệu ứng đám đông và cung cấp các ước lượng của tham số về
mức độ hiệu ứng đám đông theo thời gian. Dùng các giá trị ước lượng mức độ hiệu ứng
đám đông theo thời gian kết hợp với các phân tích định tính tác giả đã chỉ ra cần hướng
đến thực hiện chính sách giao dịch với biên độ rộng sau đó áp dụng việc giao dịch bán
khống với sự chuẩn bị các điều kiện minh bạch thông tin từ môi trường vĩ mô là điều
tiên quyết.
Tác giả cũng đưa đến một kết luận tâm lý đám đông hình thành trên thị trường
với các tiền đề, định kiến đánh giá thấp rủi ro ngay từ buổi ban đầu. Không loại trừ
nguyên nhân nền kinh tế tiềm ẩn một cơ cấu đầu tư sai lệch từ trước khi TTCK ra đời.
Để nghiên cứu về hành vi định giá của nhà đầu tư mang đặc điểm gì tác giả đã
chia các cổ phiếu thành ba nhóm.
Kết quả trên nhóm 1 cho thấy các cổ phiếu có hệ số Beta nhỏ hơn 1 sẽ có xu
hướng được định giá cao hơn mức hợp lý trong thời kỳ thị trường đi lên và bị định
giá thấp hơn mức hợp lý trong thời kỳ thị trường sụt giảm.
Kết quả trên nhóm 2 cho thấy các cổ phiếu có hệ số Beta bằng 1 có xu hướng
được định giá hội tụ về mức giá hợp lý.
Kết quả trên nhóm 3 cho thấy các cổ phiếu có hệ số Beta lớn hơn 1 khi thị
trường đi xuống thì nhà đầu tư thận trọng trong việc đặt giá xung quanh mức giá
hợp lý và ít biến động giá. Khi thị trường đang đi lên thì giá cổ phiếu có xu hướng
được định giá cao hơn so với mức hợp lý. Nhưng tốc độ phát triển của bong bóng giá
chậm hơn so với nhóm cổ phiếu có hệ số Beta nhỏ hơn 1 trong thời kỳ thị
trường nóng lên.
Từ khóa: hiệu ứng đám đông; mức độ hiệu ứng đám đông.
MỤC LỤC
Chương 1 GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ...........................................................
1
1.1
Đặt vấn đề nghiên cứu............................................................................................
1
1.2. Tổng quan các nghiên cứu liên quan.....................................................................
8
1.3. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu...........................................................................
12
1.3.1. Mục tiêu........................................................................................................
12
1.3.2. Câu hỏi nghiên cứu ......................................................................................
12
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................
13
1.5. Giả thuyết nghiên cứu ..........................................................................................
14
1.6. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................
14
Chương 2 PHƯƠNG PHÁP LUẬN .................................................................................
15
2.1. Các luận điểm của lý thuyết tài chính hành vi....................................................
15
2.2. Tóm tắt các mô hình sử dụng ..............................................................................
18
2.3. Mô tả số liệu và phương pháp thực hiện .............................................................
27
Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ..............................................................................
29
3.1. Kết quả đo lường hiệu ứng đám đông.................................................................
29
3.2. Kết quả phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu ứng đám đông................... 35
3.3. Mô tả quá trình định giá không hợp lý đã diễn ra ..............................................
39
3.4. Nhận dạng hành vi định giá và kiểm chứng lại sự tồn tại hiệu ứng đám đông–
cải tiến mô hình của Chang, Cheng và Khorana (2000) .................................... 41
Chương 4 ĐỀ XUẤT CHÍNH SÁCH VÀ KIẾN NGHỊ .................................................
48
4.1. Đề xuất chính sách về phía nhà nước ..................................................................
49
4.1.1. Thực hiện trên thị trường giao dịch thứ cấp............................................... 49
4.1.2. Các chính sách vĩ mô ...................................................................................
51
4.2. Kiến nghị đối với doanh nghiệp và nhà đầu tư...................................................
53
KẾT LUẬN VÀ PHẢN BIỆN CHÍNH SÁCH ................................................................
55
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................
59
Phụ lục 1.
Bảng lợi suất VN-Index, T-bill3, độ biến động của lợi suất VN-Index ... 61
Phụ lục 2.
Chương trình ước lượng hệ số Beta theo tháng của các cổ phiếu ............ 63
Phụ lục 3.
Bảng hệ số Beta của các mã cổ phiếu.........................................................
67
Phụ lục 4.
Bảng mức độ hiệu ứng đám đông h4..........................................................
78
Phụ lục 5.
Kết quả ước lượng mô hình đo lường hiệu ứng đám đông .......................
80
Phụ lục 6.
Kết quả ước lượng các mô hình kiểm chứng hiệu ứng đám đông và hành
vi định giá trên các nhóm ............................................................................
83
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BIENDO
Biên độ giao dịch của UBCK quy định cho thị trường theo ngày.
Biến nhận giá trị bằng 1 khi giá trị tuyệt đối của lợi suất chỉ số thị
CD
trường đi về cực điểm lớn hơn 85% biên độ và bằng 0 trong trường
hợp còn lại.
CSSD
CSSDLS
Sai lệch tiêu chuẩn chéo của hệ số Beta của các cổ phiếu cho từng
tháng.
Mức độ biến động trung bình của lợi suất của từng nhóm theo
ngày.
Mức độ biến động trung bình của lợi suất các cổ phiếu của từng
CSSDLS1_CC
nhóm có giá biến động cùng chiều với chỉ số thị trường so với lợi
suất chỉ số thị trường theo ngày.
GD
Biến nhận giá trị bằng 1 sau ngày có 13/12/2005 và nhận giá trị 0
trong những ngày còn lại.
LSVN
Lợi suất của chỉ số thị trường theo ngày.
LSVNBS
Trị tuyệt đối của lợi suất chỉ số thị trường theo ngày.
UD
Biến nhận giá trị bằng 1trong ngày thị trường tăng điểm bằng 0
trong ngày thị trường giảm điểm.
TTCK
Thị trường chứng khoán.
UBCK
Uỷ ban chứng khoán.
1
Chương 1
GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1
Đặt vấn đề nghiên cứu
Đứng trên góc độ nghiên cứu Kinh tế phát triển và Tài chính phát triển thì sự ra
đời của TTCK là nhằm mục tiêu thúc đẩy việc huy động, sử dụng vốn hiệu quả để đạt
được tốc độ tăng trưởng cao cho nền kinh tế. Một nền kinh tế muốn phát triển bền
vững cần có một thị trường tài chính trong đó bao gồm TTCK phát triển lành mạnh và
hiệu quả. Ở những thị trường đó ít xảy ra những biến động thăng giáng quá lớn vì
những sự thăng giáng này sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế nhất là khu vực sản
xuất đang huy động vốn đầu tư qua thị trường tài chính.
Theo Thomas E. Copeland và J. Fred Weston (1992) [13] thị trường tài chính
hiệu quả là thị trường mà mọi thông tin sẵn có trên thị trường được phản ánh đầy đủ,
đồng thời và liên tục vào giá cả. Điều đó có nghĩa giá cả tài sản được xác lập thông qua
các giao dịch trên thị trường sẽ là tín hiệu quan trọng, chính xác và đóng vai trò định
hướng trong việc phân bổ nguồn vốn một cách hiệu quả.
Từ các luận điểm trên có thể cho rằng khi thị trường tài chính hiệu quả thì các
thông tin sát thực về rủi ro tương đối giữa các doanh nghiệp, giữa các ngành trong mối
quan hệ với toàn bộ nền kinh tế tại mỗi thời điểm được phản ánh đầy đủ, ngay lập tức
vào giá cả các tài sản tài chính đang được giao dịch trên thị trường. Chính những thông
tin này sẽ giúp cho việc ra quyết định đầu tư đúng đắn của các nhà đầu tư đồng thời
góp phần hình thành một cơ cấu đầu tư hợp lý của nền kinh tế để đạt được hiệu quả
tăng trưởng GDP tốt nhất. Như vậy thị trường giao dịch chính thức của các cổ phiếu
niêm yết cần được xây dựng và điều chỉnh để các thông tin đánh giá về rủi ro tương
đối
2
giữa các tài sản được bộc lộ một cách chân thực. Từ đó theo mối quan hệ đồng biến
giữa lợi suất và rủi ro mà lý thuyết Kinh tế học Tài chính đã chứng minh, các nhà đầu
tư sẽ xác định được mức lợi suất hợp lý của các tài sản tài chính trên thị trường
tài chính nói chung khi định giá các tài sản này. Khi các tài sản tài chính được đầu
tư ở mức giá hợp lý tức là các nhà đầu tư đã thực hiện được việc tối đa hóa lợi
nhuận trên danh mục đầu tư của mình. Và chính vì thế mà cơ cấu đầu tư chung của
nền kinh tế sẽ có thể dẫn đến tăng trưởng GDP hiệu quả.
TTCK Việt Nam đã bước sang năm thứ 10 với những thăng trầm như những thị
trường mới nổi khác trên thế giới. Các nhà quản lý cũng như những người tham gia thị
trường đã học được nhiều kinh nghiệm trên con đường phát triển của thị trường. Giai
đoạn thị trường nóng bỏng là thời gian từ cuối năm 2006 đến đầu năm 2008 khi cuộc
khủng hoảng tài chính diễn ra trên thế giới. Nhìn lại hiện tượng phát triển nóng thời
kỳ đó (chỉ số VN-Index lên đến 1178.67 điểm vào ngày 13/3/2007) và theo sau là thời
kỳ sụt giảm đến mức thấp nhất vào tháng 12/2008 (chỉ số VN-Index ở mức 285.56
1
điểm) chúng ta thấy rằng sự biến động của thị trường quá mạnh. Bên cạnh đó trong
lịch sử phát triển từ tháng 8/2000 đến nay cũng đã nhiều lần diễn ra hiện tượng tăng
giảm lớn trong một thời gian ngắn.
Quan sát trên sàn giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh cho thấy: đến
tháng 12/2005 có 23 mã cổ phiếu niêm yết; đến tháng 12/2006 có 82 mã cổ phiếu niêm
yết; đến tháng 12/2007 có 120 mã cổ phiếu niêm yết; đến tháng 3/2010 có 213 mã cổ
2
phiếu niêm yết. Như vậy có sự gia tăng rõ rệt về số lượng công ty niêm yết cổ phiếu
trên thị trường trong giai đoạn trước năm 2006 so với sau năm 2006 cho đến nay,
nhưng số lượng các công ty chưa niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch cũng còn chiếm
một lượng không nhỏ. Bên cạnh đó theo tính toán của Bộ Tài chính cho đến ngày
1
Nguồn : Công ty chứng khoán Tân ViệtTVSI.
2
Nguồn : Công ty chứng khoán Tân ViệtTVSI.
3
31/12/2007 mức vốn hóa thị trường trên 30 tỷ USD tương đương với 43.7% GDP.
3
Những số liệu thể hiện thị giao dịch trường thứ cấp đã hút một lượng vốn rất lớn của
nền kinh tế trong năm 2007 trong khi số lượng các công ty niêm yết trên sàn giao dịch
chính thức chỉ là một phần của tổng các doanh nghiệp trong cả nước. Theo logic một
câu hỏi được đặt ra là: liệu giá cả trên thị trường cổ phiếu lúc đó có phải là mức giá
hợp lý không?
Trong khoảng thời gian cuối năm 2006 đến tháng 3/2007 trên thị trường cổ
phiếu có hiện tượng cầu về cổ phiếu lớn vượt cung thể hiện ở khối lượng đặt mua luôn
cao hơn khối lượng đặt bán. Điều này khiến cho giá nhiều mã cổ phiếu có xu hướng
tăng kịch trần nhiều phiên liên tiếp. Trước sự tăng trưởng quá nóng đó của thị trường
cổ phiếu Chính phủ đã thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và
niêm yết trên sàn giao dịch chính thức (với những quy định của nghị định 187/2004/NĐCP đã được triển khai từ giữa năm 2005) nhằm tăng lượng cung cho thị trường. Tuy
nhiên, cho đến cuối năm 2007 và đầu 2008 thị trường vẫn tiếp tục giữ ở mức 900-1000
điểm chỉ số. Vì vậy việc tăng cung hàng hóa trên thị trường giai đoạn đó thông qua
thúc đẩy cổ phần hóa có tác dụng hạ nhiệt thị trường hay không vẫn còn là một câu
hỏi?
Trong giai đoạn 2007 đến đầu 2008 các công ty đã phát hành cổ phiếu lần đầu
hoặc phát hành thêm để huy động vốn. Điều đáng nói ở đây là lượng thặng dư huy
động vốn đã được doanh nghiệp đầu tư ngược trở lại thị trường thứ cấp mà không dùng
tất cả để mở rộng sản xuất kinh doanh. Quan sát thời kỳ đó hầu như các doanh nghiệp
đều có hạng mục đầu tư tài chính. Bên cạnh đó các ngân hàng cũng cho vay để đầu tư
chứng khoán với lượng lớn. Khi có chỉ thị số 03 của Ngân hàng Nhà nước (ban hành
ngày 28/06/2007) quy định từ ngày 1/7/2007 các tổ chức tín dụng chỉ được phép cho
vay đầu tư kinh doanh chứng khoán dưới 3% của dư nợ tín dụng thì một lượng vốn tín
3
Nguồn: h ttp ://www.mof.gov.vn/Default.a sp x? tabid =82 &ItemID=505.
4
dụng đã chảy vào thị trường thứ cấp. Và có thể điều này đã góp phần làm giá cả các cổ
phiếu được thổi phồng lên.
Chỉ số VN-Index tuột dốc không phanh trong 2008 khi thị trường suy thoái
mạnh. Một trong các nguyên nhân dẫn đến điều này là do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tài chính đang diễn ra trên thế giới cùng năm đó. Trong giai đoạn này các ngân
hàng bộc lộ nợ xấu trong đó một phần do cho vay đầu tư chứng khoán và bất động sản.
Các doanh nghiệp báo cáo lợi nhuận trên vốn cổ phần và trên tổng tài sản thấp hơn
mức kỳ vọng của thị trường trước đó rất nhiều. Đồng thời lạm phát của nền kinh tế
tăng cao trong đó có một nguyên nhân do lượng cung tiền thời kỳ 2007 cao. Lượng
cung tiền này tăng lên để cân đối với lượng vốn của các nhà đầu tư nước ngoài chảy
vào nền kinh tế giai đoạn 2006-2007. Không loại trừ khả năng một phần lượng vốn đó
đã chảy vào TTCK do khu vực sản xuất không hấp thu được - bởi ngay cả các doanh
nghiệp thặng dư vốn do phát hành cổ phiếu cũng không dùng tất cả vào mở rộng quy
mô sản xuất như đã nêu trên. Hệ quả tất yếu là tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế chậm
lại trong năm 2008 và 2009 với mức tương ứng là 6.23% và 5.32%.
4
Vậy điều gì đang diễn ra trong giai đoạn vừa qua khi giá cả trên thị trường cổ
phiếu có những sự biến động mạnh mà dường như các tác động chính sách của Chính
phủ ít làm thay đổi các xu thế biến động này? Bên cạnh đó như đã nêu trên cho thấy
xuất hiện một nghi vấn về tính hợp lý của giá cả cổ phiếu trên thị trường. Để trả lời
các câu hỏi này cần phải có một sự phân tích sâu hơn để tìm hiểu về hành vi định giá
đang được thực hiện trên thị trường với các cơ chế dẫn dắt.
Lý thuyết định giá tài sản tài chính cho thấy giá tài sản tài chính trên thị trường
phụ thuộc vào mức lợi suất chiết khấu. Để xem xét cơ chế định giá trên thị trường tài
chính cần xem lại khái niệm lợi suất yêu cầu trên thị trường và lợi suất cân bằng. Lợi
4
Nguồn: http://infotv.vn/kin h-doanh-dau-tu /dau -tu/21780-tang-truong -gdp-nam-2008-dat-623
và http://phap luattp.vn /2009123111433517p0c1014 /nam -2009-to c-do-tang-truong-kinh -te-tang-532 .htm.
5
suất yêu cầu hay còn gọi là lợi suất thực hiện trong giao dịch là lợi suất mà người ta kỳ
vọng thu được trong tương lai khi đầu tư vào tài sản và dùng lợi suất này như lợi suất
chiết khấu trong định giá. Trong điều kiện thị trường hiệu quả và cân bằng lợi suất
thực có thể mang lại trên việc đầu tư vào tài sản công ty sẽ bằng với lợi suất yêu
cầu. Lúc này tài sản được định giá hợp lý (giá cân bằng). Nhưng thực tế có nhiều
nghiên cứu cho thấy cho thấy các thị trường nhất là thị trường mới nổi như Việt
Nam thường không đạt được mức hiệu quả yếu hoặc hiệu quả trung bình vì vậy cân
bằng nói trên không xảy ra. Và chúng ta sẽ không thể quan sát được mức lợi suất cân
bằng mà chỉ có thể quan sát được mức lợi suất thực hiện sai lệch so với mức lợi suất
cân bằng trong lý thuyết với điều kiện thị trường hiệu quả. Khi lợi suất thực hiện
lớn hơn lợi suất cân bằng thì giá tài sản tài chính được định giá cao so với giá trị hợp
lý. Sau một thời gian được định giá cao, tài sản sẽ có xu hướng quay trở lại giá cân
bằng và xuống thấp hơn giá cân bằng. Như vậy lợi suất thực hiện lại thấp hơn lợi suất
cân bằng và quá trình này tiếp tục cho đến khi hiện tượng đảo chiều xuất hiện. Lúc này
giá sẽ có xu hướng trở lại giá cân bằng và theo đà sẽ tăng cao hơn giá cân bằng. Các
quá trình này sẽ lập lại theo chu kỳ tăng trưởng rồi giảm sút.
5
Lý thuyết tài chính hành vi cho thấy: Việc không xử lý được lượng thông tin
quá lớn hoặc không có thông tin đầy đủ khiến một nhà đầu tư vào bất kỳ thời điểm nào
cũng có thể đưa ra mức giá không hợp lý. Khi các thông tin trên thị trường không đầy
đủ dẫn đến nhiều nhà đầu tư đưa ra các mức giá không hợp lý có tính hệ thống vì ai
cũng chọn cách hành động theo số đông trên thị trường. Vì vậy mức giá hình thành trên
thị trường do cân bằng cung - cầu sẽ sai lệch so với mức giá hợp lý. Sự định giá sai
lệch có thể kéo dài dẫn đến giá cổ phiếu ngày càng sai khác với giá trị thực (giá hợp lý)
của nó. Các hành vi định giá sai lệch có tính hệ thống này thường gọi là “hành vi theo
bầy đàn” hay “hành vi theo đám đông”.
5
Dựa vào các nghiên cứu và xây dựng lý thuyết của các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực Kinh tế học hành vi và Tài
chính học hành vi. Xem Dan Ariely (2009) [1], Bikhchandani.S. & Sharma.S. (2001) [5], Shiller Robert J.
(2003) [11].
6
Một trong những vấn đề thường xảy ra với thị trường mới nổi là hành vi bầy đàn
hay còn gọi là tâm lý đám đông với cơ chế định giá không hợp lý kéo dài dẫn đến hệ
quả là thị trường phát triển quá nóng hay sụp đổ và ảnh hưởng đến các thị trường liên
quan. Điều này cũng ảnh hưởng đến việc huy động vốn của các doanh nghiệp trong nền
kinh tế khi chi phí vốn quá cao trong thời kỳ phát triển nóng cũng như khó khăn huy
động trong thời kỳ thị trường sụt giảm sâu.
Ngay cả các TTCK phát triển cũng vẫn tồn tại hành vi đầu tư theo tâm lý đám
đông. Nhưng do thị trường đã phát triển đạt mức hiệu quả nhất định nên tác động của
hành vi đầu tư theo tâm lý đám đông lên quá trình định giá và làm sai lệch giá tài sản
tài chính diễn ra nhanh với mức độ sai lệch nhỏ. Các thị trường đã phát triển với điều
kiện thông tin minh bạch, đầy đủ dẫn đến các cơ hội kinh doanh chênh lệch giá sẽ
nhanh chóng mất đi và giá tài sản tài chính có xu hướng trở lại mức hợp lý ngay lập
6
tức. Đối với thị trường không hiệu quả và có tâm lý bầy đàn mạnh thì quá trình định
giá sai lệch sẽ kéo dài thể hiện sự dao động của lợi suất thực tế sẽ lớn. Như vậy nếu
tâm lý đám đông tác động lên hành vi định giá và gây ra sự sai lệch giá kéo dài thì sẽ
tạo thành hiệu ứng đám đông. Mức độ của hiệu ứng đám đông bao gồm hai thuộc tính:
độ lớn của tác động sai lệch giá và độ dài (hay độ trễ) của trạng thái tác động. Chúng ta
sẽ dùng hai khái niệm hiệu ứng đám đông và mức độ hiệu ứng đám đông theo nghĩa
tương đương nhau.
Người ta thấy rằng việc đo lường hiệu ứng đám đông để nhận dạng mức độ
thăng giáng của thị trường mới nổi và các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ hiệu
ứng đám đông sẽ giúp cho các nhà hoạch định chính sách đưa ra các biện pháp điều
chỉnh
6
Các nhà nghiên cứu cho thấy ở TTCK Mỹ cho thấy cơ hội kiếm lợi chênh lệch giá chỉ kéo dài 30s.
(Nguồn:http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3_thuy%E1%BA%BFt_ th%E1%BB%8B_ tr
%C6% B0%E1%BB%9Dng_h i%E1%BB%87u_qu%E1%BA%A3 ).
7
thị trường một cách thích hợp trong giai đoạn còn non trẻ. Sự tăng giảm quá mạnh của
các cổ phiếu một cách đồng loạt sẽ dẫn đến sự phát triển quá nóng hoặc sụt giảm quá
mức của toàn thị trường. Với một TTCK đóng vai trò tập hợp vốn xã hội cho việc đầu
tư phát triển thì sự trồi sụt của thị trường kéo dài sẽ dẫn đến những ảnh hưởng mang
tính chất vĩ mô. Nếu kèm theo đó là hành vi định giá theo kiểu đám đông sẽ dẫn đến
việc cơ cấu đầu tư mất cân bằng cùng với sự đánh giá rủi ro thấp. Sự đầu tư sai lệch
không hiệu quả sẽ làm cho các nhà đầu tư đứng trước nguy cơ thua lỗ nặng nề trong
tương lai; các doanh nghiệp sẽ lâm vào tình trạng khó khăn; các nguồn vốn không được
đầu tư hiệu quả. Hệ quả cuối cùng nền kinh tế sẽ không đạt được tăng trưởng theo định
hướng. Tâm lý bầy đàn cũng làm ảnh hưởng đến cuộc sống đời thường của mỗi cá
nhân khi người ta đổ xô chạy theo những giá trị ảo và đánh mất sự cân bằng tâm lý vốn
là điểm tựa để phát triển một đời sống hài hòa.
Mười năm trôi qua với nguồn dữ liệu ghi nhận về giá cả giao dịch của cổ phiếu
niêm yết cũng đã đủ để bắt đầu thực hiện các nghiên cứu về hành vi thị trường. Từ đó
có thể đánh giá các chính sách đã thực hiện và cải thiện các chính sách này để thúc đẩy
thị trường phát triển, thực hiện ngày càng hiệu quả chức năng huy động vốn cũng như
làm phong vũ biểu cho nền kinh tế. Trong bài viết này tác giả sẽ đi vào nghiên cứu về
sự tồn tại của hiệu ứng đám đông và các nhân tố ảnh hưởng lên tâm lý đám đông. Vấn
đề nghiên cứu được đặt ra là cần xác định thực chất có tồn tại hiệu ứng đám đông trên
TTCK Việt Nam giai đoạn 2000-2009 hay không và với mức độ nào? Sau đó cần nhận
dạng hành vi định giá của nhà đầu tư trên các cổ phiếu và tìm ra một số nguyên nhân
dẫn đến tâm lý bầy đàn cũng như sự ảnh hưởng của nó đến thị trường và nền kinh tế để
từ đó có thể đề xuất những chính sách thích hợp về phía Nhà nước trong việc quản lý
thị trường cùng với các chính sách hỗ trợ. Bên cạnh đó cũng đưa ra những phân tích
giúp cho doanh nghiệp và nhà đầu tư có những phản ứng thích hợp khi hiệu ứng đám
đông diễn ra mạnh mẽ.
8
1.2.
Tổng quan các nghiên cứu liên quan
Việc nghiên cứu đo lường hiệu ứng đám đông đã được thực hiện khá nhiều trên
thế giới. Các nghiên cứu này thường kết hợp các mô hình toán tài chính và lý thuyết
tài chính hành vi. Đây là những nghiên cứu có tính chất thực nghiệm nhưng đồng
thời cũng ủng hộ những lý thuyết mới trong tài chính hành vi. Các nghiên cứu dựa trên
việc giả thiết thị trường không hiệu quả và các mô hình toán tài chính không còn mang
tính chuẩn tắc như đã xây dựng. Trong đó có các nghiên cứu nổi lên như mô hình của
Soosung Hwang và Mark Salmon (2004) [12].
Trước tiên cần điểm lại các công trình và luận điểm nghi vấn về giả thiết thị
trường hiệu quả có tồn tại trong thực tiễn hay không? Theo Shiller Robert J. (2003)
[11] cũng như Bikhchandani và Sharma (2001) [5] thì các công trình nghiên cứu của
Summers (1986), Shiller (1981,1988) cho thấy mô hình định giá cổ phiếu cùng giả
thiết thị trường tài chính hiệu quả bộc lộ nhiều điểm không phù hợp với thực tế đã diễn
ra. Shiller (2003) [11] cho rằng nguyên nhân là do giả thiết các nhà đầu tư đồng nhất
trong kỳ vọng hợp lý về giá tương lai cũng như ngay lập tức phản ánh tất cả thông tin
trên thị trường vào giá cổ phiếu theo cùng một cách không phù hợp thực tế. Như vậy
việc mô phỏng, phân tích các hành vi định giá cổ phiếu đang diễn ra trên thị trường
thực bằng các mô hình xây dựng trong điều kiện thị trường hiệu quả sẽ dẫn đến những
kết luận không thuyết phục.
Lý thuyết thị trường hiệu quả cho rằng tất cả các nhà đầu tư đều có mục tiêu tối
đa hóa lợi nhuận. Lý thuyết này cũng mô tả thị trường hiệu quả bao gồm các nhà đầu
tư liên tục sử dụng những thông tin được công bố rộng rãi trên thị trường và họ ngầm
hiểu các nhà đầu tư khác cũng sử dụng những thông tin theo cùng một cách. Vì những
lẽ đó mà đương nhiên trên thị trường các nhà đầu tư sẽ đưa ra quyết định tương tự
nhau; Lúc này điều tất yếu phải diễn ra là sẽ xuất hiện đám đông các nhà đầu tư theo
cùng xu hướng. Nhưng các nhà nghiên cứu tài chính hành vi nghi ngờ lý giải này và
cho rằng việc hành động giống nhau của các nhà đầu tư là kết quả của diễn biến tâm
lý theo bầy
9
đàn hay tâm lý đám đông trên thị trường không hiệu quả. Bikhchandani và Sharma
(2001) đã định nghĩa tâm lý đám đông là một tâm lý sẽ định hướng dẫn dắt hành vi của
các nhà đầu tư và kết quả họ sẽ hành động giống như nhau khi định giá cổ phiếu trên
thị trường.
Những lí do nào trong thực tế đã tạo ra tâm lý của các nhà đầu tư theo xu hướng
bác bỏ các thông tin từ phân tích cá nhân để thiết lập kiểu hình hành động như những
nhà đầu tư khác? Bikhchandani và Sharma (2001) [5] đã tổng hợp các nghiên cứu của
các tác giả đi trước để đưa ra nhận định có ba nguyên nhân chính hình thành nên ba
loại tâm lý đám đông.
Thứ nhất, Bikhchandani và Sharma (2001) đã đưa ra quan điểm theo cách nhìn
nhận của Avery và Zemsky (1998) [1] cho rằng trên thị trường người ta luôn tin một số
nhà đầu tư có thể biết được thông tin về lợi suất của việc đầu tư thực tế của
doanh nghiệp và những hành động của các nhà đầu tư sẽ bộc lộ thông tin mà họ có.
Do vậy các nhà đầu tư cá nhân sẽ theo nhau đi vào chuỗi bầy đàn khi trên thị trường có
một sự bộc lộ thông tin nào đó. Điều này xuất phát từ nguyên nhân trên thị trường
không có đầy đủ thông tin và năng lực xử lý thông tin để ra quyết định của mỗi cá nhân
là có giới hạn. Trong trường hợp này sẽ xuất hiện những nhóm nhà đầu tư chủ ý tạo ra
bầy đàn từ sự bất cân xứng thông tin để kiếm lợi. Bên cạnh đó cũng xuất hiện những
nhóm nhà đầu tư biết các thông tin có thể không xác thực nhưng vẫn đi theo để tận
dụng cơ hội kiếm lợi trong ngắn hạn.
Thứ hai, Bikhchandani và Sharma (2001) [5] có chung quan điểm với Devenow
và Welch (1996) [8] trong việc chứng minh tâm lý các nhà đầu tư luôn cho rằng việc
tuân theo các xu hướng hành động trên thị trường là lựa chọn tối ưu. Điều này thường
xảy ra với các nhà quản lý quỹ hay các nhà phân tích mới vào nghề khi muốn tạo dựng
và giữ danh tiếng cho mình thì tốt hơn cả là nên đi theo xu thế của thị trường cho dù cá
nhân có những nhận định trái ngược với nhận định chung.
10
Thứ ba, Bikhchandani và Sharma (2001) [5] cùng với Scharfstein và Stein
(1990) [10] cũng như Maug và Naik (1996) [9] tìm ra tâm lý của các nhà quản lý danh
mục đầu tư vì tỷ lệ tiền thưởng trên tỷ suất lợi nhuận của danh mục họ quản lý nên sẽ
hành động theo đám đông. Họ hành động theo đám đông để hy vọng kiếm được lợi
nhuận vượt trội so với thị trường và cũng vì thế mà khoản tiền thưởng của họ sẽ tăng
lên.
Bikhchandani và Sharma (2001) [5] đã tổng kết các nghiên cứu của DeLong,
Shleifer, Summers và Waldman (1990) Froot, Scharfstein và Stein (1992), Lux và
Marchesi (1999)... với cách tiếp cận theo Bayesian. Đây là cách tiếp cận dựa trên thông
tin hậu nghiệm. Các tác giả này đã đi đến chứng tỏ hành vi đầu tư theo đám đông là
một hành vi hoàn toàn không hợp lý kết quả sẽ đưa ra các mức giá sai lệch.
Các nghiên cứu trên đã phát triển theo hướng chỉ ra thị trường với giả thiết
có hiệu quả mạnh là thị trường khó có thể tồn tại trong thực tiễn. Như vậy sẽ có ba lý
do chính để hình thành các kiểu hình ra quyết định đầu tư theo đám đông. Các nghiên
cứu cũng đi đến chỉ ra hệ quả của việc đưa ra quyết định đầu tư theo đám đông sẽ dẫn
đến hình thành các mức giá sai lệch trên thị trường. Vấn đề tiếp theo là xây dựng
các phương pháp kiểm chứng, đo lường các mức độ của tâm lý đám đông tác động
lên hành vi định giá làm giá cả sai lệch. Có rất nhiều phương pháp đã được xây
dựng và phát triển. Trong đó phải kể đến công trình của Chang, Cheng và Khorana
(2000) [6] và Christie và Huang (1995) [7] đã đưa ra phương pháp để phát hiện hiện
tượng tâm lý đầu tư theo đám đông khi nghiên cứu sự biến động của độ lệch các lợi
suất cổ phiếu so với giá trị lợi suất trung bình hoặc lợi suất chỉ số thị trường.
Mô hình của Christie và Huang (1995) [7] đã xây dựng biến sai lệch tiêu chuẩn
chéo của lợi suất các cổ phiếu trên thị trường. Sau đó xây dựng hai biến giả nhận giá trị
1 khi rơi vào các cực điểm dương của phân phối xác suất của lợi suất thị trường và
kiểm chứng hành vi đầu tư tại khoảng thời gian rơi vào cực điểm có khác biệt với thời
gian còn lại hay không. Soosung Hwang và Mark Salmon(2004) [12] đã đưa ra phản
11
biện cho thấy vào thời kỳ mà hai chỉ số Dow Jones và NASDAQ đều có độ dao động
lớn thì thị trường các cổ phiếu không thể hiện sự thay đổi cảm xúc, tâm lý của đám
đông thể hiện qua giá cổ phiếu. Bên cạnh đó cũng quan sát được sự biến động mạnh
của độ lệch lợi suất xảy ra cùng với sự tái cấu trúc trên diện rộng của các ngành. Do
vậy theo Hwang và Salmon (2004) [12] thì luận điểm cho rằng tâm lý đám đông chỉ
xuất hiện khi có lợi suất biến động mạnh là luận điểm không thuyết phục. Vì việc đặt
ra các ngưỡng cực điểm của lợi suất thị trường sẽ mang tính chủ quan. Bên cạnh đó
theo Hwang và Salmon (2004) [12] thì mô hình này không xem xét việc lọc thông tin
về sự thay đổi giá trị cơ bản của tài sản nên không đưa ra được kết luận khẳng định
được tâm lý đám đông hay tự tài sản đã điều chỉnh giá trị về giá trị cơ bản. Như vậy
khả năng nhận biết được trạng thái thị trường hiệu quả hay không hiệu quả là rất thấp
nếu như không muốn nói là không thể.
Hwang và Salmon (2004) [12] đã xây dựng mô hình đo lường hiệu ứng đám
đông mà cho đến nay được đánh giá là khá thích hợp và đã được khá nhiều tác giả sử
7
dụng để đo lường trên các thị trường khác nhau.
Các nghiên cứu ở Việt Nam về tài chính hành vi và hiệu ứng đám đông còn ít ỏi.
Trong những năm gần đây có một số nghiên cứu cho thấy thị trường Việt Nam là
không hiệu quả. Năm 2008 tác giả Lê An Khang đã hoàn thành luận văn thạc sĩ kinh tế
với đề tài “Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tư trên TTCK Việt
Nam” với sự hướng dẫn của tiến sĩ Nguyễn Trọng Hoài tại trường Đại học Kinh tế Tp
Hồ Chí Minh. Năm 2009 tác giả Lê Thị Ngọc Lan cũng hoàn thành luận văn thạc sĩ với
đề tài “Nghiên cứu lý thuyết hành vi trên TTCK Việt Nam” với sự hướng dẫn của tiến
sĩ Phan Thị Bích Nguyệt tại trường Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh. Các đề tài này
cũng gợi ý cho tác giả những ý tưởng mới trong khi nghiên cứu về hành vi định giá
theo đám đông của các bên tham gia trên TTCK Việt Nam.
7
Các mô hình của hai tác giả này sẽ được trình bày kỹ lưỡng trong chương 2.
12
Tác giả lựa chọn và thực hiện nghiên cứu đề tài này trên cơ sở nhiều năm đã
tiến hành các nghiên cứu thực nghiệm về hệ số rủi ro Beta của các doanh nghiệp trên
TTCK Việt Nam. Các nghiên cứu này đã được kết hợp thực hiện tại Công ty chứng
khoán Tân Việt và cũng dùng để hướng dẫn phát triển một số đề tài nghiên cứu khoa
học và luận văn tốt nghiệp của sinh viên chuyên ngành Toán Tài chính trường Đại
học Kinh tế Quốc dân mà tác giả đang giảng dạy.
1.3.
Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
1.3.1. Mục tiêu
Đề tài sẽ hướng đến việc đo lường hiệu ứng đám đông tại TTCK Việt Nam trên
cơ sở mô hình của Hwang và Salmon (2004) và phát triển mô hình của Chang, Cheng
và Khorana (2000), mô hình của Christie, Chang và Huang (1995). Dùng các tham số
đo lường được để nhận dạng hành vi định giá và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến
hiệu ứng đám đông. Trên cơ sở các phân tích này sẽ đưa ra một số đề xuất chính sách
về phía Nhà nước và kiến nghị. Các chính sách đưa ra dựa trên quan điểm trung lập
nhằm thúc đẩy sự tự điều chỉnh hành vi của các bên liên quan và hướng đến sự quản lý
thị trường một cách hiệu quả.
1.3.2. Câu hỏi nghiên cứu
Trong nghiên cứu này đặt ra các câu hỏi như sau
i)
Hiệu ứng đám đông có tồn tại trên TTCK Việt Nam hay không? Có thể tiến
hành đo lường được hiệu ứng đám đông trên TTCK Việt Nam theo cách
nào?
ii)
Dùng các thông số đo lường được để hỗ trợ quá trình nhận dạng, phân tích
các hành vi trên TTCK Việt Nam thì có thể phân nhóm cổ phiếu và nhận
dạng các hành vi định giá cổ phiếu trên thị trường theo các nhóm như thế
nào? Các nhân tố nào là cơ sở hình thành, ảnh hưởng đến hiệu ứng đám
đông?
13
iii)
Từ các kết quả trên Chính phủ và UBCK có thể tác động đến tâm lý đám
đông nhằm giảm những sai lệch định giá của thị trường với những chính
sách cụ thể nào?
iv)
Những hướng nghiên cứu nào sẽ cần tiếp tục để hỗ trợ, hoàn thiện việc thực
hiện chính sách đã đề nghị?
1.4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Biến nghiên cứu hay đối tượng nghiên cứu là mức độ của hiệu ứng đám đông.
Biến này được lựa chọn xây dựng dựa trên cơ sở biến nguồn là hệ số rủi ro Beta của
các doanh nghiệp trên cơ sở mô hình CAPM.
Phạm vi nghiên cứu là mức độ của hiệu ứng đám đông trên TTCK Việt Nam với
các phân tích mở rộng ngoại vi là các doanh nghiệp, nhà đầu tư hoạt động trên TTCK
Việt Nam.
Số liệu được sử dụng là giá cả các cổ phiếu trên sàn giao dịch thành phố Hồ Chí
Minh (Hose) từ ngày 1/08/2000 đến ngày 19/03/2010.
8
Các khái niệm
Tâm lý đám đông: Tâm lý sẵn sàng ra quyết định theo cách của một nhóm lớn
mà không xem xét đến tính hợp lý của quyết định đó. Tâm lý này dễ nảy sinh khi có ít
thông tin và thời gian để thực hiện các phân tích cá nhân.
Hành vi đầu tư theo đám đông: Hành vi đầu tư theo đám đông là hành vi đầu
tư theo cách làm của nhiều người khác mà không dựa vào các phân tích của cá nhân
trên các thông tin cơ bản về doanh nghiệp hoặc dự án đầu tư.
Mức độ của hiệu ứng đám đông: Tâm lý đám đông tác động lên hành vi định
giá và gây ra sự định giá sai lệch kéo dài sẽ tạo thành hiệu ứng đám đông. Mức độ của
hiệu ứng đám đông bao gồm hai thuộc tính: độ lớn của tác động sai lệch giá và độ dài
8
Các khái niệm tác giả đưa ra sau khi đã nghiên cứu tham khảo lý thu yết Tài chính hành vi và các công
trình nghiên cứu về hành vi đám đông đã nêu trong mục 1.2.
- Xem thêm -