Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Tài liệu bồi dưỡng nội dung phát triển năng lực giao tiếp tiếng anh cho học sinh...

Tài liệu Tài liệu bồi dưỡng nội dung phát triển năng lực giao tiếp tiếng anh cho học sinh tiểu học thông qua các hoạt động ứng dụng, bài tập hình huống

.PDF
52
1
140

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO -----------------------------NGUYỄN THỊ ÁI LIÊN TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN CẤP TIỂU HỌC NĂM HỌC 2017-2018 NỘI DUNG: PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIAO TIẾP TIẾNG ANH CHO HỌC SINH TIỂU HỌC THÔNG QUA CÁC HOẠT ĐỘNG ỨNG DỤNG, BÀI TẬP TÌNH HUỐNG Tháng 10, 2017 0 MỞ ĐẦU 1. Lý do biên soạn tài liệu: Sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế với những ảnh hưởng của xã hội tri thức và toàn cầu hóa đang tạo ra những cơ hội nhưng đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu hết sức cấp bách đối với giáo dục về đào tạo con người, đào tạo nguồn nhân lực cho thời đại mới. Nghị quyết Đại hội TW Đảng khóa XII đặt ra mục tiêu về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nhằm hướng đến xây dựng một nền giáo dục hiện đại, nhân văn đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mở cửa, hội nhập quốc tế. Một trong 6 giải pháp để đạt được mục tiêu đó là: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển năng lực và phẩm chất của người học.Tập trung đổi mới chương trình, SGK; đổi mới phương pháp, mục tiêu dạy và học, chú trọng giáo dục phát huy tư duy sáng tạo, phẩm chất năng lực; đổi mới thi cử, kiểm tra, bảo đảm chất lượng đầu ra. Chuyển từ quan điểm dạy học truyền thống: Dạy chữ dạy nghề - dạy người sang Dạy người - Dạy chữ - Dạy nghề, trong đó đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả. Đề án Đổi mới chương trình và sách giáo khoa của Bộ Giáo dục Đào tạo đã dự kiến chuẩn đầu ra cho các cấp học từ Tiểu học, Trung học cơ sở đến Trung học phổ thông gồm sáu phẩm chất và chín năng lực. Trong số chín năng lực học sinh cần hình thành và phát triển thì năng lực giao tiếp là một trong những năng lực cốt lõi, quan trọng cần hình thành và phát triển, đặc biệt cần phải đi trước một bước so với các năng lực khác, vì nó là tiền đề, là cơ sở cho việc phát triển các năng lực khác. Đồng thời, đây cũng là một năng lực cốt lõi cần phát triển ở học sinh, giúp các em làm chủ bản thân, làm chủ các tình huống đặt ra trong cuộc sống, giải quyết các vấn đề một cách nhanh nhất bằng con đường tư duy và ngôn ngữ. Nếu giao tiếp tốt các em có thể thành công dễ dàng trong cuộc sống, thể hiện tư duy, trí óc nhanh nhạy, khéo léo và biệt tài ngoại giao. Đúng như Brian Tracy đã khẳng định: “Giao tiếp là một kĩ năng mà bạn có thể học. Nó cũng giống như đi xe đạp hay tập đánh máy. Nếu bạn sẵn sàng nhọc công vì nó, bạn có thể nhanh chóng cải thiện chất lượng của mọi phần cuộc sống của mình”. Việc tổ chức dạy học nhằm giúp học sinh hình thành và phát triển năng, phẩm chất, đặc biệt là năng lực giao tiếp không phải là mới tuy nhiên quá trình tổ chức dạy học để thể hiện được rõ nét việc phát huy năng lực cá nhân, tạo điều kiện cho học sinh phát huy được tính sáng tạo và phối hợp, tương trợ lẫn nhau trong học tập, vận dụng được các đơn vị kiến thức trong mỗi tiết học, mỗi hoạt 1 động giáo dục vào trong cuộc sống hàng ngày vẫn cần sự thay đổi và thay đổi cụ thể trong mỗi giáo viên. Một thay đổi cần làm cụ thể, thiết thực và quan trọng để dạy học hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực của cá nhân, năng lực giao tiếp là đổi mới phương pháp, cách thức tổ chức các hoạt động giáo dục, cách đánh giá học sinh, đặc biệt là đổi mới cách thức soạn bài, thiết kế các hoạt động ứng dụng, các bài tập tình huống nhằm phát triển tối đa năng lực, phẩm chất của học sinh. Trong những năm qua, toàn thể giáo viên tiểu học nói chung, giáo viên Tiếng Anh đã thực hiện nhiều công việc trong đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá và đã đạt được những thành công bước đầu. Đây là những tiền đề vô cùng quan trọng để chúng ta tiến tới việc việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định hướng phát triển năng lực của người học. Tuy nhiên, vẫn còn không ít giáo viên còn hạn chế về năng lực chuyên môn, chưa đạt yêu cầu về năng lực sư phạm, một số nhà giáo tinh thần trách nhiệm chưa cao, ngại đổi mới. Sự sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh… chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức. Việc rèn luyện kỹ năng, năng lực chưa được quan tâm. Nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc tiếp cận với phương pháp giảng dạy tiên tiến, việc vận dụng, kết hợp các hình thức và phương pháp dạy học, các cách thức tổ chức hoạt động học theo hướng nâng cao năng lực cho học sinh, chưa thực sự tạo cơ hội cho học sinh được vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Tất cả những điều đó dẫn tới học sinh học thụ động, thiếu tự tin, thiếu linh hoạt khi giải quyết các tình huống trong thực tiễn. Nhằm góp phần hỗ trợ cán bộ quản lý các nhà trường, giáo viên tiếng Anh tiểu học về nhận thức, phương pháp, cách thức tổ chức dạy học và các kĩ thuật thiết kế các hoạt động dạy học, các hoạt động ứng dụng theo định hướng phát triển năng lực giao tiếp, Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên soạn tài liệu: Phát triển năng lực giáo tiếp cho học sinh tiểu học thông qua hoạt động ứng dụng và các bài tập tình huống. 2. Mục tiêu của tài liệu: Giúp cán bộ quản lí và giáo viên tiếng Anh: - Hiểu sâu về dạy học theo định hướng phát triển năng lực, các kĩ thuật dạy học tích cực nhằm phát triển năng lực cho học sinh. - Các hoạt động ứng dụng, các bài tập tình huống phát triển ngăng lực giao tiếp cho học sinh. - Có kĩ năng thiết kế các bài tập tình huống, tổ chức các hoạt động ứng dụng phát triển năng lực giao tiếp. 3. Cấu trúc nội dung tài liệu: Ngoài phần Mở đầu, nội dung chính của tài liệu gồm 4 phần: 2 Phần 1. Những vấn đề cơ bản về dạy học theo định hướng phát triển năng lực. Phần 2. Hoạt động ứng dụng với các bài tập tình huống phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh. Phần 3. Cách thức thiết kế các hoạt động ứng dụng, bài tập tình huống phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh; Một số thiết kế minh họa các hoạt động ứng dụng sách Tiếng Anh 3,4,5. Phần 4. Kết luận và kiến nghị. 4. Hướng dẫn sử dung tài liệu: 4.1. Mỗi cán bộ quản lí, giáo viên cần đọc kĩ toàn bộ nội dung tài liệu, đánh dấu vào những nội dung quan trọng cần ghi nhớ như. 4.2. Trao đổi với đồng nghiệp về những vấn đề còn băn khoăn, những vấn đề chưa hiểu. Tập hợp những nội dung còn gặp khó khăn để phòng GD&ĐT, Sở GD&ĐT giải đáp, hướng dẫn. 3 Phần 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DẠY HỌC THEO ĐƯỜNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC VÀ NĂNG LỰC GIAO TIẾP Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học- từ chỗ quan tâm tới việc học sinh học được gì đến chỗ quan tâm tới việc học sinh học được cái gì qua việc học. Để thực hiện được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất, đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra, đánh giá trong quá trình học tập để có tác động kịp thời nhắm nâng cao chất lượng của hoạt động dạy học và giáo dục. I. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực Năng lực là khả năng thực hiện có hiệu quả và trách nhiệm các hành động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội hay cá nhân trong các tình huống khác nhau trên cơ sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và kinh nghiệm, cũng như sẵn sàng hành động. Chương trình giáo dục định hướng năng lực nay còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra được bàn đến nhiều từ những năm 90 của thế kỷ 20 và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế. Giáo dục định hướng năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học. Giáo dục định hướng năng nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức. Khác với chương trình định hướng nội dung, chương trình dạy học định hướng năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, có thể coi là “sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. Việc quản lí chất lượng dạy học chuyển từ việc điều khiển “đầu vào” sang ”điều khiển đầu ra”, tức là kết quả học tập của học sinh. Chương trình dạy học định hướng năng lực không quy định những nội dung dạy học chi tiết mà quy định những kết quả đầu ra mong muốn của quá trình giáo dục, trên cở sở đó đưa ra những hướng dẫn chung về việc lựa chọn nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá kết quả dạy học nhằm đảm bảo thực hiện được 4 nhóm trưởng không đủ bản lĩnh sẽ gây ra tình trạng một số thành viên nhóm quá năng động nhưng một số khác không tham gia. 2. Kỹ thuật thảo luận viết – Brainwriting Thảo luận viết (Brain writing) là một biến thể của Động não, tuy nhiên, trong thảo luận viết, từng thành viên trình bày ý kiến của mình trên giấy trước khi gởi kết quả về cho thư ký của nhóm. Mỗi thành viên có giấy và bút riêng để viết ra ý tưởng của mình. -Giáo viên chia nhóm, giao vấn đề cho nhóm. -Quy định thời gian viết cá nhân trước khi thu thập ý kiến. - Sau khi thu thập ý kiến, cả nhóm cùng nhau duyệt toàn bộ, sau đó lựa chọn giải pháp tối ưu để thư ký báo cáo kết quả. Trong quá trình phát triển ý kiến, được phép tham khảo ý kiến của các bạn khác cùng nhóm để phát triển ý tưởng. Kỹ thuật này thu thập được nhiều ý kiến, do người viết cảm thấy không phải “tranh luận” về ý kiến của mình; các ý kiến thường có giá trị cao, do người ta có xu hướng suy nghĩ kỹ trước khi viết ra giấy. Tuy nhiên, cần dành nhiều thời gian cho hai hoạt động: Viết cá nhân và đánh giá toàn bộ ý kiến. 4 . Kỹ thuật XYZ (Còn gọi là kỹ thuật 635) Kỹ thuật XYZ là một kỹ thuật làm việc nhóm nhằm phát huy tính tích cực của mỗi thành viên trong nhóm, trong đó mỗi nhóm có X thành viên, mỗi thành viên cần đưa ra Y ý kiến trong khoảng thời gian Z. Mô hình thông thường mỗi nhóm có 6 thành viên, mỗi thành viên cần đưa ra 3 ý kiến trong khoảng thời gian 5 phút, do vậy, kỹ thuật này còn gọi là kỹ thuật 635. Các thành viên cần chuẩn bị giấy bút. - Giáo viên chia nhóm, giao chủ đề cho nhóm, quy định số lượng ý tưởng và thời gian theo đúng quy tắc XYZ. - Các thành viên trình bày ý kiến của mình, hoặc gởi ý kiến về cho thư ký tổng hợp, sau đó tiến hành đánh giá và lựa chọn. Số lượng thành viên trong nhóm nên tuân thủ đúng quy tắc để tạo tính tương đồng về thời gian, giáo viên quy định thời gian và theo dõi thời gian cụ thể. 5. Kỹ thuật "Bể cá". Kỹ thuật bể cá là một kỹ thuật dùng cho thảo luận nhóm, trong đó một nhóm thành viên ngồi giữa phòng và thảo luận với nhau, còn những thành viên khác ngồi xung quanh ở vòng ngoài theo dõi cuộc thảo luận đó và sau khi kết thúc cuộc thảo luận thì đưa ra những nhận xét về cách ứng xử của những thành 10 viên đang thảo luận.Trong nhóm thảo luận có thể có một vị trí không có người ngồi. Các thành viên tham gia nhóm quan sát có thể thay nhau ngồi vào chỗ đó và đóng góp ý kiến vào cuộc thảo luận, ví dụ đưa ra một câu hỏi đối với nhóm thảo luận hoặc phát biểu ý kiến khi cuộc thảo luận bị chững lại trong nhóm. Cách luyện tập này được gọi là phương pháp thảo luận “bể cá”, vì những người ngồi vòng ngoài có thể quan sát những người thảo luận, tương tự như xem những con cá trong một bể cá cảnh. Trong quá trình thảo luận, những người quan sát và những người thảo luận sẽ thay đổi vai trò với nhau. Một nhóm trung tâm sẽ tiến hành thảo luận chủ đề của giáo viên đưa ra, các thành viên còn lại của lớp sẽ ngồi xung quanh, tập trung quan sát nhóm đang thảo luận. Bảng câu hỏi cho những người quan sát: - Người nói có nhìn vào những người đang nói với mình không? - Họ có nói một cách dễ hiểu không? - Họ có để những người khác nói hay không? - Họ có đưa ra được những ý kiến điểm đáng thuyết phục hay không? - Họ có đề cập đến ý kiến của người nói trước mình không? - Họ có lệch hướng khỏi đề tài hay không? - Họ có tôn trọng những quan điểm khác hay không? Kỹ thuật này vừa giải quyết được vấn đề, vừa phát triển kỹ năng quan sát và giao tiếp của người học. Tuy nhiên cần có không gian tương đối rộng, nhóm trung tâm khi thảo luận cần có thiết bị âm thanh, hoặc cần phải nói to; các thành viên quan sát có xu hướng không tập trung vào chủ đề thảo luận. 11 Học để biết (Learning to know): cung cấp cho người học các công cụ nhận thức để có thể hiểu biết thế giới phức tạp và trang bị nền tảng kiến thức phù hợp để người học tiếp tục học tập, khám phá tri thức trong suốt cuộc đời của họ. Học để làm (Learning to do): trang bị cho người học kiến thức, kỹ năng và thái độ để mỗi cá nhân có thể thực hành nghề nghiệp thành công và tham gia hiệu quả vào nền kinh tế-xã hội trong bối cảnh toàn cầu. Học để chung sống (Learning to live together): là để mỗi cá nhân thấu hiểu những giá trị hàm chứa trong khuôn khổ quyền con người, những nguyên tắc dân chủ, sự hiểu biết giá trị văn hóa nhân loại, sự tôn trọng, hòa bình, quan hệ trong xã hội loài người. Từ đó, mỗi cá nhân có thể chung sống hài hòa giữa các mối quan hệ. Học để trưởng thành (Learning to be): là cung cấp cho mỗi cá nhân tư duy phân tích, kỹ năng xã hội để họ có thể phát huy tốt nhất những phẩm chất tâm lý-xã hội cũng như sức khỏe thể chất và trở thành những con người hoàn thiện. Từ triết lí trên, giáo dục và đào tạo đã không ngừng đổi mới để phù hợp với xu thế thời đại, từ phương pháp dạy học cho đến phương pháp kiểm tra đánh giá. Dạy học không còn đơn thuần là truyền đạt kiến thức đóng gói trong sách vở. Dạy học hướng đến mục tiêu đào tạo ra một con người đầy đủ các kĩ năng thích ứng với môi trường xã hội, ứng dụng kiến thức được học để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn. II. Các bậc trình độ trong bài tập định hướng năng lực Về phương diện nhận thức, người ta chia các mức quá trình nhận thức và các bậc trình độ nhận thức tương ứng như sau: Các mức quá trình Các bậc trình độ nhận thức Các đặc điểm 1. Hồi tưởng thông tin Tái hiện Tái tạo lại - Tái tạo lại cái đã học theo cách thức không thay đổi. 2. Xử lí thông tin Hiểu và vận dụng -Phản theo ý nghĩa cái đã học. Nắm bắt ý nghĩa -Vận dụng các cấu trúc đã học trong tình huống tương tự. Nhận biết lại Vận dụng 3. Tạo thông tin - Nhận biết lại cái gì đã học theo cách thức không thay đổi. Xử lí, giải quyết vấn -Nghiên cứu có hệ thống và bao quát một tình huống bằng những tiêu chí riêng. đề -Vận dụng các cấu trú đã học sang một 7 GV cần chuẩn bị bút và giấy khổ lớn cho mỗi nhóm. - Giáo viên chia nhóm, phân công nhóm trưởng, thư ký, giao vật tư. - Giáo viên giao vấn đề, từng thành viên viết ý kiến của mình vào góc của tờ giấy. - Nhóm trưởng và thư ký tổng hợp các ý kiến, đánh giá và lựa chọn những ý kiến quan trọng viết vào giữa tờ giấy. Mỗi thành viên làm việc tại góc riêng của mình. Kỹ thuật này tăng cường tính độc lập và trách nhiệm của người học. Tuy nhiên lại tốn kém chi phí và khó lưu trữ, sửa chữa kết quả. 8. Kỹ thuật chia sẻ nhóm đôi (Think-Pair-Share) Chia sẻ nhóm đôi (Think, Pair, Share) là một kỹ thuật do giáo sư Frank Lyman đại học Maryland giới thiệu năm 1981. Kỹ thuật này giới thiệu hoạt động làm việc nhóm đôi, phát triển năng lực tư duy của từng cá nhân trong giải quyết vấn đề. Hoạt động này phát triển kỹ năng nghe và nói nên không cần thiết sử dụng các dụng cụ hỗ trợ. Giáo viên giới thiệu vấn đề, đặt câu hỏi mở, dành thời gian để học sinh suy nghĩ.Sau đó học sinh thành lập nhóm đôi và chia sẻ ý tưởng, thảo luận, phân loại.Nhóm đôi này lại chia sẻ tiếp với nhóm đôi khác hoặc với cả lớp. 13 góp nhặt tất cả ý kiến của nhóm người đó nảy sinh trong cùng một thời gian theo một nguyên tắc nhất định. Động não (Brainstorming) là một phương pháp đặc sắc dùng để phát triển nhiều giải pháp sáng tạo cho một vấn đề. Phương pháp này hoạt động bằng cách nêu các ý tưởng tập trung trên vấn đề, từ đó rút ra rất nhiều giải pháp căn bản cho nó. Các ý niệm/hình ảnh về vấn đề trước hết được nêu ra một cách rất phóng khoáng và ngẫu nhiên theo dòng suy nghĩ càng nhiều, càng đủ càng tốt. Các ý kiến có thể rất rộng và sâu cũng như không giới hạn bởi các khía cạnh nhỏ nhặt nhất của vấn đề mà những người tham gia nghĩ tới. Trong động não thì vấn đề được đào bới từ nhiều khía cạnh và nhiều cách nhìn khác nhau. Sau cùng các ý kiến sẽ được phân nhóm và đánh giá. Dụng cụ tốt nhất là các bảng hoặc giấy khổ lớn để mọi người dễ đọc các ý kiến, hoặc có thể thay thế bằng giấy viết; có thể sử dụng hệ thống máy tính kết nối mạng để tiến hành động não. - Giáo viên chia nhóm, các nhóm tự chọn nhóm trưởng và thư ký. - Giao vấn đề cho nhóm. - Nhóm trưởng điều hành hoạt động thảo luận chung của cả nhóm trong một thời gian quy định, các ý kiến đều được thư ký ghi nhận, khuyến khích thành viên đưa càng nhiều ý kiến càng tốt. - Cả nhóm cùng lựa chọn giải pháp tối ưu, thu gọn các ý tưởng trùng lặp, xóa những ý không phù hợp, sau cùng thư ký báo cáo kết quả. Trong quá trình thu thập ý kiến, không được phê bình hay nhận xét – cần xác định rõ: Không có câu trả lời nào là sai. Đây là kỹ thuật dễ thực hiện, không mất nhiều thời gian; huy động mọi ý kiến của thành viên, tập trung trí tuệ; do không được phép đánh giá trong quá trình thu thập ý kiến, nên mọi ý kiến đều được ghi nhận, từ đó khuyến khích các thành viên nhóm tham gia hoạt động. Tuy nhiên, khi áp dụng kỹ thuật này dễ gây tình trạng lạc đề nếu chủ đề không rõ ràng; việc lựa chọn các ý kiến tốt nhất có thể sẽ mất thời gian; nếu 9 nhóm trưởng không đủ bản lĩnh sẽ gây ra tình trạng một số thành viên nhóm quá năng động nhưng một số khác không tham gia. 2. Kỹ thuật thảo luận viết – Brainwriting Thảo luận viết (Brain writing) là một biến thể của Động não, tuy nhiên, trong thảo luận viết, từng thành viên trình bày ý kiến của mình trên giấy trước khi gởi kết quả về cho thư ký của nhóm. Mỗi thành viên có giấy và bút riêng để viết ra ý tưởng của mình. -Giáo viên chia nhóm, giao vấn đề cho nhóm. -Quy định thời gian viết cá nhân trước khi thu thập ý kiến. - Sau khi thu thập ý kiến, cả nhóm cùng nhau duyệt toàn bộ, sau đó lựa chọn giải pháp tối ưu để thư ký báo cáo kết quả. Trong quá trình phát triển ý kiến, được phép tham khảo ý kiến của các bạn khác cùng nhóm để phát triển ý tưởng. Kỹ thuật này thu thập được nhiều ý kiến, do người viết cảm thấy không phải “tranh luận” về ý kiến của mình; các ý kiến thường có giá trị cao, do người ta có xu hướng suy nghĩ kỹ trước khi viết ra giấy. Tuy nhiên, cần dành nhiều thời gian cho hai hoạt động: Viết cá nhân và đánh giá toàn bộ ý kiến. 4 . Kỹ thuật XYZ (Còn gọi là kỹ thuật 635) Kỹ thuật XYZ là một kỹ thuật làm việc nhóm nhằm phát huy tính tích cực của mỗi thành viên trong nhóm, trong đó mỗi nhóm có X thành viên, mỗi thành viên cần đưa ra Y ý kiến trong khoảng thời gian Z. Mô hình thông thường mỗi nhóm có 6 thành viên, mỗi thành viên cần đưa ra 3 ý kiến trong khoảng thời gian 5 phút, do vậy, kỹ thuật này còn gọi là kỹ thuật 635. Các thành viên cần chuẩn bị giấy bút. - Giáo viên chia nhóm, giao chủ đề cho nhóm, quy định số lượng ý tưởng và thời gian theo đúng quy tắc XYZ. - Các thành viên trình bày ý kiến của mình, hoặc gởi ý kiến về cho thư ký tổng hợp, sau đó tiến hành đánh giá và lựa chọn. Số lượng thành viên trong nhóm nên tuân thủ đúng quy tắc để tạo tính tương đồng về thời gian, giáo viên quy định thời gian và theo dõi thời gian cụ thể. 5. Kỹ thuật "Bể cá". Kỹ thuật bể cá là một kỹ thuật dùng cho thảo luận nhóm, trong đó một nhóm thành viên ngồi giữa phòng và thảo luận với nhau, còn những thành viên khác ngồi xung quanh ở vòng ngoài theo dõi cuộc thảo luận đó và sau khi kết thúc cuộc thảo luận thì đưa ra những nhận xét về cách ứng xử của những thành 10 viên đang thảo luận.Trong nhóm thảo luận có thể có một vị trí không có người ngồi. Các thành viên tham gia nhóm quan sát có thể thay nhau ngồi vào chỗ đó và đóng góp ý kiến vào cuộc thảo luận, ví dụ đưa ra một câu hỏi đối với nhóm thảo luận hoặc phát biểu ý kiến khi cuộc thảo luận bị chững lại trong nhóm. Cách luyện tập này được gọi là phương pháp thảo luận “bể cá”, vì những người ngồi vòng ngoài có thể quan sát những người thảo luận, tương tự như xem những con cá trong một bể cá cảnh. Trong quá trình thảo luận, những người quan sát và những người thảo luận sẽ thay đổi vai trò với nhau. Một nhóm trung tâm sẽ tiến hành thảo luận chủ đề của giáo viên đưa ra, các thành viên còn lại của lớp sẽ ngồi xung quanh, tập trung quan sát nhóm đang thảo luận. Bảng câu hỏi cho những người quan sát: - Người nói có nhìn vào những người đang nói với mình không? - Họ có nói một cách dễ hiểu không? - Họ có để những người khác nói hay không? - Họ có đưa ra được những ý kiến điểm đáng thuyết phục hay không? - Họ có đề cập đến ý kiến của người nói trước mình không? - Họ có lệch hướng khỏi đề tài hay không? - Họ có tôn trọng những quan điểm khác hay không? Kỹ thuật này vừa giải quyết được vấn đề, vừa phát triển kỹ năng quan sát và giao tiếp của người học. Tuy nhiên cần có không gian tương đối rộng, nhóm trung tâm khi thảo luận cần có thiết bị âm thanh, hoặc cần phải nói to; các thành viên quan sát có xu hướng không tập trung vào chủ đề thảo luận. 11 K W (Những điều đã biết) (Những điều muốn biết) - Football K (Những điều đã học được sau bài học) - - + 11 players - - + outdoor or indoor … … + ball, net - … Tác dụng của việc sử dụng sơ đồ KWL Sử dụng sơ đồ này sẽ giúp cho học sinh xác định nhiệm vụ, động cơ, ý thức, tự giác học tập, biết đánh giá nhìn lại quá trình học tập của mình và tự điều chỉnh cách học. Ví dụ: Sau bài học, học sinh thấy khó khăn khi điền kết quả thu được vào cột “Điều đã học được” có nghĩa là chưa hiểu bài. Việc chưa hiểu bài có thể do chưa thực sự tập trung chú ý hoặc chưa tham gia tích cực vào hoạt động học tập. Điều đó sẽ giúp cho học sinh tự điều chỉnh hoặc cần nghiên cứu lại tài liệu hay cần đề nghị giáo viên hỗ trợ để bổ sung những kiến thức còn thiếu, chưa hiểu hoặc hiểu chưa rõ. Đồng thời qua đó giáo viên cũng đánh giá được kết quả giờ dạy của mình để điều chỉnh cách dạy. 13. Kỹ thuật chia nhóm Khi tổ chức cho HS hoạt động theo nhóm, GV nên sử dụng nhiều cách chia nhóm khác nhau để gây hứng thú cho HS, đồng thời tạo cơ hội cho các em được học hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác nhau trong lớp. Dưới đây là một số cách chia nhóm: 17 Chia nhóm theo số điểm danh, theo các màu sắc, theo các loài hoa, các mùa trong năm,...: - GV yêu cầu HS điểm danh từ 1 đến 4/5/6...(tùy theo số nhóm GV muốn có là 4,5 hay 6 nhóm,...); hoặc điểm danh theo các màu (xanh, đỏ, tím, vàng,...); hoặc điểm danh theo các loài hoa (hồng, lan, huệ, cúc,...); hay điểm danh theo các mùa (xuân, hạ, thu, đông,...) - Yêu cầu các HS có cùng một số điểm danh hoặc cùng một màu/cùng một loài hoa/cùng một mùa sẽ vào cùng một nhóm. Chia nhóm theo hình ghép - GV cắt một số bức hình ra thành 3/4/5... mảnh khác nhau, tùy theo số HS muốn có là 3/4/5... HS trong mỗi nhóm. Lưu ý là số bức hình cần tương ứng với số nhóm mà GV muốn có. - HS bốc ngẫu nhiên mỗi em một mảnh cắt. - HS phải tìm các bạn có các mảnh cắt phù hợp để ghép lại thành một tấm hình hoàn chỉnh. - Những HS có mảnh cắt của cùng một bức hình sẽ tạo thành một nhóm. Chia nhóm theo sở thích GV có thể chia HS thành các nhóm có cùng sở thích để các em có thể cùng thực hiện một công việc yêu thích hoặc biểu đạt kết quả công việc của nhóm dưới các hình thức phù hợp với sở trường của các em. Ví dụ: Nhóm Họa sĩ, Nhóm Nhà thơ, Nhóm Hùng biện,... Chia nhóm theo tháng sinh: Các HS có cùng tháng sinh sẽ làm thành một nhóm. Ngoài ra còn có nhiều cách chia nhóm khác như: nhóm cùng trình độ, nhóm hỗn hợp, nhóm theo giới tính,.... 14. Kỹ thuật “Trình bày một phút” Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho học sinh tổng kết lại kiến thức đã học và đặt những câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc bằng các bài trình bày ngắn gọn và cô đọng với các bạn cùng lớp. Các câu hỏi cũng như các câu trả lời học sinh đưa ra sẽ giúp củng cố quá trình học tập của các em và cho giáo viên thấy được các em đã hiểu vấn đề như thế nào. - Cuối tiết học (thậm chí giữa tiết học), giáo viên yêu cầu học sinh suy nghĩ, trả lời các câu hỏi sau: Điều quan trọng nhất các em học đuợc hôm nay là gì? Theo các em, vấn đề gì là quan trọng nhất mà chưa được giải đáp?... - Học sinh suy nghĩ và viết ra giấy. Các câu hỏi của học sinh có thể dưới nhiều hình thức khác nhau. 18 Điều quan trọng là người học chia sẻ được cả ý tưởng mà mình đã nhận được, thay vì chỉ chia sẻ ý kiến cá nhân.Giáo viên cần làm mẫu hoặc giải thích. Kỹ thuật này dành thời gian suy nghĩ cho phép học sinh phát triển câu trả lời, có thời gian suy nghĩ tốt, học sinh sẽ phát triển được những câu trả lời tốt, biết lắng nghe, tóm tắt ý của bạn cùng nhóm. Tuy nhiên, học sinh dễ dàng trao đổi những nội dung không liên quan đến bài học do giáo viên không thể bao quát hết hoạt động của cả lớp. 9. Bản đồ tư duy (Sơ đồ tư duy) Bản đồ tư duy là một hình thức ghi chép có thể sử dụng màu sắc và hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Nhờ sự kết nối giữa các nhánh, ý tưởng được liên kết, do vậy bao quát được phạm vi sâu rộng. Kỹ thuật sơ đồ tư duy do Tony Buzan đề xuất, xuất phát từ cơ sở sinh lý thần kinh về quá trình tư duy: Não trái đóng vai trò thu thập các dữ liệu mang tính logic như số liệu, não phải đóng vai trò thu thập dữ liệu như hình ảnh, nhịp điệu, màu sắc, hình dạng v.v… Chuẩn bị bảng lớn, hoặc giấy khổ lớn, bút càng nhiều màu càng tốt, có thể sử dụng các phần mềm vẽ sơ đồ tư duy. Giáo viên chia nhóm, giao chủ đề cho nhóm, mỗi thành viên lần lượt kết nối ý tưởng trung tâm đến ý tưởng của cá nhân, mô tả ý tưởng thông qua hình ảnh, biểu tượng hoặc một vài ký tự ngắn gọn. - Có nhiều cách tổ chức thông tin theo sơ đồ: Sơ đồ thứ bậc, sơ đồ mạng, sơ đồ chuỗi v.v. Giáo viên cần để học sinh tự lựa chọn sơ đồ mà các em thích. - Giáo viên cần đưa câu hỏi gợi ý để thành viên nhóm lập sơ đồ. - Khuyến khích sử dụng biểu tượng, ký hiệu, hình ảnh và văn bản tóm tắt. Ví dụ: Ưu điểm của kỹ thuật này là khi vẽ sơ đồ tư duy, học sinh học được quá trình tổ chức thông tin, ý tưởng cũng như giải thích được thông tin và kết nối thông tin với cách hiểu biết của mình. Phù hợp tâm lý học sinh, đơn giản, dễ 14 hiểu; rất thích hợp cho các tiết dạy kĩ năng nói, viết, liên kết lý thuyết với thực tế. 10. Kỹ thuật động não ABC Trước khi yêu cầu học sinh thảo luận về một chủ đề quan trọng, giáo viên nên kích hoạt những kiến thức có sẵn của các em. Một trong những hình thức kích hoạt là sử dụng kỹ thuật động não ABC. Học sinh sẽ nghĩ đến những từ ngữ có liên quan đến chủ đề thảo luận, theo trình tự ABC. Dụng cụ: Giấy bút cho người tham gia. - Đề nghị học sinh liệt kê bảng chữ cái theo hàng dọc từ trên xuống dưới (Hoặc giáo viên in sẵn cho học sinh). - Đề nghị học sinh làm việc cá nhân và điền vào các từ có liên quan đến chủ đề cần thảo luận, sau khi làm việc cá nhân, học sinh làm việc nhóm đôi và chia sẻ lẫn nhau các từ các em tìm được, cố gắng hoàn tất cả bảng chữ cái. Chủ đề cần rộng để học sinh suy nghĩ.Khuyến khích học sinh hoàn thành tất cả bảng chữ cái bằng cách chia sẻ nhóm đôi hoặc nhóm nhỏ. Kỹ thuật này giúp học sinh động não kiến thức các em đã có về chủ đề sắp được học. Tuy nhiên không thể sử dụng với những chủ đề quá mới mẻ với học sinh. 11. Kỹ thuật Kipling (5W1H) Rudyard Kipling (1865 – 1936) là nhà thơ, nhà văn Anh nổi tiếng, tác giả quyển sách “Cậu bé rừng xanh” và rất nhiều bài thơ hay. Ông từng viết 4 câu thơ: I have six honest serving men They taught me all I knew I call them What and Where and When And How and Why and Who Kỹ thuật này thường được dùng cho các trường hợp khi cần có thêm ý tưởng mới, hoặc xem xét nhiều khía cạnh của vấn đề, chọn lựa ý tưởng để phát triển. Các câu hỏi được đưa ra theo thứ tự ngẫu nhiên hoặc theo một trật tự định ngầm trước, với các từ khóa: Cái gì, Ở đâu, Khi nào, Thế nào, Tại sao, Ai. 15 GV cần định hướng các câu hỏi cần ngắn gọn, đi thẳng vào chủ đề. Các câu hỏi cần bám sát vào hệ thống từ khóa 5W1H (What, where, when, who, why, how). Sử dụng kỹ thuật này không mất thời gian, mang tính logic cao. Có thể áp dụng cho nhiều tình huống khác nhau. Có thể áp dụng cho cá nhân. Tuy nhiên ít có sự phối hợp của các thành viên. Dễ dẫn đến tình trạng “9 người 10 ý”. Dễ tạo cảm giác “Bị điều tra”. 12. Kỹ thuật KWL KWL do Donna Ogle giới thiệu năm 1986, vốn là một hình thức tổ chức dạy học hoạt động đọc hiểu. Học sinh bắt đầu bằng việc động não tất cả những gì các em đã biết về chủ đề bài đọc. Thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột K của biểu đồ. Sau đó học sinh nêu lên danh sách các câu hỏi về những điều các em muốn biết thêm trong chủ đề này. Những câu hỏi đó sẽ được ghi nhận vào cột W của biểu đồ. Trong quá trình đọc hoặc sau khi đọc xong, các em sẽ tự trả lời cho các câu hỏi ở cột W, các thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột L. + K (Know) – những điều đã biết + W (Want to Know) – Những điều muốn biết + L (Learned) - những điều đã được học. Sau khi giới thiệu bài học,mục tiêu cần đạt của bài học, giáo viên phát phiếu học tập KWL. Kĩ thuật này có thể thực hiện cho cá nhân hoăc cho nhóm học sinh. Ví dụ: Khi học bài về my favourite sports and games Yêu cầu học sinh viết vào cột K những môn thể thao mà các em đã biết (tên, số người chơi, địa điểm chơi, luật chơi….). Sau đó viết vào cột W những gì các em muốn biết môn thể thao các em chưa biết, có thể cho phép học sinh sử dụng tiếng Việt. Sau khi kết thúc bài học hoặc chủ đề, học sinh điền vào cột L của phiếu những gì vừa học được. Lúc này, học sinh xác nhận về những điều các em đã học được qua bài học đối chiếu với điều muốn biết, đã biết để đánh giá được kết quả học tập, sự tiến bộ của mình qua giờ học. 16 K W (Những điều đã biết) (Những điều muốn biết) - Football K (Những điều đã học được sau bài học) - - + 11 players - - + outdoor or indoor … … + ball, net - … Tác dụng của việc sử dụng sơ đồ KWL Sử dụng sơ đồ này sẽ giúp cho học sinh xác định nhiệm vụ, động cơ, ý thức, tự giác học tập, biết đánh giá nhìn lại quá trình học tập của mình và tự điều chỉnh cách học. Ví dụ: Sau bài học, học sinh thấy khó khăn khi điền kết quả thu được vào cột “Điều đã học được” có nghĩa là chưa hiểu bài. Việc chưa hiểu bài có thể do chưa thực sự tập trung chú ý hoặc chưa tham gia tích cực vào hoạt động học tập. Điều đó sẽ giúp cho học sinh tự điều chỉnh hoặc cần nghiên cứu lại tài liệu hay cần đề nghị giáo viên hỗ trợ để bổ sung những kiến thức còn thiếu, chưa hiểu hoặc hiểu chưa rõ. Đồng thời qua đó giáo viên cũng đánh giá được kết quả giờ dạy của mình để điều chỉnh cách dạy. 13. Kỹ thuật chia nhóm Khi tổ chức cho HS hoạt động theo nhóm, GV nên sử dụng nhiều cách chia nhóm khác nhau để gây hứng thú cho HS, đồng thời tạo cơ hội cho các em được học hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác nhau trong lớp. Dưới đây là một số cách chia nhóm: 17 Tóm lại, nếu được thiết kế khéo léo GV vẫn có thể tạo được những bài tập ứng dụng vừa bám sát nội dung bài học, phục vụ tối đa cho mục tiêu bài học vừa tạo cơ hội để học sinh làm quen với cách thức sử dụng ngôn ngữ trong những tình huống có tính chất nghề nghiệp mà có thể các em sẽ gặp trong tương lai. Sau đây, người viết sẽ trình bày một ví dụ minh họa: Bài tập: Em tập làm phóng viên – Cách thức tiến hành: 1. Chọn một sự kiện xã hội xảy ra gần đây nhất được tất cả học sinh trong lớp quan tâm (VD: Ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng sẽ đến Quảng Bình thăm trường ta tuần sau để ủng hộ bão lụt) 2. Yêu cầu mỗi em đặt một tiêu đề ngắn gọn nói về sự kiện đó và hi vọng có thể tìm thấy tiêu đề ấy trên những tờ nhật báo (Mr Dam and the meaningful visit to Quang Binh, Mr Dam’s visit at Dong Phu Primary School…..) 3. Cho học sinh dán tất cả các tiêu đề các em viết được lên bảng. 4. Học sinh làm việc theo nhóm chuẩn bị các câu hỏi sẽ phỏng vấn người nổi tiếng (How are you? How do you travel to QB? Why do you want to come to QB?....) 5. Tiếp theo, cả lớp sẽ tổ chức một buổi gặp gữ người nổi tiếng, Bài tập tình huống, hoạt động ứng dụng có ý nghĩa rất tích cực trong quá trình thực hành của các giờ học ngoại ngữ. Nguyên nhân chính là vì lý thuyết hoạt động lời nói đòi hỏi các hành động nói phải luôn luôn được vận dụng trong các tình huống giao tiếp, nếu không thực hiện được điều ấy, hành động nói sẽ tự cô lập mình, tự thủ tiêu toàn bộ ý nghĩa sinh động vốn có của mình và trở thành giả tạo. Do đó, khó khăn lớn nhất của việc phát triển năng lực ngoại ngữ cho học sinh là tình trạng giờ học tách rời tính giao tiếp tự nhiên của lời nói. Vì vậy, sử dụng bài tập tình huống trong dạy học tiếng Anh có thể nói là cách thức hữu hiệu nhất để rèn luyện năng lực sử dụng ngôn ngữ cho học sinh, giúp các em ứng dụng những kiến thức đã học vào thực tế giao tiếp, đồng thời đem đến hứng thú học tậpcho học sin, tạo nên sự sinh động, sôi nổi và hấp dẫn cho các giờ học ngoại ngữ. 2. Thực tế thiết kế các hoạt động dạy học, hoạt động ứng dụng, cách thức tổ chức dạy học của giáo viên tiếng Anh nhằm phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh. Trong những năm qua, song song với việc đổi mới công tác quản lý, Sở đã tập trung chỉ đạo đổi mới hình thức tổ chức dạy học, học sinh ngồi học theo nhóm, có nhóm trưởng luân phiên điều hành, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, tạo cho các em nhiều cơ hội nói, giao tiếp tiếng Anh, qua đó phát 26 triển kĩ năng Nghe- Nói một cách hiệu quả. Phương pháp “Dạy mà không dạy” được giáo viên áp dụng rất hiệu quả trong các giờ tiếng Anh. Nhiều giáo viên lên lớp không chỉ dạy đơn thuần, mà luôn cố gắng xây dựng nhiều tình huống học tập có vấn đề, tạo sân chơi đa dạng, nhiều màu sắc bằng tiếng Anh cho học sinh. Từ đó, hướng dẫn học sinh tự làm chủ sân chơi và từng bước tự bổ sung các hoạt động khác nhau. Tuy nhiên vẫn còn nhiều giáo viên chưa thực sự tâm huyết với việc thiết kế, tổ chức các hoạt động hiệu quả nhằm tăng kĩ năng giao tiếp, khả năng ứng dụng vào thực tiễn cho học sinh. Không ít những tiết dạy GV chủ yếu yêu cầu học sinh thực hành các bài tập trong sách giáo khoa là hết nhiệm vụ. GV chưa thực sự đầu tư nhiều thời gian trong việc lựa chọn nội dung, hình thức, phương pháp dạy. Hình thức dạy học còn nghèo nàn, chưa phong phú, chưa hấp dẫn, chưa tạo cho học sinh thích học và say mê học, chưa giúp học sinh rèn các kĩ năng, phát triển năng lực, đặc biệt là năng lực giao tiếp. Các kế hoạch dạy học, giáo án của nhiều giáo viên còn sơ sài, chưa thống nhất từ mục tiêu bài học cho đến các hoạt động dạy học, thiếu các bài tập tình huống, hoạt động ứng dụng nhằm tạo cơ hội giao tiếp cho học sinh. Dưới đây là giáo án của một giáo viên dạy Tiếng Anh 3 Week 19 Period 71 UNIT 11: THIS IS MY FAMILY Lesson 1: Part 1,2,3 Nội dung bài soạn II. Objectives: By the end of this unit, Ss can: - use the words and phrases related to the topic My family. - ask and answer questions about family members, using Who’s that? He’s/She’s + (family member). - ask and answer about the age of a family member, using How old is your + (family member)? - pronounce the sounds of the letters br and gr in the words brother and grandmother respectively. III. Teachinh method: - Communicative method 27
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan