Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tác động của đặc điểm giám đốc điều hành đến chất lượng báo cáo tài chính của cá...

Tài liệu Tác động của đặc điểm giám đốc điều hành đến chất lượng báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố hồ chí minh

.PDF
77
6
107

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ---------------------------- LÊ THỊ MẾN TÁC ĐỘNG CỦA ĐẶC ĐIỂM GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH ĐẾN CHẤT LƯỢNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành : KẾ TOÁN Mã số : 60.34.03.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VÕ VĂN NHỊ TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2016 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Vai trò to lớn của báo cáo tài chính là cung cấp những thông tin tài chính ra bên ngoài một cách kịp thời và hợp lý (Bolo và Hosseini 2007; Salehi và Azary, 2008). Chất lượng báo cáo tài chính ảnh hưởng nhiều tới các quyết định chiến lược của nhà quản trị, và đặc biệt của các nhà đầu tư. Các học giả như Bushman và Smith (2001), Healy và Palepu (2001), Biddle và Hilary (2006),… đều cho rằng một báo cáo tài chính có chất lượng cao sẽ làm gia tăng đầu tư hiệu quả. Như vậy có thể thấy chất lượng báo cáo tài chính của mỗi doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp đại chúng luôn là mối quan tâm hàng đầu của không chỉ trong nội bộ doanh nghiệp mà còn của các đối tượng bên ngoài như nhà đầu tư, các nhà nghiên cứu. Không thiếu các hướng dẫn, những quy đinh về việc lập và trình bày báo cáo tài chính. Cũng không khó để có thể hiều và thực hiện các hướng dẫn về việc lập và trình bày báo cáo tài chính. Nhưng vẫn còn tồn tại những trường hợp lỗ giả lãi thật hoạc lãi giả lỗ thật. Không hẳn vì trình độ của kế toán viên, kiểm toán viên có hạn, không phải vì quản trị công ty kém. Mà đơn giản vì mục đích tư lợi của bản thân các giám đốc điều hành, họ chỉ định phải như thế, họ “phù phép” cho báo cáo tài chính theo ý của họ,… Các chuẩn mực kế toán và chính sách kế toán hay pháp luật nói chung cũng có thể chỉ quản lý về mặt hành chính. Các vụ sụp đổ của các tập đoàn đa quốc gia như Enron, Woldcom,.. làm dấy lên lo ngại về chất lượng báo cáo tài chính. Vấn đề đặt ra không phải báo cáo đó có được kiểm toán hay không, báo cáo đó có được lập bởi những người có chuyên môn nghiệp vụ giỏi hay không, … mà là vấn đề đạo đức. Cần thiết và cấp thiết rằng kế toán hành vi phải quan tâm hơn đặc biệt là đặc điểm dẫn đến hành vi của các tổng giám đốc điều 2 hành (CEO). Chính vì vậy, luận văn hướng đến đề tài nghiên cứu: Tác động của đặc điểm CEO đến chất lượng báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh”. 2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát của luận văn là đo lường sự tác động của các đặc điểm CEO chất lượng BCTC, qua đó kiến nghị những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng BCTC. Cụ thể, luận văn thực hiện nhằm đạt đến ba mục tiêu: Luân văn hướng đến 2 mục tiêu chính: Thứ nhất, đo lường sự tác động của đặc điểm CEO đến chất lượng báo cáo tài chính; Thứ hai, đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng đặc điểm CEO đến chất lượng báo cáo tài chính. Thứ ba, kiến nghị những giải pháp phù hợp từ kết quả nghiên cứu 3. Câu hỏi nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nghiên cứu như đã giới thiệu ở trên, câu hỏi nghiên cứu được đặt ra là: Câu hỏi 1: Đặc điểm của CEO có thực sự tác động tới chất lượng báo cáo tài chính hay không? Câu hỏi 2: Mức độ tác động của từng đặc điểm như thế nào? Câu hỏi 3: Những giải pháp nào được đưa ra để góp phần nâng cao chất lượng BCTC? 3 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu trong luận văn là sự tác động của đặc điểm CEO đến chất lượng báo cáo tài chính Phạm vi nghiên cứu Các dữ liệu nghiên cứu được lấy từ báo cáo thường niên và báo cáo tài chính của các công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2014 và 2015. Mẫu nghiên cứu không bao gồm các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính như: ngân hàng, bảo hiểm, các quỹ đầu tư và các công ty chứng khoán. 5. Phương pháp nghiên cứu Trước tiên, luận văn sẽ sử dụng phương pháp định tính: tiến hành lược khảo các lý thuyết liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Sau đó, với phương pháp định lượng: luận văn khảo sát chất lượng thông tin thông qua việc xây dựng thang đo. Ngoài ra, luận văn sử dụng phương pháp thống kê và phương pháp ước lượng mô hình hồi quy thích hợp nhằm đo lường tác động của đặc điểm CEO đến chất lượng báo cáo tài chính. Trong mô hình nghiên cứu, biến phụ thuộc được xác định là chất lượng báo cáo tài chính. Và biến độc lập được xác định là đặc điểm của CEO bao gồm: độ tuổi CEO, giới tính, nhiệm kỳ công tác, quyền kiêm nhiệm, giới tính, tỷ lệ sở hữu và trình độ học vấn của CEO. 6. Đóng góp của nghiên cứu Như mục tiêu nghiên cứu đã trình bày, trước nhất nghiên cứu bổ sung thêm vào hàng loạt các nghiên cứu trước đây về vấn đề kế toán hành vi, về đặc điểm của nhà quản lý mà cụ thể là tổng giám đốc điều hành ảnh hưởng tới chất lượng báo cáo tài chính như thế nào. Qua đó, cũng cung cấp thêm những cơ sở khoa học giúp các đối 4 tượng sử dụng báo cáo tài chính có thể đánh giá được chất lượng báo cáo tài chính của doanh nghiệp. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, luận văn bao gồm 5 chương, cụ thể: Chương 1: Tổng quan nghiên cứu Chương 2: Cơ sở lý thuyết Chương 3: Phương pháp nghiên cứu Chương 4: Kết quả nghiên cứu và bàn luận Chương 5: Kết luận và kiến nghị Tài liệu tham khảo Phụ lục 5 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU 1.1 Các nghiên cứu thực nghiệm về sự tác động của đặc điểm CEO và chất lượng báo cáo tài chính trên thế giới Hambrick và Mason (1984) lập luận rằng đặc điểm nhân khẩu học như kinh nghiệm, độ tuổi, giới tính và sở hữu ảnh hưởng đến giá trị và cơ sở nhận thức của CEO và làm cho họ có những sự lựa chọn khác nhau, đặc biệt là trong những tình huống phức tạp, cuối cùng cho ra những kết quả kinh doanh khác nhau. 1.1.1 Tác động của độ tuổi đến chất lượng báo cáo tài chính Nghiên cứu về mối quan hệ này còn khá ít các nghiên cứu thực nghiệm. Dù vậy, một nghiên cứu của Hua-Wei Huang và Ena Rose-Green (2012) cho thấy có mối quan hệ giữa tuổi của CEO đến chất lượng báo cáo tài chính. Sử dụng một mẫu gồm 3413 doanh nghiệp trong giai đoạn 2005 – 2008. Chất lượng báo cáo tài chính được đo lường thông qua hai công cụ: Thứ nhất là Bảng phân tích dự báo của các chuyên gia (dữ liệu dự báo I/B/E/S - Institutional Brokers' Estimate System, được thành lập bởi công ty môi giới New York Lynch, Jones & Ryan và công ty liên doanhTechnometrics); Thứ hai là Báo cáo tài chính được trình bày lại – Financial restatement. Các tác giả đã tìm thấy được mối quan hệ cùng chiều giữa độ tuổi CEO và chất lượng báo cáo tài chính. 1.2.2 Tác động của nhiệm kỳ đến chất lượng báo cáo tài chính Theo tác giả Hill và Phan (1991) cho rằng khi nhiệm kỳ CEO tăng thì mức rủi ro doanh nghiệp tăng cao và lợi nhuận của cổ đông sẽ giảm. Ngoài ra, các CEO còn lựa chọn kế toán để phóng đại thu nhập trong những năm tài chính họ nắm quyền để làm tăng khoản thù lao của họ (Kalyta, 2009). 6 Tuy nhiên, sử dụng mô hình hôi quy đa biến mẫu, Keehwan Kim và Joon Sun Yang (2014) cho thấy rằng nhiệm kỳ của ban giám đốc có tác động tích cực đền chất lượng báo cáo tài chính. Các tác giả sử dụng ba mô hình đại diện cho chất lượng báo cáo: + Thứ nhất, sử dụng giá trị tuyệt đối của các khoản trích trước tùy ý được sử dụng phổ biến trong quản trị lợi nhuận được sửa đổi bởi Dechow(1995). Kết quả là, nhiệm kỳ của giám đốc có mối quan hệ tiêu cực với giá trị tuyệt đối của các khoản trích trước tùy ý, CEO có nhiệm kỳ dài thì giá trị tuyệt đối các khoản trích trước sẽ ít hơn. Điều này có nghĩa rằng, tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa chất lượng các khoản trích trước (chất lượng dồn tích) và nhiệm kỳ. + Thứ hai, sử dụng mô hình lợi nhuận bền vững: giả định rằng những công ty có lợi nhuận bền vững thì chất lượng sẽ cao hơn so với những công ty có lợi nhuận không bền vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhiệm kỳ của ban giám đốc tăng đồng nghĩa với việc tăng tính bền vững cho lợi nhuận. + Thứ ba, mô hình ERC - earnings response coefficient (hệ số phản ứng thu nhập): Căn cứ vào phản ứng của thị trường thông qua lợi nhuận cổ phiếu. Ở mô hình này, Kim và Yang (2014) cũng cho thấy mối quan hệ giữa nhiệm kỳ của giám đốc có mối quan hệ tích cực với lợi nhuận cổ phiếu, đồng thời tác giả cũng cho thấy việc thay đổi trong lợi nhuận của công ty và lợi nhuận cổ phiếu cũng có mối quan hệ tích cực. Tóm lại, nhiệm kỳ dài của giám đốc làm tăng hệ số phản ứng thu nhập của thị trường. 1.2.3 Tác động của quyền kiêm nhiệm đến chất lượng báo cáo tài chính Ở khía cạnh này, Dechow et al. (1996) cho thấy nếu có sự kiêm nhiệm Giám đốc điều hành Chủ tịch sẽ làm tăng khả năng vi phạm các nguyên tắc kế toán trong các doanh nghiệp Mỹ. Biến báo cáo tài chính được đo lường thông qua: Khoản lợi nhuận trích trước. Byard et al. (2006) cho rằng sự hiện diện của một CEO cũng là chủ tịch hội đồng quản trị có liên quan với chất lượng kém của các thông tin tài chính. Tương tự như vậy, Beekes và các tác giả. (2004); Firth và các tác giả. (2007) báo cáo rằng các báo cáo tài 7 chính là phù hợp hơn trong trường hợp tách các vị trí của Giám đốc điều hành và chủ tịch hội đồng quản trị cho các doanh nghiệp Anh và Trung Quốc. Tuy nhiên, các tác giả khác đã không phát hiện đáng kể mối liên hệ giữa chế độ nhị nguyên và chất lượng thông tin trong các bối cảnh khác nhau của nghiên cứu. Như nghiên cứu của Ahmed et al. (2006) tại các doanh nghiệp ở New Zealand cho năm tài chính 1991-1997. Tương tự là kết quả của Bradbury et al. (2006) nghiên cứu 139 doanh nghiệp Singapore và 113 doanh nghiệp Malaisia được niêm yết trên sàn Kuala Lumpur cho năm tài chính 2000. Kết quả nghiên cứu của Petra (2007) cũng cho kết quả tương tự là không tìm được mối tương quan. 1.2.4 Tác động của giới tính đến chất lượng báo cáo tài chính Với 2.938 doanh nghiệp Mỹ cho năm tài chính 2006, Barua và các tác giả (2010) báo cáo về mối quan hệ giữa giới tính của các CFO và chất lượng dồn tích (accurals quality). Họ tìm thấy bằng chứng cho thấy rằng những công ty có CFO là nữ sẽ có chất lượng dồn tích cao hơn và rủi ro có sai sót khi đánh giá, ước tính các khoản trích trước là thấp hơn so với những công ty có CFO là nam giới. Tương tự, Srinidhi, Tsui (2011) và Krishnan và Parson (2008) chỉ ra rằng sự đa dạng giới tính có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng lợi nhuận. 1.2.5 Tác động của tỷ lệ sở hữu đến chất lượng báo cáo tài chính Soongsoo (Sam) Han (2004) thu thập dữ liệu là tỷ lệ sở hữu vốn được lấy từ cơ sở dữ liệu Compact Disclosure trong giai đoạn từ năm 1997-2001. Nghiên cứu này điều tra các mối quan hệ giữa các hình thức sở hữu chứng khoán và chất lượng các báo cáo tài chính của một công ty, được đo bằng độ lớn của khoản trích trước tùy ý và các bản đồ của các khoản trích trước của dòng tiền và mức độ công bố thông tin. Tác giả cho thấy thấy quyền sở hữu chứng khoán của nhà quản lý có liên quan đến tiêu cực với chất lượng báo cáo và mức độ công bố thông tin. 8 Fan, J. & Wong, J. (2002) nghiên cứu mối quan hệ về cấu trúc sở hữu với chất lượng thông tin kế toán ở bảy nền kinh tế Đông Á trừ Nhật Bản gồm 282 doanh nghiệp Hong Kong, 91 doanh nghiệp Indonesia, 177 doanh nghiệp Malaysia, 133 doanh nghiệp Singapore, 95 doanh nghiệp Hàn Quốc, 66 doanh nghiệp Đài Loan và , 133 doanh nghiệp Thái Lan. Kết quả cho thấy tỷ lệ sở hữu cao đồng nghĩa với việc chất lượng thông tin kế toán thấp. Điều này được giải thích là tỷ lệ sở hữu cao thì cơ hội để một cá nhân đó thao túng doanh nghiệp và can thiệp vào báo cáo tài chính theo hướng có lợi cho họ sẽ cao. Đồng nghĩa với việc thông tin kế toán có thể bị bóp méo. 1.2.6 Tác động của trình độ học vấn đến chất lượng báo cáo tài chính Mặc dù không có nhiều nghiên cứu thực nghiệm tập trung vào trình độ học vấn của các CEO. Nhưng đây là một trong những đặc điểm quan trọng, góp phần nâng cao năng lực quản lý của nhà quản trị. Cá nhà nghiên cứu tài chính đã tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa năng lực quản lý và hiệu quả hoạt động công ty (Dunphy, Turner và Crawford, 1997; Ljungquist, 2007). Darmadi (2011) phát hiện ra rằng các thành viên Ban giám đốc tốt nghiệp sau đại học có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động công ty. Tuy nhiên, trái ngược với quan điểm đó, một nghiên cứu của Bathula (2008) trên 61 công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoáng New Zealand giai đoạn 2004-2007 cho rằng có mối quan hệ ngược chiều giữa thành viên có bằng tiến sỹ với hiệu quả hoạt động công ty. Bathula (2008) nhận định, kỹ năng nghiên cứu và phân tích thật sự là cần thiết cho công ty nhưng không nhất thiết là phải có một chất lượng học thuật cao như vậy, điều này không mang lại bất kỳ giá trị nào cho hiệu quả hoạt động công ty. 1.2.7 Tác động của thu nhập và chất lượng báo cáo tài chính Một cách tổng quát thu nhập của CEO bao gồm lương, thưởng, quyền chọn cổ phiếu, các lợi ích dài hạn khác (Cheng và Farber ,2008). Dựa trên việc phân tích dữ liệu của 9 289 công ty phải công bố lại báo cáo tài chính giai đoạn 1997-2001, tác giả đã cho thấy việc giảm thu nhập của CEO sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động doanh nghiệp. Laux và Laux (2009) cho rằng việc tăng thu nhập của CEO thông qua cổ phiếu tức là khuyến khích CEO sở hữu cổ phần tại doanh nghiệp xem ra không cần thiết để nâng cao vấn đề quản trị lợi nhuận. Armstrong và ctg (2010) nghiên cứu mối quan hệ giữa việc nắm giữ cổ phiếu và thù lao của CEO với việc thao tác can thiệp vào báo cáo tài chính. Họ tìm thấy rằng ở những doanh nghiệp CEO có sở hữu cổ phần thì việc vi phạm nguyên tắc kế toán ít xảy ra hơn. Bảng 1.1: Bảng tóm tắt các nghiên cứu trước đây về sự tác động của đặc điểm CEO đến chất lượng báo cáo tài chính: Tác giả Biến đo lường Công cụ đo lường chất lượng đặc điểm báo cáo tài chính Kết quả CEO Huang và Độ tuổi + Bảng phân tích của công ty môi Mối quan Green giới (Dữ liệu dự báo I/B/E/S) hệ cùng (2012) + Công bố lại BCTC chiều K. Kim và Nhiệm kỳ Sử dụng 3 mô hình: Mối J.S. Yang + Mô hình dồn tích (Dựa trên Mô hệ tích cực (2014) hình Dechow et al , 1995): TA i,t = β 0 +β 1 (1/A i,t-1 )+ β 2 (ΔRev i,t - ΔAR i,t + β 3 PPE i,t +ε i,t TA: Tổng các khoản trích trước được tính bằng chênh lệch giữa thu nhập trước các khoản bất thường với dòng tiền A : Tổng tài sản ; ΔAR : Sự thay đổi trong khoản phải quan 10 thu ; ΔRev : Sự thay đổi của doanh thu ; PPE : tài sản, nhà máy và thiết bị ròng. + Mô hình lợi nhuận bền vững: Sử dụng giá trị lùi của ROA hiện hành (ROA) bằng lợi nhuận thuần trên tổng tài sản của ROA kỳ trước (lagROA) để ước tính lợi nhuận bền vững : ROA t = lợi nhuận của năm t/tổng tài sản năm trước (lagged total assets); lag ROA=lợi nhuận thuần của năm t-1/tổng tài sản của năm trước (lagged total assets) + Mô hình ERC - earnings response coefficient (hệ số phản ứng thu nhập): Mối liên hệ giữa Lợi nhuận cổ phiếu trong sự thay đổi của lợi nhuận thuần hàng năm Dechow et Quyền al. (1996), Byard et al. (2006), Firth và nhiệm kiêm + Các khoản trích trước:(accruals) Mối quan = ΔCA - ΔCL - ΔCash + ΔSTD – Dep. hệ tiêu cực Trong đó: ACA = sự thay đổi trong tài sản ngắn hạn; ACL = sự thay đổi trong nợ phải trả các tác giả. ngắn hạn; (2007) ACash = sự thay đổi trong tiền và các 11 khoản tương đương tiền; ASTD = sự thay đổi trong các khoản nợ bao gồm nợ phải trả ngắn hạn; Dep = Chi phí khấu hao. + Ý kiến kiểm toán Ahmed et Quyền al., 2006; kiêm + Chất lượng lợi nhuận: Chất Không có nhiệm lượng khoản trích trước mối Bradbury (Accrual) : trích trước vốn lưu hệ et động : al., 2006; Petra WCA t = (ΔCA t - ΔCL t -ΔCash/TA t-1 ) 2007 WCA t: : Trích trước vốn lưu động trong quan năm t; ΔCA t : Sự thay đổi trong tài sản ngắn hạn trong năm t; ΔCL t : Sự thay đổi trong nợ ngắn hạn trong năm t; ΔCash: Sự thay đổi tiền trong năm t; TA t-1 : Tổng tài sản trong năm t-1 Barua và Giới tính các tác giả + Mô hình dồn tích (Mô hình Mối Dechow et al. 1995) quan hệ tích cực (2010) Srinidhi, Tsui (2011); Krishnan và Parson (2008) Sam Han Tỷ lệ sở hữu + Mô hình chất lượng lợi nhuận – Mối quan 12 trích trước tùy ý (Theo mô hình hệ (2004) của Dechow và Dichev, 2002). trái chiều giữa +Mức độ công bố thông tin: dựa tỷ lệ sở trên chỉ số minh bạch và công hữu của khai T&D của Standard and nhà quản Poor's tại Hoa Kỳ (The Standard lý với chất and Poor’s Transparency and lượng Disclosure thông tin kế toán Fan, J. & + Thông tin kế toán hữu ích đo Mối Wong, lường thông qua lợi nhuận cổ hệ J. phiếu (2002) trái chiều nhà Trình độ học Các nhà nghiên cứu tài chính Mối Các quan quan nghiên cứu vấn nghiên cứu mối quan hệ giữa trình hệ tài độ học vấn của nhà quản lý với chiều(Dun chính: Dunphy, hiệu quả hoạt động công ty thông phy, Turner và qua chỉ số tobin’Q, ROE. cùng Turner và Crawford, Crawford, 1997; 1997; Ljungquist, Ljungquist, 2007. 2007; Darmadi Darmadi, (2011); 2011) và Bathula không có (2008) mối hệ quan 13 (Bathula ,2008) Laux và Trả thu nhập + Quản trị lợi nhuận Không có Laux trên cơ sở cổ mối (2009), phiếu hệ quan Cheng và + Nguyên tắc kế toán Farber Mối quan (2008) hệ tích cực Armstrong Ít vi phạm và nguyên tắc ctg (2010) kế toán hơn Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các nghiên cứu trước đây 1.2 Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của đặc điểm CEO đến chất lượng báo cáo tài chính tại Việt Nam Tại Việt Nam, theo tìm hiểu của tác giả thì chưa có một nghiên cứu nào nói về mối quan hệ giữa đặc điểm CEO và chất lượng báo cáo tài chính. Có chăng là mối quan hệ giữa đặc điểm Hội đồng quản trị với chất lượng báo cáo tài chính như luận án tiến sỹ của Nguyễn Trọng Nguyên (2015), và luận văn thạc sỹ của Đoàn Thị Mỹ Thương (2015). Ngoài ra, nếu chỉ xét đến việc đo lường chất lượng báo cáo tài chính thì luận văn thạc sỹ của các tác giả như Mai Hoàng Hạnh (2014), Trương Ngọc Quỳnh Trang (2014), Nguyễn Công Tiến (2014) cũng kế thừa cách đo lường của các học giả trên thế giới đó là sử dụng mô hình chi phí trích trước và chất lượng trích trước được phát triển bởi Dechow and Dichev (2002). 14 1.3 Nhận xét chung và khe hổng nghiên cứu Từ các nghiên cứu trước đây cho thấy các tác giả thường sử dụng mô hình dồn tích để đo lường cho chất lượng báo cáo tài chính. Phương pháp này có nhược điểm là chỉ tập trung vào chất lượng lợi nhuận, mặt khác lại khó đo lường các khoản trích trước. Mặt khác, khi đo lường về sự tác động của đặc điểm CEO đến chất lượng báo cáo tài chính tại Việt Nam thì chưa có một nghiên cứu nào về mối quan hệ này và ngay cả trên thế giới cũng còn rất ít và cũng chưa thật đầy đủ, chỉ dừng lại đơn lẻ ở một vài đăc điểm của CEO như hoặc độ tuổi hoặc giới tính, hoặc thu nhập. Mà chưa có nghiên cứu toàn diện về đặc điểm của CEO tác động tới chất lượng báo cáo tài chính như thế nào. Như vậy có thể thấy dường như rất ít tác giả tập trung vào mối quan hệ giữa đặc điểm của CEO và chất lượng báo cáo tài chính, nếu có thì cũng chưa thật đầy đủ về đặc điểm của CEO. Hơn nữa, về phương pháp đo lường chất lượng báo cáo tài chính cũng lộ rõ những nhược điểm. Chính vì vậy mà luận văn hướng đến đo lường đặc điểm của CEO với chất lượng báo cáo tài chính với một cách đo lường được xem là có nhiều ưu điểm đó là hướng về đo lường đặc tính chất lượng báo cáo tài chính (Theo F.v.Beest, G.Bram, S. Boelens ,2009). Và đặc điểm của CEO cũng được xem xét một cách toàn diện hơn bao gồm các đặc điểm như: độ tuổi, nhiệm kỳ, giới tính, quyền kiêm nhiệm, tỷ lệ sở hữu và thu nhập. 15 CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT 2.1 Vai trò của CEO CEO là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, đóng vai trò là người chịu trách nhiệm cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là người thừa hành đại diện cho chủ doanh nghiệp trong các nhệm vụ, quyết định có liên quan (Theo lý thuyết người đại diện và lý thuyết quản trị). CEO cũng là người đóng vai trò chiến lược là người quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp với các bên liên quan, thực thi các chiến lược (Theo lý thuyết quản trị và lý thuyết các bên liên quan). Mintzberg (1973) nghiên cứu các họat động của nhà quản trị và cho rằng mỗi nhà quản trị đều phải thực hiện 10 vai trò khác nhau và được phân thành 3 nhóm: Nhóm vai trò quan hệ với con người, Nhóm vai trò thông tin và Nhóm vai trò quyết định. Bảng 2.1: Vai trò của CEO (Mintzberg,1973) Nhóm vai trò Nhóm quan hệ với con thông tin người 1.Vai trò đại diện Tham gia vào các sự kiện khác nhau: phát biểu, giới thiệu, tượng trưng cho tổ chức 2.Lãnh đạo Xây dựng mối quan hệ với cấp dưới, động viên, thúc đẩy vai trò Nhóm vai quyết định trò 16 nhân viên 3.Liên hệ Duy trì mối quan hệ mạng lưới làm việc nội bộvới bên ngoài và giúp cung cấp thông tin 4.Giám sát Giám sát thông tin bên trong và bên ngoài về những vấn đề có thể ảnh hưởng tổ chức 5.Truyền đạt Truyền đạt những thông tin cả bên trong và bên ngoài cho nội bộ 6.Phát ngôn Truyền đạt những thông tin của tổ chức cho bên ngoài 7.Doanh nhân Hành động như người khởi xướng, thiết khích kế, khuyến những cải tiến và đổi mới 8.Giải quyết những Có những hành xung đột động đúng và kịp thời khi DN đối mặt với những vấn đề 17 quan trọng những khó khăn bất ngờ. 9.Phân phối Chịu trách nhiệm phân phối các nguồn lực: thời ngân quỹ, gian, phương tiện, nhân sự 10.Đàm phán Đại diện cho tổ chức thương lượng, đàm phán Nguồn: Mintzberg,1973 2.2 Chất lượng Báo cáo tài chính 2.2.1 Khái niệm báo cáo tài chính Báo cáo tài chính (Financial statements) là sản phẩm của kế toán tài chính, là đầu ra của hệ thống thông tin kế toán, phản ánh theo một cấu trúc chặt chẽ tình hình tài chính, kết quả tài chính của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính cung cấp các thông tin về tình hình tài chính, kết quả tài chính và các luồng tiền của doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu của số đông những người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế, nó cũng cho thấy kết quả quản lý của ban giám đốc đối với các nguồn lực được giao phó cho họ (IASB, 2012). 2.2.2 Khái niệm chất lượng Chất lượng là một khái niệm phức tạp và chỉ mang tính chất tương đối. Có nhiều quan điểm khác nhau về chất lượng. Chất lượng là sự phù hợp với nhu cầu, chất lượng là sự phù hợp với các yêu cầu hay đặc tính nhất định, chất lượng là sự thỏa 18 mãn nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất. Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, với mục đích khác nhau, nên có nhiều quan điểm khác nhau về chất lượng. Tuy nhiên, định nghĩa chất lượng được thừa nhận ở phạm vi quốc tế đó là định nghĩa của Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO). ISO 9000:2005, định nghĩa “Chất lượng là mức độ của một tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng các yêu cầu”. Theo FASB (1999); IASB (2008) mục đích của một báo cáo tài chính là cung cấp thông tin tài chính chất lượng cao liên quan đến đơn vị kinh tế, hữu ích để ra các quyết định kinh tế 2.2.3 Thông tin báo cáo tài chính Khái niệm thông tin BCTC được nhìn nhận theo hai quan điểm sau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, BCTC là sản phẩm của kế toán tài chính, là đầu ra của hệ thống thông tin kế toán, phản ánh theo một cấu trúc chặt chẽ tình hình tài chính, kết quả tài chính của doanh nghiệp. BCTC cung cấp các thông tin về tình hình tài chính, kết quả tài chính và các luồng tiền của doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu của số đông những người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế, nó cũng cho thấy kết quả quản lý của ban giám đốc đối với các nguồn lực được giao phó cho họ (IASB, 2010). Để đáp ứng mục tiêu này, BCTC trình bày thông tin về: tài sản, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu, thu nhập và chi phí, bao gồm cả lãi và lỗ, khoản góp vốn của chủ sở hữu và phân phối cho chủ sở hữu, các dòng tiền. Thông thường, một hệ thống BCTC bao gồm: báo cáo tình hình tài chính, báo cáo thu nhập; báo cáo vốn chủ sở hữu; báo cáo lưu chuyển tiền và thuyết minh BCTC. Quan điểm thứ hai cho rằng, mặc dù thông tin BCTC truyền thống trình bày trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán, nhưng chỉ mang tính chất quá khứ nên không đáp ứng nhu cầu thông tin cần thiết hiện nay của người sử dụng. Ngày nay, những thay đổi trong môi trường kinh doanh quốc tế theo xu hướng hội nhập, yêu cầu cần xem xét lại về bản chất cũng như nội dung của các BCTC của doanh nghiệp. 19 Thông tin BCTC không chỉ gắn liền thông tin tài chính, mà nó còn bao gồm những thông tin phi tài chính (Ferdy Van Beest, 2009). Theo tác giả, các nhà nghiên cứu trước đây khi đo lường chất lượng thông tin thường sử dụng định lượng và tập trung vào những khía cạnh cụ thể của thông tin BCTC như: chất lượng lợi nhuận, mô hình giá trị phù hợp…thông tin BCTC được hiểu theo nghĩa rộng hơn, bao gồm thông tin tài chính và phi tài chính cũng như các công bố bắt buộc và tự nguyện. 2.2.4 Yêu cầu Chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính Cả IASB và FASB đều thống nhất rằng phải phát triển một khuôn mẫu lý thuyết về chất lượng báo cáo tài chính dưới nền tảng là đặc tính chất lượng của thông tin kế toán. 2.2.4.1 Theo quan điểm của IASB và FASB Theo IASB và FASB, các đặc điểm chất lượng của thông tin tài chính hữu ích được phân ra thành các đặc điểm chất lượng cơ bản và các đặc điểm chất lượng bổ sung. Các đặc điểm chất lượng cơ bản: thích hợp và trình bày trung thực. Các đặc điểm chất lượng bổ sung: có thể so sánh; có thể kiểm chứng; kịp thời và có thể hiểu. • Thích hợp (Relevance) Để thích hợp, thông tin kế toán phải có khả năng tạo ra sự khác biệt trong việc ra quyết định của đối tượng sử dụng thông tin. Theo đó, “nó phải có giá trị dự đoán, giá trị xác nhận, hoặc cả hai” (IASB, 2010a, p.QC7). Thông tin tài chính có giá trị dự đoán (predictive value) nếu nó có thể được sử dụng như một dữ liệu đầu vào cho người sử dụng dự đoán kết quả tương lai. Thông tin tài chính có giá trị xác nhận (confirmatory value) nếu nó cung cấp thông tin phản hồi về các đánh giá trước đó.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan