Ta là ai?
www.vienchieuonline
.org
www.vienchieu.org
Ta
là
ai ?
Đ
ức Phật một hôm đang đi
khất thực, Ngài gặp hai
người dẫn một con heo đi
ngang qua. Ngài liền hỏi: “Đó là cái
gì?” Mọi người ngạc nhiên hỏi: “Đức
Phật là đấng “Chánh biến tri” (cái
gì cũng biết) mà con heo lại không
biết?” Đức Phật trả lời: “Cũng phải
hỏi qua”. Thế quý vị có ngạc nhiên
không?
Thật ra, câu chuyện như thế này.
Một hôm trông thấy một người dẫn
con heo đi qua, đức Phật mỉm cười.
Ngài A-nan mới hỏi đức Phật cười cái
gì? Đức Phật nói con heo đó đó kiếp
trước xa xa của nó là một con gà mái ở
6 Hạnh Huệ
gần chùa. Khi đi kiếm ăn, nó thường
lắng tai nghe quý thầy tụng kinh. Hết
kiếp gà, nó sanh trở lại làm một cô
công chúa. Khi làm công chúa, chỉ lo
hưởng ngũ dục mà không biết tu cho
nên sau đó lại sanh vào nhà bần cùng.
Và sau vài kiếp lại sanh thành heo.
Chúng ta thấy heo thì nói là heo.
Nhưng thật sự không đơn giản như
vậy. Và nhà Thiền đã lấy câu hỏi của
đức Phật “Đó là cái gì?” xem như một
công án.
Kinh Kim Cang có nói: “Chúng
sanh không phải là chúng sanh nên
gọi là chúng sanh” hay “Cái này không
phải là cái này cho nên gọi là cái này”.
Chúng ta cũng vậy, không phải là
người cũng không phải là trời, là vật
mà do “chúng sanh” có nghĩa là chúng
duyên hợp lại mà sanh, cho nên bây
giờ tạm gọi là người, hay một con
vật nào đó tạm gọi là chó, là mèo…
Ta là ai ? 7
Nhưng tất cả chỉ là giai đoạn.
Cho nên, nếu chúng ta cứ khăng
khăng cho rằng mình là người thế này
thế nọ, người này tốt, người kia xấu...
thì đó là bệnh chấp ngã cực kỳ khó trị
và quả thật chưa biết mình là ai. Đức
Phật sau khi giác ngộ, Ngài tuyên bố
“Phật, Tâm và chúng sanh, cả ba đều
bình đẳng”. Chúng ta bao kiếp trôi
lăn với bao nhiêu thân phận sai khác,
đã từng sanh lên các cõi trời, đã từng
trải qua những kiếp sống sang hèn,
đội nhiều thứ lốt, kể cả mang lông đội
sừng, và có thể địa ngục cũng từng
dạo qua. Thế mà Phật bảo tâm mình
và Phật bình đẳng thì thật khó tin, khó
nhận. Tâm thì tất cả đều giống nhau,
chỉ vì chúng ta quên hay nhớ cái Tâm
mà sanh ra Thánh – phàm, phải – trái...
chứ cốt lõi tất cả chúng ta đều bình
đẳng như nhau. Mọi sự sai biệt đều
từ phước duyên, nghiệp báo do chính
8 Hạnh Huệ
mình tạo ra mà tạm có vậy thôi. Hiểu
được như thế thì chúng ta sẽ không
khinh mạn đối với những người thua
mình, hoặc đố kỵ với những người hơn
mình mà phải chú tâm để lo chuyển
đổi cái nghiệp của mình.
Chúng ta thấy ở một số chùa,
nhất là những chùa Trung Hoa, trước
cổng có đề những chữ: “Thị thập
ma?” có nghĩa là “Là cái gì?” Chẳng
có vẻ Phật pháp tí nào, sao không đề
“Từ bi – Hỷ xả” hay một câu nào đó
mang đạo vị hơn? Nhưng đây lại là
chuyện đặc biệt của nhà Thiền.
Trên hội Linh Sơn, đức Phật đưa
cành hoa lên, ngài Ca-diếp mỉm cười.
Đại chúng ngơ ngác, chúng ta cũng
ngơ ngác. Vậy mà Phật bảo giao phó
Chánh pháp nhãn tạng cho ngài Cadiếp mới lạ chứ! Phật còn nói là Niếtbàn diệu tâm, thực tướng vô tướng.
Một cành hoa sao lại là diệu tâm, là vô
Ta là ai ? 9
tướng? Dĩ nhiên Phật không trao ngài
Ca-diếp cành hoa, mà nhận ở ngài
Ca-diếp nụ cười. Đó mới là diệu tâm
Niết-bàn, thực tướng vô tướng. Cái
nhìn của Ca-diếp mới là Nhãn tạng
Chánh pháp. Còn chúng ta chỉ thấy
cành hoa nên “lọt vào bẫy” vì lo chạy
theo cảnh bên ngoài mà quên mất
tánh thấy của chính mình. Nắm được
nó, các vị thiền sư thường hay dùng
chiêu này để “gạt” đệ tử của mình.
Trời bên ngoài mưa, một thiền
sư liền hỏi đệ tử: “Tiếng gì vậy?” Đệ
tử trả lời: “Dạ, tiếng mưa rơi”. Ngài
liền đáp: “Quên mình theo vật.”
Nghe tiếng con rắn cắn con cóc,
liền hỏi: “Tiếng gì vậy?”, nếu trả lời:
“Dạ, tiếng con rắn cắn con cóc” thì
ngài sẽ nói: “Tưởng là có chúng sanh
khổ lại có khổ chúng sanh”…
Đó là những cách nhà Thiền
dùng để nhắc chúng ta nhận ra chân
10 Hạnh Huệ
tánh của mình, đừng chạy theo cảnh
vật bên ngoài. Nhưng thật sự thì
“Giang sơn dị cải, bản tánh nan di”,
núi sông dễ đổi, bản tánh khó dời; hay
“Thiên niên thiết thọ khai hoa dị”,
Khuyến nhân từ khước thị phi nan, cây
sắt ngàn năm trổ hoa thì dễ nhưng
khuyên người bớt thị phi thì rất khó.
Và sở dĩ chúng ta khó bỏ được thị phi
là vì chúng ta bị dính mắc vào trần
cảnh nhiều quá.
Có người đến hỏi đạo ngài Triệu
Châu: “Thế nào là đại ý Tổ sư từ Ấn
Độ sang?”. Ngài trả lời: “Cây bách
trước sân”. Người đó liền thưa: “Xin
Thiền sư đừng lấy cảnh chỉ con”. Ngài
nói: “Tôi có lấy cảnh đưa cho ông
đâu”. Người đó liền hỏi lại: “Thế nào
là đại ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?” Ngài
vẫn trả lời: “Cây bách trước sân”.
Ngài Triệu Châu nói “Cây bách
trước sân”, vật đang có trước mặt
Ta là ai ? 11
mình, để chỉ đại ý Phật pháp của Tổ
sư từ Ấn Độ sang, dù Ngài đã nói rõ
không lấy cảnh chỉ người, mà người
nghe vẫn theo cảnh, cứ chạy theo “cây
bách”, không nhận ra ý Tổ sư.
Tổ Bồ-đề Đạt-ma lúc còn là
thái tử thứ ba ở trong cung. Khi tổ
Bát-nhã Đa-la đến thuyết pháp cho
vua cha. Vua cha mới đem một hạt
châu rất quý tặng cho tổ Bát-nhã
Đa-la. Tổ muốn thử ba vị hoàng tử
này xem kiến giải của họ như thế
nào mới hỏi rằng: “Hạt châu này có
quý hay không?”. Hai vị hoàng tử lớn
đều cho rằng rất quý. Nhưng đến vị
hoàng tử thứ ba tức là ngài Bồ-đề
Đạt-ma, thì lại cho rằng có một hạt
châu khác quý hơn. Đó chính là Trí
châu và Tâm châu. Bởi nếu không có
Trí châu và Tâm châu thì ai biết thế
gian châu này là quý.
12 Hạnh Huệ
Ngài Triệu Châu đã từng cầm
cọng cỏ lên và nói: “Có khi một cọng
cỏ là thân trượng sáu (tượng trưng
cho Phật); có khi thân trượng sáu lại
là một cọng cỏ”. Nếu nhìn cọng cỏ mà
chúng ta nhớ lại được tánh thấy, tánh
nghe nơi mình thì cọng cỏ ấy chính là
“thân trượng sáu”. Còn nếu mang một
tượng Phật đến để trên bàn, chúng ta
quỳ lễ lạy mà quên mất Phật tánh của
chính mình thì tượng Phật này cũng
chỉ là một cọng cỏ.
Chúng ta vốn dĩ đã có sẵn một
“tài sản” rất quý đó là cái tâm thanh
tịnh. Nhưng mình lại không biết cách
sử dụng để có được những hạnh phúc
đích thực mà chỉ lo chạy theo những
cái ảo vọng bên ngoài để chuốc lấy
đau khổ. Bây giờ chúng ta xét kỹ và có
thể nhận ra khoảng cách giữa hạnh
phúc và đau khổ rất gần. Chỉ cần đổi
tâm thôi thì chúng ta sẽ đi từ trạng thái
Ta là ai ? 13
này sang trạng thái khác rất nhanh và
rất dễ. Bởi lẽ không thể có hai niệm
cùng một lúc, khi mê thì không giác
và khi giác thì không mê. Cho nên
một niệm mê dấy khởi là ma vào điện
Phật, giác trở lại là Phật vào cung ma.
Giác là tánh sẵn có, mê như mây chợt
hiện, có rồi không. Tâm tỉnh giác sẽ
giúp chúng ta nhận ra rằng, tất cả
đều là giả hợp. Thân này cũng chỉ là
giả hợp, chuyện sanh, già, bệnh, chết
cũng là chuyện của cái giả hợp, không
phải của mình vậy thì cần gì phải đau
khổ vì nó?
Nếu chúng ta tỉnh giác, thì đứng
trước quy luật sanh, già, bệnh, chết,
chúng ta sẽ hết sợ hãi, mà luôn biết
chấp nhận một cách an nhiên cái gì
đến, sẽ đến. Như đức Phật đã từng
nói: “Cái gì mà sẽ diệt thì nó diệt. Cái
gì dứt thì nó sẽ dứt không thể nào
tránh được.” Còn nếu chúng ta cố
14 Hạnh Huệ
gắng để ngăn chặn thì chỉ chuốc thêm
đau khổ mà thôi. Nhận ra được điều
này, chúng ta sẽ sống an vui, không
phải hồi hộp, sợ hãi mà luôn để mọi
sự đến đi theo quy luật tự nhiên.
Vậy điều quan trọng nhất mà
chúng ta cần phải nhớ, đó là: Thân
này không phải là mình, đừng nên
chấp bám vào nó mà hãy nhìn cuộc
đời như lẽ đương nhiên, tất cả mọi
việc như nó đang là và những cái bất
hạnh của cuộc đời đối với mình chỉ
là “trăng dưới nước”, là “hoa đốm hư
không”. Như thế tánh giác sẽ luôn
hiển hiện, Phật tâm sẽ không còn bị
mây hư vọng che mờ. Sẽ không còn
thắc mắc Ta là ai nữa.
Chúng ta hãy sống hết lòng với
cuộc sống nhưng đừng để bị dính
mắc, ràng buộc với nhau. Điều cốt lõi
mà Phật tử tu Thiền cần phải nhận
ra là mỗi người chúng ta đều có sẵn
Ta là ai ? 15
Phật tánh. Và khi mình sống được với
cái Tâm của mình thì mình sẽ nhìn
cuộc đời đúng sự thật hơn, sẽ không
bị cảnh lôi kéo, và sẽ giải tỏa được
những cái thấy, biết có sẵn của mình
hoặc sẽ nhận thấy rõ những cái thấy,
biết khiến chúng ta nhìn sự vật lệch
lạc như thế nào.
Có một câu chuyện giữa thám
tử Sherlock Homes và bác sĩ Waston.
Một hôm, hai người đi cắm trại với
nhau. Họ dựng một túp lều ngoài
trời. Sau khi ăn uống xong thì họ đi
ngủ. Nửa đêm, thám tử gọi bác sĩ dậy
và hỏi rằng: “Anh hãy nhìn lên trời
và cho tôi biết rằng anh thấy cái gì?”.
Vị bác sĩ trả lời: “Tôi thấy hàng triệu
triệu ngôi sao trên bầu trời”. Thám tử
hỏi tiếp: “Vậy anh kết luận thế nào?”.
Bác sĩ trả lời: “Từ góc độ thiên văn học
cho tôi biết trong vũ trụ có hàng triệu
thiên hà và hàng tỉ hành tinh. Còn từ
16 Hạnh Huệ
góc độ thời gian thì tôi đoán bây giờ
là ba giờ rưỡi khuya. Còn từ góc độ
chiêm tinh thì tôi đoán ngày mai trời
sẽ rất là đẹp. Còn từ góc độ thần học
thì tôi thấy thượng đế đầy quyền uy
và chúng ta chỉ là một chút xíu trong
cái phần rất nhỏ của vũ trụ”. Và vị bác
sĩ hỏi lại: “Còn anh, anh nghĩ sao?”.
Thám tử im lặng một lúc rồi trả lời:
“Anh ngốc thật, cái lều của mình bị
đứa nào nó ăn trộm mất rồi”.
Qua câu chuyện trên chúng ta
có thể thấy, có những cái sờ sờ trước
mắt nhưng chúng ta lại không thấy
mà cứ thấy những chuyện ở đâu
đâu. Mà sự phiền não của chúng ta
đều bắt nguồn từ việc cái Tâm của
mình cứ chạy lung tung, tàng thức
của chúng ta chứa quá nhiều khiến
mình không thể nghĩ gì khác ngoài
những vấn đề từ “kho chứa” của
mình phóng ra. Cho nên trong bài
Ta là ai ? 17
Sám hối, chúng ta đã phải nguyện
rằng: “Một nguyện nguồn linh
thường trong lặng. Hai nguyện tàng
thức dứt lăng xăng…”
Vì vậy, điều quan trọng mà
chúng ta cần phải nhận ra đó là mình
sống trong cõi đời này chỉ là để làm
thuần thục, thăng hoa tâm, làm cho
tâm chúng ta được trở thành tâm
Phật, tâm giác ngộ. Vì nếu trở về được
với tâm này thì chúng ta mới có được
hạnh phúc đích thực. Và như vậy thì
chúng ta mới có thể vượt qua được
hết những bất trắc trong cuộc đời vốn
dĩ là vô thường, là không. Đó là mục
đích duy nhất của chúng ta. Chúng ta
làm mọi việc dù lớn hay nhỏ với một
tâm Phật thì tất cả đều là Phật sự. Tất
cả đều từ tâm mình mà ra.
Kinh Kim Cang cũng nói, người
nào tụng kinh Kim Cang, thì dù đời
trước mắc tội nặng thì sẽ chuyển
18 Hạnh Huệ
thành nhẹ, nhẹ chuyển thành không;
Người đời trước làm tội rất nặng, đời
này tụng kinh Kim Cang cho nên bị
người ta khinh chê, nhưng nhờ khinh
chê mà các tội được tiêu diệt.
Phó Đại sĩ đã làm bài kệ để chú
giải cho đoạn kinh này như sau:
Tiên thân hữu báo chướng
Kim nhật thọ trì kinh
Tạm bị nhân khinh tiện
Chuyển trọng phục hoàn khinh
Nhược liễu y tha khởi
Năng trừ biến kế tình
Thường y bát nhã quán
Hà lự bất viên thành.
Thân trước có báo chướng
Ngày nay thọ trì kinh
Tạm bị người khi dể
Đổi nặng trở nhẹ tênh
Nếu rõ y tha khởi
Biến kế chấp trừ luôn
Thường theo Bát-nhã quán
Lo gì chẳng viên thành.
Ta là ai ? 19
Thân trước của mình có những
nghiệp báo, hôm nay, khi thọ trì kinh
này sẽ tạm bị người ta khinh khi, thì tội
nặng trở thành nhẹ. Nhưng nếu mình
rõ được tất cả mọi tội chướng, đau khổ
của mình đều do nhân duyên hợp lại
mà thành, hay trừ những tình chấp sai
lầm, thường nương trí bát-nhã để quán
chiếu mọi thứ là không, thì lo gì mà
không trở lại được với tánh sẵn có của
mình, viên thành được quả Phật.
Lục tổ thì giải thích rằng: Phật
nói người trì kinh đáng được cung
kính cúng dường. Nếu mà nhiều đời
có tội chướng nặng, đời này trì kinh
này thường bị người khinh dể chẳng
được cung kính cúng dường. Và do trì
kinh, không khởi tướng ngã – nhân –
chúng sanh – thọ giả, có người lăng
nhục không khởi oán thân thường
hành cung kính, có người xúc phạm
chẳng thèm suy tính, thường tu Bát-
- Xem thêm -