sự hình thành tư tưởng hồ chí minh về đối ngoại, sự vận dụng tư tưởng đối ngoại của Người vào thời kỳ đổi mới của đảng cộng sản việt nam
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
2
PHẦN I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỐI
NGOẠI
3
1.1. Tổng kết, rút kinh nghiệm từ sự thất bại của các phong trào yêu nước
trước đó
3
1.2 Hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc – cở sở thực tiễn của
việc hình thành quan điểm quốc tế Hồ Chí Minh
4
1.3. Chủ nghĩa Mác – Lênin – cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của
tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại.
4
PHẦN II. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỐI NGOẠI 6
2.1. Khái niệm, định nghĩa đối ngoại.
6
2.2. Những quan điểm Hồ Chí Minh về đối ngoại.
6
PHẦN III. TƯ TƯỞNG ĐỐI NGOẠI HỒ CHÍ MINH VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI
MỚI Ở VIỆT NAM
14
3.1. Quá trình Đảng ta nhận thức sâu sắc giá trị khoa học và thực tiển của tư
tưởng Hổ Chí Minh nói chung, tư tưởng đối ngoại của Người nói riêng đối
với sự nghiệp đổi mới.
14
3.2 . Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đối ngoại Việt Nam
thời kỳ đổi mới
15
KẾT LUẬN
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
21
1
MỞ ĐẦU
Một trong những di sản trong hệ thống tư tưởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
để lại cho Đảng, dân tộc, nhân dân ta là tư tưởng đối ngoại. Tư tưởng đối ngoại
là bộ phận quan trọng trong hệ thống tư tưởng toàn diện sâu sắc của Người đặc
biệt là quan điểm về mục tiêu, phương châm đối ngoại. Trên cơ sở kế thừa
những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc, từ sự tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại đặc biệt là vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, thông qua quá
trình khảo sát thực tiễn trong nước và thế giới để Người hình thành những quan
điểm về đối ngoại. Những quan điểm đó đã trở thành đường lối, chủ trương,
chính sách đối ngoại của Đảng, được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng
minh tính đúng đắn của nó trong cách mạng giải phóng dân tộc và cả trong giai
đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong công cuộc đổi mới, tư tưởng đối ngoại của Hồ Chí Minh đã cho Đảng
Cộng sản Việt Nam những chỉ dẫn đúng đắn trong việc xác định mục tiêu,
phương châm đối ngoại, hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại
phù hợp với xu thế quốc tế, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam, đem lại những kết quả tốt đẹp mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng đánh giá: “Hoạt động đối ngoại được mở rộng, góp phần giữ vững
môi trường hoà bình, phục vụ tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao
uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”. Thực hiện đường lối đối
ngoại hoà bình, hợp tác cùng phát triển, chính sách đối ngoại mở rộng, đa dạng
hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế, tích cực chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, với phương châm Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của
các nước trên thế giới, tích cực tham gia vào tiến trình hợp tác khu vực và quốc
tế.
2
PHẦN I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỐI
NGOẠI
1.1. Tổng kết, rút kinh nghiệm từ sự thất bại của các phong trào yêu nước
trước đó
Các cuộc đấu tranh giành độc lập ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX diễn ra theo hệ
tư tưởng phong kiến đều thất bại là do chưa có đường lối và phương pháp cách
mạng đúng đắn. Con đường bạo động của Phan Bội Châu chăng khác gì “đuổi hổ
cưa trước, rước beo cưa sau”; con đường của Phan Chu Trinh cung chăng khác
nào “xin giă ̣c rủ long thương”; con đường của Hoàng Hoa Thám thực tế hơn,
nhưng vẫn mang nă ̣ng cốt cách phong kiến; con đường của Nguyễn Thái Học
theo hệ tư tưởng tư sản, đã chứng to giai cấp tư sản Viê ̣t Nam không đảm đương
được sứ mê ̣nh dân tô ̣c.
Sự thất bại của phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu th ế kỷ XX đã
chứng minh rằng các con đưong cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và
khuynh hướng chính trị tư sản đểu bế tắc và hoàn toàn bất lực trước sự tồn vong
của vận mệnh dân tộc. Vì các đưong lôl cứu nước ở thời kỳ này đã không đáp
ứng được nhu cầu bức thiết và cơ bản của nhân dân, của dân tộc và không con
phù hợp với bối cảnh thời đại. Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trong bốì
cảnh nước mất, nhà tan, Người chứng kiến cuộc sông lầm than, khổ cực của
nhân dân, bi kịch của cả một dân tộc bị mất tự do
Kế thừa chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, ý chí quật cường của
quê hương, tinh thẩn cách mạng của gia đình, ở Nguvỗn Tất Thành đã sớm nav
nở tình cảm yêu nước, thương dân sâu sắc. Đây chính là động lực thôi thúc
Người tìm đường cứu nước, cứu dân khoi cảnh nô lệ. Nguyễn Ái Quốc mặc dù
rất khâm phục tinh thần yêu nước của các nhà cách mạng tiền bối nhưng Người
đã nhận ra những hạn chế của họ về xác định mục tiêu, đói tượng, nhiệm vụ
cách mạng Việt Nam; về phương thức, phương pháp đấu tranh: về nhận thức
“bạn - thù” của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở Việt Nam. Đây chính là
3
những bài học lịch sư mà Nguyễn Ái Quốc cảm nhận được, đồng thời là lý do
để Người quyết tâm đi ra nước ngoài tìm con đường cứu nước mới.1.2 Hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc – cở sở thực tiễn
của việc hình thành quan điểm quốc tế Hồ Chí Minh
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước thân phận người dân mất nước,
với khát vọng cứu nước, cứu dân cháy bong. Trên cuộc hành trình của mình,
Nguyễn Ái Quốc đã vượi qua đại dương, châu lục, đặt chân tới khoảng gần 30
nước. Trong cuộc hành trình đó, Nguyễn Ái Quốc đã sống bằng đôi bàn tay lao
động của mình, lăn lộn trong cuộc sống lao động và đấu tranh của nhân dân các
nước. Với tầm hiêu biết rộng lớn và vốn sống thực tiễn sâu sắc, phong phú đã
hình thành Người nhận thức về thế giới và thời đại khác với quan điểm so với
các nhà yêu nước đương thời.
Sau nhiều năm bôn ba nước ngoài, Người rút ra kết luận: “Dù màu da có
khác nhau, trên đời này chỉ ró hai giống người: người bóc lột vàngười bị bóc
lột”. Như vậy, thực tiễn đời sống lao động, đấu tranh của nhân dân các dân tộc,
đã giúp Nguyễn Ái Quốc hình thành những quan điểm cơ bản đầu tiên trong tư
tưởng đối ngoại của mình. Đó là, nhận diện đúng đắn kẻ thù chung của cách
mạng thế giới; nhận thức đúng vế những người lao động, dù là màu da gì, dù
thuộc châu lục nào, đất nước nào. cung bị bóc lột, bị đọa đày. Từ nhận thức
trên, đã cho Người thấy rõ: sự cần thiết phải liên minh các lực lương bị áp bức
trẽn phạm vi thế giới và khả năng đoàn kết quốc tế của nhân dân Việt Nam
trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mình.
1.3. Chủ nghĩa Mác – Lênin – cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của
tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại.
Học thuyết Mác - Lênin đã chỉ ra rằng, lịch sư phát triển của xã hội loài
nguời là lịch sư phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, trong đó hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là một chê' độ xã hội bảo đảm cho nhân dân
lao động các nước có được nền độc lập vững chắc, cuộc sông tự do và hạnh
4
phúc. Từ việc tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp nhân và phong trào
cách mạng thế giới từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, củu nghĩa Mác Lênin đã khăng định sự tất yếu khách quan của việc loài người sẽ đi tới chủ
nghĩa cộng sản. Phân tích mối quan hệ giữa cách tnạng tư sản và cách mạng vô
sản Mác và Lênin đã đề ra tư tưởng cách mạng không ngừng,khăng định: giữa
cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới và cách mạng xã hội chủ nghĩa không có
bức tưong nào ngăn cách cả. Rằng, thắng lợi cua cách mạng dân chủ tư sản kiểu
mới tạo tiền đổ cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Học thuyết Mác - Lênin trở
thành cơ sở lý luận quan trọng để Nguyễn Ái Quốc quyết định lựa chọn con
đường giải phóng dân tộc Việt Nam theo quỹ đạo cách mạng vô sản. Người
khăng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”. Học thuyết Mác - Lênin đã chỉ ra các điều
kiện bảo đảm cho cuộc cách mạng ở các nước giành thắng lợi, trong các điều
kiện đó có vấn đề đoàn kết quôc tế của các dân tộc đấu tranh chông chủ nghĩa
đế quốc.
5
PHẦN II. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỐI
NGOẠI
2.1. Khái niệm, định nghĩa đối ngoại.
Qua nghiên cứu các định nghĩa và khái niệm về tư tưởng cách mạng Hồ Chí
Minh và những công trình khái quát về hoạt động đối ngoại của Người, chúng ta
có thể đi đến một khái lược về định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh trong lĩnh vực
đối ngoại như sau :
Tư tưởng Hồ Chí Minh trong lĩnh vực đối ngoại là một bộ phận hợp thành
của tư tưởng chính trị, tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh, nó bao gồm hệ thống
các quan điểm, nhận thức, luận cứ và nghệ thuật thực hiện của Người được thể
hiện trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn quan hệ quốc tế, trong thực tế
hoạt động ngoại giao và vận động quốc tế của bản thân Người, của Đảng và
Nhà nước ta trong các giai đoạn lịch sư từ 1911 đến 1969.
2.2. Những quan điểm Hồ Chí Minh về đối ngoại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại bao gồm các vấn đề về mục tiêu đối
ngoại, sắp xếp lực lượng, các phương châm đối ngoại, phương pháp và nghệ
thuật đấu tranh ngoại giao nhằm giành thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.
2.2.1. Về mục tiêu đối ngoại
Trong toàn bộ cuộc đoi hoạt động cách rnạng của mình, Hồ Chí Minh kiên
trì đấu tranh để giành các quyền dân tộc cơ bản cho đất nước Việt Nam. Ngày
2-9-1945, ngay sau khi nước nhà vừa được giải phóng, Hồ Chí Minh đã công bố
trước quốc dân đồng bào và toàn thế giối bản Tuyên ngôn độc lập, mở đầu bằng
những giá trị pháp lý và đạo lý mang tính phổ biến “những lẽ phải không ai chối
cãi được”: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đăng. Tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyển mưu cầu hạnh phúc”[8]. Bản Tuyên ngôn đ ộc
lập khăng định quyền tự do, độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoa
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một
6
nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyên tự do, độc lập ấy”. Thông qua
bản Tuyên ngôn độc lập , Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khảng định định
hướng đối ngoại độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam trong quan hộ chính trị
qucíc tế. Bởi vì, chỉ những quốc gia độc lập, tự do mới có quyển quyết định
đường lối đối ngoại của dân tộc mình.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu đối ngoại bao giờ cung được xác
định một cách rõ ràng nhất quán, đó là bảo đảm lợi ích của quốc gia dân tộc,
bảo đảm các quvền dân tộc cơ bản như: độc lập dân tộc, chủ quyền quôc gia,
toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nưốc. Ngưoi cho rằng muốn làm gì cung cần
vì lợi ích của dân tộc mà làm. Tuy nhiên, trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cách
mạng khác nhau lại đề ra những mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể để hoạt động đôi
ngoại phù hợp với yêu cầu thực tiễn đất nước. Quan điểm của Hồ Chí Minh là:
“Tình hình mới đã đặt ra những nhiệm vụ mới, phương châm mới, sách lược
mối... chính sách và khẩu hiệu cung phải thay đổi, cho hợp vổi tình hình
mới”[11]. Nhưng cuối cùng thì, các mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể đều nhằm mục
đích thực hiện cho được mục tiêu cơ bản, đó là: Xây dựng một nước Việt Nam
độc lập, thông nhất, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng thế giới.
Đấu tranh cho hoa bình và cùng tồn tại hoa bình là mục tiêu xuyên suốt
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao. Đây cung chính là sự kê thừa truyền
thông yêu chuộng hoa bình, hoa hiếu của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh
thường xuyên nhân mạnh nguyện vọng của Người và của dân tộc Việt Nam là
muốn có được một nên hoa bình hợp công lý, Ngưoi nói: “nhân dân Việt Nam
rất yêu chuộng hoa bình, hoa bình t,hật sự, hoa bình trong độc lập tự do, chứ
không phải thứ hoa bình giả hiệu”[11]; hoa bình của một quốc gia phải trên cơ
sở độc lập, tự do. Vì vậy, cuộc đâu tranh cho độc lập tự do của các quốc gia
cung tức là đấu tranh để bảo vệ nền hoa bình của mình. Trong mối quan hệ vớ
hoa thế giới, Hồ Chí Minh cho rằng “giữ gìn hoa hình thê giới tức là giữ gìn lợi
7
ích của nước ta. Vì lợi ích của nhân dân lao động khắp thế giới là nhất trí. ...
Tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ đó, ta
vừa ra sức kháng chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hoa bình thế giới”[11].
Lập trường yêu chuộng hoa bình trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa rõ ràng, nhất
quán vừa thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa ý chí quvết tâm bảo vệ hoa bình
cho đất nước mình vừa góp phần giữ gìn hoa bình cho các dân tộc khác. Người
nói; “Nhân dân Việt Nam vĩnh viễn không để cho kẻ nào xâm lược nước mình,
đồng thời cung vĩnh viễn không xâm lược nước khác”[12] - Trong khi ra sức
phấn dấu thực hiện tô't mục tiêu đối ngoại của dân tộc mình, Hồ Chí Minh rất
tôn trọng lợi ích chính đáng của các quôc gia dân tộc khác theo quan điểm mình
chớ làm cho người những điều không muốn người làm cho mình.
Phát biểu nhân dịp Quốc khánh lần thứ 10 của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoa (2-9-1955), Hồ Chí Minh tuyên bố rõ: “Trong quan hệ đối với các
nước khác. Chính sách của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoa là rõ ràng và
trong sáng; đó là một chính sách hoa bình và quan hệ tốt. Chính sách đó dựa
trên năm nguyên tắc vĩ đại nêu trong các bản tuyên bô chung Trung - Ân và
Trung - Miến, tức là: tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nhau, không
xâm phạm, không can thiệp vào các công việc nội bộ, bình đăng và hai bên
cùng có lợi, chung sông hoa bình”[12] ; Giữ vững mục tiêu và nguyên tắc, đồng
thoi sẵn sàng thực hiện chính sách đôi ngoại rộng mở là nét độc đáo trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về đôi ngoại. Ngay từ năm 1946, trong Lời kệu gọi Liên
Hợp quốc, Hồ Chí Minh đã nêu rõ chính sách đối ngoại của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoa như sau:
1. Đối với Lào và Miên, nước Việt Nam tôn trọng nền độc lập của hai nước
đó và bày to long mong muốn hợp tác trên cơ so bình đăng tuyệt đốì giữa các
nước có chủ quyền.
2. Đốì với các nước dân chủ, nưốc Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách
mở cưa và hợp tác trong mọi lĩnh vực:
8
a) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư
bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đưong sá giao
thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.
c) Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tê
dưới sự lãnh đạo của Liên Hợp quốc.
d) Nước Việt Nam sẵn sàng ký kết với các lực lượng hải quân, lục quân
trong khuôn khổ của Liên Hợp quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và những
hiệp ước liên quan...[8]
2.2.2.Về sắp xếp lực lượng
Xác định đổì ngoại là một mặt trận; chủ trương mở rộng mặt trận, tranh thủ
mọi lực lượng và hình thức đấu tranh nhằm đạt hiệu quả cao nhât về đôi ngoại.
Trong nước, với quan điểm “muốn ngoại giao được thắng lợi là phải biểu dương
thực lực”. Thực lực chính là sức mạnh của khôi đại đoàn kết toàn dân, là sự ổn
định tình hình chính trị xã hội, là sự phát triển về kinh tê, văn hóa của đất nưốc.
Chủ trương kết hợp đối ngoại nhà nước với ngoại giao nhân dân. Ngoại giao
nhân dân được coi là một lực lượng quan trọng của mặt trận đôì ngoại. Bởi vì
theo Hồ Chí Minh, ngoại giao không phải chỉ là việc riêng của “các đại sứ quán,
tổng lãnh sự quán là những cơ quan chuyên môn phụ trách, mà con là các tổ
chức khác như ngoại thương, văn hóa, thanh niên, phụ nữ, công đoàn cung đều
làm ngoại giao cả”[15]. Với bên ngoài, Hồ Chí Minh chủ trương đổi ngoại rộng
mở, mở rộng lực lượng theo phương châm “thêm bạn, bớt thù”, tránh đối đầu
“không gây thù oán vối một ai", tìm ra những điểm tương đồng, khai thác mọi
khả năng có thể, nhằm tập hợp lực lượng, hình thành mặt trận đoàn kết ủng hộ
Việt Nam theo nhiều tầng, nhiều nấc.
Hồ Chí Minh luôn nhất quán chủ trương gắn cách mạng Việt Nam với cách
mạng thế giới, với thời đại. Xác định rõ mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam
vói các đối tác cụ thể - với phong trào cách mạng vô sản; với phong trào giải
phóng dân tộc; vối phong trào hoa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giối... Trong
9
đó, Người đặc biệt coi trọng việc xây dựng mối quan hệ gắn bó với các nước xã
hội chủ nghĩa, với các “Đảng Cộng sản anh em” theo tinh thần “bốn phương vô
sản đều là anh em”. Đồng thời Người cung đặc biệt quan tâm đến việc góp phần
xây dựng khôi đoàn kết trong phong trào cộng sản quốc tế “trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tê vô sản, có lý, có tình”. Để thực hiện
chính sách đối ngoại rộng mở, tập hợp các lực lượng đoàn kết với Việt Nam,
theo Hồ Chí Minh vấn đề quan trọng hàng đầu là phải làm cho nhân dân thế giới
hiểu rõ về Việt Nam, về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta. Và muôn
tăng cường đoàn kết phải thông qua đấu tranh. Ngưoi nói: “Mục đích của ta là
vì đoàn kết, vì đoàn kết mà phải tranh đấu. Tranh đấu để đi đến đoàn kết chứ
không nói xấu ai”[15].
Mục tiêu của đoàn kết quốc tê trong tư tưởng Hồ Chí Minh là. trên cơ sở lợi
ích chính đáng của nhân dân Việt Nam, tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ
sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của chính phủ các nước, của các tầng lớp nhân
dân yêu chuộng hoa bình, tiến bộ trên thế giới. Đoàn kết hợp tác với bên ngoài
là để tăng cường sức mạnh bên trong, vì vậy, phải xây dựng thực lực đất nước,
chính nghĩa của dân tộc làm nên lảng để thu hút sự ủng hộ của quôc tế. Trong
quan hệ đối ngoại, Hồ Chí Minh và Đảng luôn yêu cầu quán triệt quan điểm:
“Ta có mạnh thì họ mới chịu “đêm xỉa đến”. Ta vếu thì ta chỉ là một khí cụ
trong tay của kẻ khác, dẫu là kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy”[11] . Hồ
Chí Minh con căn dặn: “Chúng ta cần phải luôn luôn nắm vững ngọn cờ hoa
bình, nhưng đồng thời phải luôn luôn nâng cao đề phong và cảnh giác”[15],
Trong những năm 60 của thế kỷ XX, trước sự bất đồng, chia rẽ giữa các nưốc
xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh trên quan điểm độc lập “có lý, có tình” và vì lợi
ích của cách mạng thế giới, vì lợi ích của cách mạng việt Nam, Người đã có
những đóng góp tích cực nhằm góp phần giải quyết mối bất hoa giữa các nước.
Đoàn kết và tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa - với tư
cách những đồng minh chiến lược đối với cách mạng Việt Nam là vấn đề hết
sức quan trọng trong tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh.
10
Về việc xác định bạn - thù, Hồ Chí Minh nói: “muốn làm cách mạng thắng
lợi thì phải phân biệt rõ ai là bạn ai là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ
thù”[13], và phải “làm cho nước mình ít kẻ thù hơn hết và nhiều bạn đồng minh
hơn hết”, trên cơ sở quán triệt yêu cầu phân hóa hàng ngu kẻ thù, thông qua việc
khai thác, lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ đôl phương, từ đó tranh thủ mọi lực
lượng có thể tranh thủ được, cô lập cao độ kẻ thù chủ yếu. Những năm 1945 1946, đất nước đứng trước nhiều kẻ thù nguy hiểm, cách mạng Việt Nam trong
tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Trên cơ sở nắm vững tình hình đất nước một
cách khách quan và phân tích chính xác âm mưu của từng kẻ thù, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng ta đã sáng suôt nhận định “Vấn đề lúc này, không phải là
muôn hay không muôn đánh. Vấn đề là biết mình biết ngưoi, nhận một cách
khách quan những điều kiện lời lãi trong nưốc và ngoài nước mà chủ trương cho
đúng”[6]. Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoa ký vối đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 và
sau đó là bản Tạm ước 14-9-1946, là sự lựa chọn giải pháp đốì ngoại tốì ưu để
bảo vệ thành quả của cách mạng. Đây là những mẫu mực tuyệt vời về sự mềm
dẻo trong sách lược và sự tài tình trong lợi dụng mâu thuẫn giữa các thế lực thù
dịch, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị thực lực
cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chông Pháp.
2.2.3. Phương châm đối ngoại và phương pháp đấu tranh ngoại giao
Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên nhận thức được tầm quan trọng
và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng
thế giới. Từ đó, Người đã đặt cách mạng Việt Nam trong tiến trình chung của
cách mạng thoi đại. Trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927), Nguyễn Ái
Quốc đã xác định “Cách mệnh An Nam cung là một bộ phận trong cách mệnh
thố giới. Ai làm cách mệnh trong thê giới đều là đồng chí của dân An Nam
cả”[7]. Đây chính là cơ sở để xác lập tình hữu nghị, đoàn kết, hợp tác vối nhân
dân cár nước, thực hiện thành công việc kết hợp sức mạnh dân tộc vói sức mạnh
thoi đại, tạo nên thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. - Trong quan hệ đối ngoại,
11
Hồ Chí Minh yêu cầu quán triệt quan điểm độc lập tự chủ, tự lực, tự cường gắn
liền với đoàn kết, hợp tác quôc tế. Quan điểm này được Hồ Chí Minh giải thích:
“Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không
có sự can thiệp ở ngoài vào”[9]. Cung có nghĩa là dân tộc Việt Nam phải tự
mình vạch ra đường lối, chính sách đối ngoại độc lập trên cơ sở lợi ích quốc gia,
nhưng đồng thoi phải phù hợp với chuẩn mực quốc tế, thích ứng với xu thế thời
đại. Quan điểm của Hồ Chí Minh là, dân tộc Việt Nam “phải vạch rõ những
phương pháp và những biện pháp của riêng mình”, nhưng Người cung cho rằng:
không thể nào hạn chê những hoạt động hiện nay và tương lai... trong khuôn
khố dân tộc thuần tuý, rằng những hoạt động đó có muôn ngàn sợi dây liên hệ
với cuộc đấu tranh chung của thế giới tiến bộ, Và Người con nhấn mạnh: “Nước
ta là một bộ phận của thế giới. Tình hình của nước ta có ảnh hưởng đến thế giới,
mà tình hình thế giới cung có quan hệ đến nước ta”[11].
Trong chỉ đạo thực tiễn, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn thể hiện tính độc lập,
tự chủ, Người thường xuyên căn dặn cán bộ phải giữ vững lập trưong, phải
vững vàng, khôn khéo, phải chủ động, tích cực; phải tự lực cánh sinh, phải lấy
sức ta mà giải phóng cho ta “muốn ngưoi ta giúp cho, thì trước mình phải tự
giúp lấy mình đã”, Người con nói: “sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng,
nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ ngưoi khác. Một dântộc
không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đớ thì không xứng
đáng được độc lập”1.
Như vậy, tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh đã thể hiện mối quan hệ biện
chứng giữa yếu tố dân tộc và yếu tố quốc tế. Trong tư tưởng Hồ Chí Mmh,
đường lối, chính sách và hoạt động đối ngoại độc lập, tự chủ luôn luôn là nền
tảng dể đoàn kết, tập hợp các lực lượng cách mạng thế giới ủng hộ, giúp đỡ Việt
Nam. Trong môi quan hệ dân tộc và quốc tế, Ngưoi coi yếu tố quốc tế có ý
nghĩa quan trọng cho thắng lợi của cách mạng; nhưng yếu tố dân tộc độc lập, tự
chủ. tự lực, tự cường luôn giữ vai tro quyết định mọi thắng lợi.
1 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr. Õ22. 350
12
13
PHẦN III. TƯ TƯỞNG ĐỐI NGOẠI HỒ CHÍ MINH VỚI SỰ NGHIỆP
ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
3.1. Quá trình Đảng ta nhận thức sâu sắc giá trị khoa học và thực tiển của
tư tưởng Hổ Chí Minh nói chung, tư tưởng đối ngoại của Người nói riêng
đối với sự nghiệp đổi mới.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), trong khi khăng định; đổi mới
đang là yêu cầu bức th iết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống
con; sự nghiệp đổi mới trưốc hết là đối mới tư duy và “muôn đổi mới tư duy.
Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh”[1]. Một trong những kinh nghiệm mà Đại hội VII (6-1991) rút ra từ
thực tiễn đổi mới kể từ Đại hội VI là “Điều kiện cốt yếu để công cuộc đổi mới
giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa và đi đến thành công là trong quá trình
đổi mới Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai tro lãnh đạo xã hội”. Đại hội VII nhấn mạnh;
“Trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu
của Đảng và của cả dân tộc”[2]. Đến Đại hội IX, bài học đầu tiên mà Đảng ta
rút ra được từ quá trình 15 năm (1986 -2000 ) đổi mới là trong quá trình đổi
mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở
thành nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách
mạng Việt Nam.
Trước những biến động phức tạp của tình hình thế giối trong thoi gian gần
đây, để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, một trong những yêu cầu cấp
bách là phải đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu, vận dụng và giáo dục tư tưởng
Hồ Chí Minh trong toàn Đảng và toàn dân. Chính vì vậy, ngày 27-3-2003 Ban
Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra chỉ thị nêu rõ: “Bước sang thế
kỷ XXI, đất nước ta có cơ hội lớn, nhưng đang đứng trước những thách thức
14
không nho, tình hình thế giới đang diễn biến phức tạp, khó lường. Để thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong thời kỳ phát triển mối, cần thấm
nhuần sâu sắc, vận dụng sáng tạo những nguyên lý và phương pháp luận của
chủ nghĩa M ác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết những v ấn đề thực
tiễn trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quôc
phong, đôi ngoại, xây dựng Đảng và hệ thông chính trị, trong đó việc tổ chức
học tập tư tưởng Hồ Chí M inh là một nhiệm vụ mấu chốt”[4]. Mục đích yêu
cầu mà bản Chỉ thị đề ra là: “Làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức
sâu sắc nguồn gốc, nội dung, giá trị, vại tro của tư tưởng Hồ Chí Minh...; làm
cho... tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng giữ vai tro chủ đạo trong đoi sống tinh
thần, tư tưởng của xã hội ta”. Như vậy, quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh vào thực tiễn công cuộc đổi mối đã ngày càng khăng định vị trí to lớn và
vai tro kim chỉ nam của tư tưởng Hồ Chí M inh đối với đời sống cách mạng
Việt Nam.
3.2 . Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đối ngoại Việt Nam
thời kỳ đổi mới
Từ giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, tình hình trong nước và thế giới có nhiều
biến động phức tạp:
Ở trong nước, tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng nghiêm
trọng, cách mạng Việt Nam đứng trước những thách thức to lớn. Tình hình quốc
tế diễn biến phức tạp, các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng trầm
trọng. Đến đầu thập kỷ 90 của th ế kỷ XX, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
sụp đổ, đã dẫn đến những biến đổi cơ bản nền chính trị thế giới và quan hệ
chính trị quốc tế. Trật tự th ế giới hình thành từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ
hai trên cơ sở hai khối đối lập do Liên Xô và Mỹ đứng đầu (trật tự hai cực) tan
rã, mở ra thời kỳ quá độ hình thành một trật tự thế giới mới.
15
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, tạo thành
bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và đẩy nhanh quá trình quốc tế
hóa các lực lượng sản xuất.
Trong quan hệ chính trị quốc tế, diễn ra xu thế: “Cuộc đấu tranh trên lĩnh
vực kinh tế có ý nghĩa chính trị ngày càng quan trọng đôi vói kết cục của cuộc
đấu tranh giữa hai hệ thông... Giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau, sự lựa
chọn duy nhất đúng đắn là thi đua về kinh tế, về lối sông... và cuộc thi đua này
chỉ có thể thực hiện trong hoàn cảnh hoa bình được bảo đảm vững chắc”. Trước
diễn biến của tình hình quốc tế và những khó khăn trong nước, đứng vững trên
lập trưong, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Đại hội VI đã
dung cảm tự phê bình, từ đó đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước
ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong đó, đổi mới
về đối ngoại là một bộ phận hữu cơ của sự nghiệp đổi mới.
Về đối ngoại, Đảng ta chủ trương: “Phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc
với sức mạnh của thờii đại trong điều kiện mới... sư dụng tốt mọi khả năng mở
rộng quan hệ thương mại, hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài
để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”[2]. Để đối phó và làm thất
bại âm mưu bao vây, cô lập nước ta về kinh tế, chính trị, Đảng ta chủ động
chuyển cuộc đấu tranh từ tình trạng đốì đầu sang đấu tranh và hợp tác trong
cùng tồn tại hoa bình; kiên quyết mở rộng quan hệ quốc tế, thực hiện chính sách
đối ngoại rộng mở. Việc Đảng quyết định đổi mới chính sách đốĩ ngoại là phù
hợp với quan điểm của Hồ Chí Minh về tình hình mới phải đặt ra nhiệm vụ mối,
phương châm mới, chính sách mới, sách lược mới nhằm đáp ứng yêu cầu thực
tiễn Việt Nam và phù hợp với xu thế quốc tế.
Kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI, căn cứ vào yêu cẩu, nhiệm vụ trong nước và
xu thế quôc tế, Đảng lại đề ra các mục tiêu cụ thể cho đối ngoại. Nghị quvết 13
của Bộ Chính trị khóa VI (5-1988) về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong
tình hình mới, khảng định: “Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải
16
củng cố và giữ vững hoa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế.
Đó là nhân tố quyết định củng cố, giữ vững an ninh và độc lập”[2] .
Đại hội VII xác định nhiệm vụ đối ngoại bao trùm là: “Giữ vững hoa bình,
mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quổc, góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giối vì hoa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội”. Đại hội IX (4-2001) tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ của công tác
đối ngoại là giữ vững môi trường hoa bình và tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi
để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, mục tiêu, nhiệm vụ của công tác đôi ngoại trong thời kỳ đổi mới
được Đảng ta đặt ra một cách cụ thể, sát hợp với tình hình trong nưóc và quốc
tế, đã thể hiện rõ nét sự kế thừa sáng tạo phương châm tư tưởng đối ngoại Hồ
Chí Minh là: mục đích của ta là bất di, bất dịch, nguyên tắc của ta thì phải vững
chắc, nhưng sách lược của ta thì phải linh hoạt theo tinh thần “dĩ bất biến, ứng
vạn biến”.
Đại hội Đảng lần thứ VII (6-1991), khăng định chủ trương “hợp tác bình
đăng và cùng có lợi với tấ t cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã
hội khác nhau, trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoa bình”[2], với phương
châm “Việt Nam muôn là bạn với tất cả các nưốc trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hoa bình, độc lập và phát triển”. Chủ trương này của Đại hội VII rất
phù hớp với tư tưởng Hồ Chí Minh vể chính sách đối ngoại của nước Việt Nam
mới: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán vối một ai”,
được Người nêu ra từ năm 1947. Đại hội VIII (6-1996) nhấn mạnh việc mở
rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phuơng và đa phương với các
nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế trên nguyên tắc tôn
trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau, bình đăng, cùng có lợi. Đại hội IX, trên cơ sở nhận thức
sâu sắc bối cảnh thế giối và quan hệ chính trị quốc tế, đồng thời cảm nhận đầy
đủ “thế” và “lực” của đất nước sau 15 năm đổi mối, đã phát triển phương châm
17
của Đại hội VII “Việt Nam muốn là bạn với các nước trong cộng đồng quốc
tế...” thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế, phân đấu vì hoa bình, độc lập và phát triển”[4]. Việc các Đại
hội VII, VIII, IX của Đảng khăng định và tiếp tục chủ trương mở rộng quan hệ
hợp tác song phương, đa phương với cộng đồng quốc tế, chính là sự vận dụng
và phát trien trong điều kiện mới chính sách đối ngoại rộng mở của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ trong Lời kêu gọi
Liên Hợp quốc (năm 1946) với quan điểm cốt lõi: “Đối với các nước dân chủ,
nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cưa và hợp tác trong mọi lĩnh
vực”.
Một vấn đề quan trọng trong tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh là quan điểm;
độc lập, tự chủ, tự lực tự cường gắn với đoàn kết, hợp tác quôc tế; trong quan hệ
với bên ngoài phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, phải lấy sức ta mà giải
phóng cho ta. Quan điểm trên đây của Hồ Chí Minh đã được Đảng ta thấm
nhuần, quán triệt trong chủ trương và hoạt động đối ngoại thời kỳ đổi mới. Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư khóa VIII (12-1997) đã nhấn mạnh việc
phát huy nội lực kết hợp với mở rộng hợp tác quốcc tế là vấn đề cơ bản quyết
định thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và duy trì sự phát triển
bền vững cho dất nưóc. Một trong những chính sách lớn mà Nghị quyết để ra là:
“Trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các
nguồn lực bên ngoài”. Trong Văn kiện Đại hội IX, Đảng ta đã làm rõ và nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trước bối
cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa. Văn kiện viết: “Xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm
lực kinh tế đủ mạnh. Xâv dựng nển kinh tê độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ
động hội nhập kinh tế quôc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại,
kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất
nước”[4]. Thực tiễn cho thấy việc vận dụng sáng tạo quan điểm Hồ Chí Minh
về xây dựng thực lực mọi mặt của đất nước tạo nền tảng cho quá trình hội nhập,
18
hợp tác kinh tế với bên ngoài đã đem lại những thành công to lớn cho hoạt động
đối ngoại thời kỳ đổi mới, góp phần phát triển nến kinh tế đất nước và nâng cao
vị thế của Việt Nam trong quan hệ chính trị quốc tế.
19
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại được hình thành trên cơ sở những giá
trị tốt đẹp của truyền thông dân tộc, trong dó đặc biệt là chủ nghĩa yêu nưốc,
truyền thông văn hóa, truyền thống ngoại giao của dân tộc và yêu cầu của thực
tiễn cách mạng Việt Nam từ đầu thê kỷ XX cần phải có một con đường giải
phóng dân tộc đúng đắn, với một. quan điếm đoàn kết quốc tế phù hợp. Hơn
nữa, trái qua các cuộc kháng chiến chống lại những kẻ thù xâm lược có sức
mạnh kinh tế, quân sự hơn Việt Nam nhiểu lần, càng đoi hoi phải có một quan
điểm quốcc tế dúng đắn, một phương pháp ứng xư khéo léo mới có thê tập hợp
được các lực lượng bên ngoài hỗ trợ cho cuộc kháng chiến giành thắng lợi.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đốì ngoại nói riêng và di sản tư tưởng cách mạng
của Người nói chung đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của
cả dân tộc, trở thành kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn dân. Tư
tưởng của Ngưoi đã, đang được tăng cường nghiên cứu, quán triệt, vận dụng
vào sự nghiệp đổi mối và đã đạt được những kết quả to lớn.
20
- Xem thêm -