LỜI MỞ ĐẦU
Đại hội Đảng VI đã mở ra một trang mới cho lịch sử kinh tế
Việt Nam. Bước ngoặt này có ý nghĩa trọng đại: Biến nền kinh tế
Việt Nam từ kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp, thành nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bước ngoặt này
đánh dấu sự thay đổi, phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế xã hội
Việt Nam. Sự phát triển này phải chăng là kết quả của Việt Nam
trước Đại hội Đảng VI? Và sự phát triển nào phải chăng cũng cần
trải qua một thời kỳ gọi là. Thời kỳ quá độ?
Lênin - Nhà lãnh đạo lỗi lạc - nhà quản lý xã hội thiên tài đã
luôn luôn nhìn xã hội bằng con mắt của nhà quản lý, và với tầm
nhìn chiến lược hàm chứa phép biện chứng sâu sắc. Ông luôn luôn
muốn thay thế xã hội bằng xã hội khác tốt hơn. Bởi vậy ông đã
nói” “Sự phát triển là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập”.
Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy
triết học gắn liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy:
Biện chứng và siêu hình. Chính cuộc đấu tranh lâu dài của hai
phương pháp này đã thúc đẩy tư duy triết học phát triển và hoàn
thiền dần với thắng lợi của tư duy biện chứng duy vật.
Triết học khi nói đến phát triển thì luôn chú ý đến nguồn gốc
và động lực của phát triển và khuynh hướng của sự phát triển.
Sự đòi hỏi của các yếu tố khách quan trong sự phát triển của
sự vật hiện tượng đó là mâu thuẫn tất yếu biện chứng. Phép biện
1
chứng nói rằng: Sự vật nào cũng có mặt trái ngược, cũng chứa
động mâu thuẫn bên trong của nó, bản thân sự vật, cả trong tự
nhiên và trong xã hội.
Trong các mặt đối lập bao giờ cũng có sự đấu tranh gạt bỏ
lẫn nhau. Phép biện chứng đã tìm thấy sự thấp nhất giữa các mặt
đối lập. Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau mà lẫn vào
nhau, thâm nhập trong nhau, mặt này chứa đựng mầm mống của
mặt kia, chúng tác đọng qua lại lẫn nhau làm điều kiện cho nhau
tồn tại và phát triển. Sự phát triển từ cái này thành cái khác cần
một thời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Trong nền kinh tế sự phân công
lao động toạ ra mối quan hệ hữu cơ giữa người và người tạo ra sự
phát triển xã hội. Lênin nói “Do phân công lao động, ai lo cho
người ấy, mọi người vì một người, một người vì mọi người, và
phải tìm thấy mình trong người khác, còn chúa không thể lo cho
người được".
Thời kỳ quá độ hiện nay ở Việt Nam là thời kỳ ủ mầm của
một xã hội phát triển, trong đó phân công lao động đang diễn ra
mạnh mẽ, đó là sự đấu tranh giữa những mặt đối lập của cơ chế cũ,
và đang báo hiệu một tương lai tươi sáng, một nền kinh tế phát
triển bền vững.
Đề tài: Lênin nói "Sự phát triển là cuộc đấu tranh của các
mặt đối lập" từ luận điểm trên làm rõ cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng của Việt Nam trong thời kỳ quá độ"
2
3
I. QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ MÂU THUẪN GIỮA CÁC
MẶT ĐỐI LẬP CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG
Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy
triết học gắn liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy biện chứng và siêu hình. Chính cuộc đấu tranh lâu dài của hai
phương pháp này đã thúc đẩy tư duy triết học phát triển và được
hoàn thiện dần với thắng lợi của tư duy biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận
và phương pháp. Hệ thống các quy luật, phạm trù của nó không chỉ
phản ánh đúng đắn thế giới khách quan mà còn chỉ ra những thách
thức để định hướng cho con người trong nhận thức thế giới và cải
tạo thế giới. Phép biện chứng duy vật không chỉ khái quát những
thành tựu của tất cả các khoa học cụ thể, mà còn kết tinh những
tinh hoa trong quá trình phát triển tư tưởng triết học của nhân loại.
Phép biện chứng duy vật trình bày một cách có hệ thống chặt chẽ
tính chất biện chứng của thế giới thông qua những phạm trù và
những quy luật chung nhất của thế giới (tự nhiên, xã hội và tư
duy).
Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa
phương pháp luận chỉ đạo mọi hoạt động của con người, trong đó,
quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (gọi tắt là
quy luật mâu thuẫn) là hạt nhân của phép biện chứng. Quy luật này
vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển; phản ánh quá trình
4
đấu tranh giải quyết mẫu thuẫn bên trong sự vật. Từ đó, phải vận
dụng nguyên tắc mâu thuẫn mà ý đồ cơ bản của nó là phải nhận
thức đúng đắn mâu thuẫn của sự vật, trước hết là mâu thuẫn cơ bản
và mâu thuẫn chủ yếu, phải phân tích mâu thuẫn và quá trình đấu
tranh giải quyết mâu thuẫn. Đấu tranh là phương thức giải quyết
mâu thuẫn. Lênin nói "Sự phát triển là một cuộc "đấu tranh" giữa
các mặt đối lập". Tuy nhiên, hình thức đấu tranh rất đa dạng, linh
hoạt, tuỳ thuộc mâu thuẫn cụ thể và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Theo quan điểm biện chứng thì sự vật nào cũng là một thể
thống nhất của các mặt đối lập, tức là, các mặt có xu hướng,
khuynh hướng trái ngược nhau. Chính sự tác động lẫn nhau giữa
các mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn sự vật.
Khi nói mâu thuẫn biện chứng là nói đến mâu thuẫn tất yếu
của những mặt trái ngược nhau, ví dụ, điện có cực âm, cực
dương… Trong các mặt đối lập, chúng vừa đấu tranh với nhau (với
nghĩa tác động theo xu hướng trái ngược nhau) nhưng các mặt đối
lập lại là thống nhất với nhau.
Thống nhất là tồn tại không tách rời nhau, làm điều kiện cho
nhau tồn tại, phát triển, có mặt này thì mới có mặt kia. Thống nhất
còn bao hàm thâm nhập nhau, trong mặt này chứa đựng mầm
mống mặt kia, cho nên, chúng ta không nên tạo ra hàng rào tuyệt
đối giữa các mặt đối lập mà phải thấy được có sự chuyển hoá giữa
các mặt đối lập. Chuyển hoá có trình độ từ thấp đến cao và dẫn đến
5
sự chuyển hoá cuối cùng, tức là khi mâu thuẫn đã được giải quyết.
Chuyển hoá cuối cùng có hai hình thức cơ bản: hình thức thay đổi
vị trí cho nhau và hình thức các mặt đối lập cũ mất đi và hình
thành những mặt đối lập mới.
Hầu hết các nhà triết học đều cho rằng thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập đều có vai trò trong sư phát triển của sự vật.
Tuy nhiên, tuỳ từng giai đoạn phát triển mà ta phải nhấn mạnh mặt
này hay mặt kia. Khi sự vật còn ở giai đoạn phát triển, khi mâu
thuẫn chưa gay gắt thì khi đó mặt thống nhất giữ vai trò chủ đạo,
còn khi mâu thuẫn trở nên gay gắt, đấu tranh để giải quyết mâu
thuẫn lại là chủ đạo, chính yếu.
Ngày nay, sự "thống nhất" của các mặt đối lập ngày càng mở
rộng. Những giải pháp khoa học và kỹ thuật tiên tiến, những vấn
đề toàn cầu… tạo ra môi trường thuận lợi cho sự mở rộng đó. Vì
vậy, bước chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội không thể không mang những hình thái đặc thù: có
thể cho phép các nước kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua một hay nhiều giai đoạn nào đó trong sự phát triển tư bản chủ
nghĩa.
II. VẬN DỤNG QUY LUẬT MÂU THUẪN TRONG THỜI
KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM
Nước ta đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm cơ bản nhất của thời kỳ quá
6
độ là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần và xã hội nhiều giai
cấp. Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế có tính chất quá độ. Nó
không còn là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng cũng chưa hoàn
toàn là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
2.1. Tính tất yếu tồn tại nhiều thành phần kinh tế (TPKT)
ở Việt Nam
Trong bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào cũng có phương
thức sản xuất giữ vị trí chi phối. Ngoài ra, còn có phương thức sản
xuất tàn dư của xã hội trước và phương thức sản xuất mầm mống
của xã hội tương lai. Các phương thức sản xuất này ở vào địa vị lệ
thuộc, bị chi phối bởi phương thức sản xuất thống trị.
Thành phần kinh tế là một loại hình của quan hệ sản xuất xác
định tương ứng với trình độ và trình độ của lực lượng sản xuất nhất
định đã ra đời nhưng chưa đạt tới độ thống trị trong nền kinh tế
hoặc đang bị thủ tiêu dần.
Như vậy, phạm trù thành phần kinh tế và phương thức sản xuất
đều phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, nhưng không đồng nhất về nội dung. Trong thời
kỳ quá độ, mỗi phương thức sản xuất khi chưa hoặc không đóng
vai trò thống trị, cũng không bị trị, lệ thuộc mà tồn tại như những
"bộ phận", những "mảnh" trong mối quan hệ vừa thống nhất "xen
kẽ", vừa đấu tranh bài trừ gạt bỏ, phủ định lẫn nhau của kết cấu
kinh tế xã hội, thì đó là thành phần kinh tế. Khi một thành phần,
7
một bộ phận nào đó giữ một vai trò thống trị đối với các thành
phần (bộ phận, hình thức kinh tế khác) thì nó là một phương thức
sản xuất đại diện cho hình thái kinh tế - xã hội đó.
Mỗi thành phần kinh tế có kiểu tổ chức sản xuất kinh doanh
của nó hợp thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Nền kinh tế - xã hội nước ta tồn tại nhiều thành phần kinh tế là
vì các lý do sau:
- Khi giành chính quyền thì chính quyền mới tiếp quản nền
kinh tế chủ yếu dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, gồm hai
loại là tư hữu lớn (kinh tế tư bản chủ nghĩa) và tư hữu nhỏ (sản
xuất nhỏ cá thể). Phương thức sản xuất cũ chưa thể mất đi, do đó
tồn tại thành phần kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế cá thể,
thành phần kinh tế hợp tác.
- Trong một nền kinh tế thì các ngành, vùng kinh tế phát triển
không đều về lực lượng sản xuất, tương ứng với nó là những quan
hệ sản xuất, đó chính là cơ sở nảy sinh các thành phần kinh tế khác
nhau.
- Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế - chính trị, các nước đều cần
đầu tư của nước ngoài, hình thành thành phần kinh tế tư bản Nhà
nước, đó là sự kết hợp đầu tư giữa nhà nước với các nhà tư bản,
các công ty trong nước và ngoài nước.
8
- Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn; để
giữ vững chính quyền cộng sản thì phải xây dựng thành phần kinh
tế mới là kinh tế quốc doanh hay kinh tế nhà nước.
Thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành
phần kinh tế khác đóng vai trò tích cực trong quá trình phát triển
nền kinh tế - xã hội.
2.2. Các thành phần kinh tế ở Việt Nam
Trên cơ sở nhận biết được tính tất yếu của việc tồn tại nhiều
thành phần kinh tế ở Việt Nam, Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam
lần thứ VIII đã xác định nước ta hiện nay có 6 thành phần kinh tế
như sau:
9
2.2.1. Thành phần kinh tế nhà nước
- Là thành phần kinh tế mà vốn chủ yếu dựa trên sở hữu nhà
nước hoặc phần sở hữu Nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế. Kinh tế
Nhà nước gồm hai loại: Doanh nghiệp nhà nước và kinh tế nhà
nước phi doanh nghiệp (tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng, tài
chính, dự trữ nhà nước…)
- Đặc điểm:
+ Thuộc sở hữu nhà nước
+ Thường bảo đảm những cân đối lớn trong nền kinh tế
+ Vai trò: chủ đạo, mở đường, duy trì bộ máy nhà nước.
- Xu hướng vận động: Tồn tại lâu dài và có vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế.
2.2.2. Thành phần kinh tế hợp tác.
- Là sự liên kết kinh tế tự nguyện của các chủ thể kinh tế với
các hình thức đa dạng, linh hoạt, phù hợp với nhu cầu, khả năng và
lợi ích của các bên tham gia, có thể dẫn tới hoặc không dẫn tới
pháp nhân. Nòng cốt của thành phần kinh tế này là hợp tác xã:
HTX nông nghiệp, thủ công, cổ phần…
- Đặc điểm:
+ Sở hữu hỗn hợp
+ Là hình thức kinh tế linh hoạt, hiệu quả
+ Một chủ thể có thể tham gia vào nhiều hợp tác xã.
10
+ Sản xuất kinh doanh dịch vụ ở tất cả các ngành trong nền
kinh tế
- Xu hướng vận động: Tồn tại lâu dài, có thể trở thành kinh tế
tư bản tư nhân hoặc kinh tế tư bản Nhà nước.
2.2.3. Thành phàn kinh tế tư bản nhà nước
- Là thành phần kinh tế mà Nhà nước và các nhà tư bản trong
và ngoài nước hợp tác đầu tư qua việc liên doanh liên kết.
- Đặc điểm
+ Sở hữu hỗn hợp
+ Có sức mạnh về vốn, công nghệ, thị trường
+ Sản xuất kinh doanh chủ yếu ở những ngành có lợi nhuận
cao
+ Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh, tạo ra những
ngành nghề, sản phẩm mới.
- Xu hướng vận động: tồn tại lâu dài, có thể chuyển hoá thành
phần kinh tế tư bản tư nhân hoặc kinh tế nhà nước.
2.2.4. Thành phần kinh tế cá thể
- Là thành phần kinh tế hs sản xuất kinh doanh dựa vào vốn và
sức lao động của bản thân là chính.
- đặc điểm:
+ Từ hữu nhỏ.
+ Người có sức lao động đồng thời là người có vốn, nếu có
thuê thêm lao động thì gọi là tiểu chủ.
11
+ Hết sức manh mún và lệ thuộc.
- Xu hướng vận động: Tồn tại lâu dài, có thể chuyển hoá thành
kinh tế hợp tác, tư bản tư nhân hoặc kinh tế Nhà nước.
2.2.5. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân:
- Là thành phần kinh tế mà vốn do các nàh tư bản trong và
ngoài nước đầu tư.
- Đặc điểm:
+ Tư hữu lớn.
+ Thuê và bóc lột lao động làm thuê.
+ Thường chỉ kinh doanh những ngành ít vốn, lãi cao.
+ Mạnh về vốn, linh hoạt.
- Xu hướng vận động: Tồn tại lâu dài, xã hội đòi hỏi phát triển
thành phần kinh tế này, có thể chuyển thànah kinh tế hợp tác, kinh
tế Nhà nước hoặc tư bản Nhà nước.
12
2.2.6. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Thành phần kinh tế này bao gồm phần vốn đầu tư của nước
ngoài vào các cơ sở sản xuất, kinh doanh ở nước ta. Các doanh
nghiệp thuộc thành phần kinh tế này có thể có 100% vốn đầu tư
nước ngoài, có thể liên kết, liên doanh, vói doanh nghiệp Nhà nước
hoặc doanh nghiệp tư nhân ở nước ta.
Thành phần kinh tế này được tạo điều kiện phát triển thuận lợi,
hướng vào suất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, gắn
với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. So với
Đại hội VIII, Đại hội IX đã tách thành một thành phần kinh tế
riêng không để trong thành phần kinh tế tư bản nhà nước.
Đại hội IX cũng chỉ có: "Thực hiện nhất quán chính sách phát
triển kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh
theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN cùng phát triển lâu dài hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đoạ. kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
2.3. Tính thống nhất và mâu thuẫn giữa các thành phần
kinh tế.
Nền kinh tế hàng hoá quá độ trong đó tồn tại nhiều thành phần
kinh tế với những kiểu sản xuất hàng hoá không cùng bản chất,
vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn với nhau.
13
Tính thống nhất của các thành phần kinh tế thể hiện:
- Các thành phần kinh tế trong quá trình hoạt động không biệt
lập nhau, mà gắn bó đan xem xâm nhập lẫn nhau thông qua các
mối quan hệ kinh tế, vì chúng đều là các bộ phận của hệ thống
phân công lao động xã hội thống nhất.
- Mỗi thành phần kinh tế có vai trò và chức năng của nó trong
đời sống kinh tế - xã hội và đều chịu sự quản lý thống nhất của
Nhà nước.
- Sự thống nhất của các thành phần kinh tế còn vì yếu tố điều
tiết thống nhất của hệ thống các quy kinh tế đang tác động trong
thời kỳ quá độ và thị trường thống nhất.
Tuy nhiên, các thành phần kinh tế này tồn tại trong mâu thuẫn.
Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế với nhau thể hiện ở:
+ Mâu thuẫn giữa công hữu và tư hữu.
+ Mâu thuẫn giữa tư nhân với tập thể, với Nhà nước.
+ Mâu thuẫn giữa xu hướng tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ
nghĩa.
Mâu thuẫn là động lực của mọi sự vận động và phát triển.
Trong hệ thống thống nhất của nền kinh tế quá độ chứa đựng
những sự đối lập, những khuynh hướng đối lập, một mặt bài trừ
phru định lẫn nhau, cạnh tranh với nhau; mặt khác, chúng thống
nhất với nhau, thâm nhập, nương tựa vào nhau để tồn tại và phát
triển thông qua hợp tác và cạnh tranh, liên doanh, liên kết.
14
Các thành phần kinh tế đều được thừa nhận tồn tại khách quan
và Nhà nước tạo điều kiện và môi trường để chúng tồn tại trên thực
tế. Đồng thời, các thành phần kinh tế cần được bình đẳng trước
pháp luật.
Tuỳ khả năng và trình độ xã hội hoá từng thành phần kinh tế
và sự đan xen liên kết đa dạng lẫn nhau giữa chúng, giải phóng
mọi năng lực sản xuất kinh doanh, phát triển lực lượng sản xuất,
phát triển sản xuất và lưu thông, phát triển và mở rộng thị trường,
tạo ra công ăn việc làm, khối lượng sản phẩm cho xã hội, nâng cao
đời sống nhân dân.
Trong quá trình cạnh tranh và hợp tác, từng thành phần kinh tế
tồn tại với tư cách là đơn vị sản xuất hàng hoá để vươn lên tự
khẳng định mình và phát triển theo quỹ đạo chung, chịu sự quản lý
của Nhà nước.
Cần phân biệt các thành phần kinh tế vì từ đặc điểm lịch sử
hình thành và bản chất vốn có của mỗi thành phần kinh tế có vị trí,
vai trò, chức năng, tiềm năng, xu hướng phát triển khác nhau.
Chính sự khác nhau đó là cơ sở để phân biệt các thành phần kinh
tế, nhằm phát huy tác dụng tích cực và hạn chế ảnh hưởng teieu
cực của chúng với sự phát triển kinh tế - xã hội. Và chỉ có đường
lối, chính sách phân biệt như vậy mới có tác dụng thúc đẩy sự phát
triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phải nhấn mạnh
rằng, không chỉ phân biệt các thành phần kinh tế mà nội dung từng
15
thành phần kinh tế càng phải phân biệt. Khi phân tích chính sách
của Đảng với nông dân, Lênin chỉ rõ "phải phân biệt và phân định
rõ ranh giới giữa người nông dân lao động với người nông dân con
buôn, giữa người nông dân cần lao động với người nông dân đầu
cơ. Tất cả thực chất của chủ nghĩa xã hội nằm trong sự phân định
ranh giới đó".
Như vậy, toàn bộ hoạt động của Nhà nước thực hiện trước hết
bằng pháp luật, các văn bản pháp luật, các chủ trương, chính sách
kinh tế - xã hội, cơ chế quản lý, các biện pháp, phương tổ chức
thực hiện… Không thể không tín đến sự nhất quán giữa các thành
phần kinh tế và sự phân biệt giữa chúng,. Trong sự thống nhất đã
chứa đựng sự phân biệt và phân biệt giữa chúng. Trong sự thống
nhất đã chứng đựng sự phân biệt để thống nhất.
16
KẾT LUẬN
Thừa nhận sự tồn tại của 6 thành phần kinh tế dựa trên 3 hình
thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất cũng có nghĩa là thừa nhận
cả những xu hướng vận động khác nhau của mỗi thành phần kinh
tế vì lợi ích riêng của chúng, trong đó tiềm ẩn cả khả năng phát
triển theo hướng TBCN. Điều đó càng trở nên hiện thực trong xu
thế toàn cầu hoá với sự chi phối của các thế lực tư bản tài chính
quốc tế mong muốn thúc đẩy sự phát triển kinh tế nước ta theo con
đường tư nhân hoá. Do đó, quan hệ sản xuất mới từng bước được
xác lập phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất, kinh tế nhà nước
thực hiện tốt vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần
trở thành nền tảng của nền kinh tế, kinh tế tư bản nhà nước dưới
các hình thức khác nhau tồn tại phổ biến, kinh tế cá thể tiểu chủ,
kinh tế tư bản tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể. Như vậy, cần quán
triệt một số yêu cầu cơ bản sau:
- Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi
nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống
nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển
các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh.
- Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế
nhà nước, kinh tế hợp tác, làm cho kinh tế nhà nước đóng vai trò
chủ đạo cùng với nền kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng
17
của nền kinh tế quốc dân. Tạo điều kiện để các nhà kinh doanh tư
nhân yên tâm đầu tư kinh doanh lâu dài. áp dụng phổ biến các hình
thức kinh tế tư bản nhà nước.
- Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao
động trong nền sản xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngày
một tốt hơn.
- Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế chủ yếu, đồng thời phân phối dựa
trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh
doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
- Tăng cường hiệu quả quản lý vĩ mô của nhà nước, phát huy
mặt tích cực của cơ chế thị trường. Bảo đảm sự bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ trước pháp luật của mọi doanh nghiệp và cá
nhân, không phân biệt thành phần kinh tế.
18
- Xem thêm -