ĐẶT VẤN ĐỀ
Công trình lâm sinh là những diện tích rừng, vườn rừng giống, vườn
cây đầu dòng… Được tạo thành từ việc thực hiện các hoạt động lâm sinh và
xây dựng các hạng mục công trình hạ tầng cơ sở kĩ thuật cần thiết. Các hoạt
động lâm sinh như: Trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh tự nhiên, nuôi dưỡng
rừng, cải tạo rừng tự nhiên, làm giàu rừng… Các hoạt động này được thực
hiện trong các dự án công trình lâm sinh.
Thiết kế công trình lâm sinh là quá trình khảo sát điều kiện tự nhiên
như: Địa hình, hiện trạng thực bì, đất đai, khí hậu… và điều kiện kinh tế xã
hội. Đo vẽ xác định phạm vi của công trình ngoài thực địa và trên bản đồ,
xác định các thông số và giải pháp kỹ thuật lâm sinh, kỹ thuật xây dựng, xác
định nhu cầu vật tư kỹ thuật, nhân công và dự toán đầu tư công trình lâm
sinh.
Trong quá trình tiến hành thực hiện một dự án về công trình lâm sinh
khâu đánh giá và giám sát rất quan trọng vì: Giám sát nhằm kiểm tra các
hoạt động của Dự án theo kế hoạch đã đề ra và để có những điều chỉnh kế
hoạch nhằm đạt được kết quả tốt nhất của dự án. Đánh giá nhằm kiểm tra
một cách hệ thống và khách quan các kết quả trong quá trình thực hiện Dự
án, phân tích nguyên nhân thành công hay thất bại để cải thiện cho các dự án
khác.
Tuy nhiên, khái niệm về giám sát và đánh giá thường gây nhầm lẫn
cho nhiều nhà thiết kế lâm sinh, đặc biệt là những kỹ sư còn trẻ. Do đó cần
phân biệt rõ ràng 2 nhiệm vụ này để tránh nhầm lẫn khi thực hiện.
Chính vì vậy, em lựa chọn chủ đề cho bài bài tiểu luận như sau: “So
sánh sự khác nhau giữa giám sát và đánh giá nói chung và liên hệ trong
giám sát và đánh giá kỹ thuật trồng rừng nói riêng”
I. NỘI DUNG
1.1. Giám sát dự án.
1.1.1. Khái niệm về giám sát.
- Theo Quỹ NC và PT quốc tế: Giám sát là một quá trình liên tục được
thiết kế để theo dõi tiến độ của một dự án đang thực thi có phù hợp với kế
hoạch, chỉ số không và thay đổi nếu cần thiết.
- Theo chương trình phát triển của LHQ (UNDP): Giám sát là một
chức năng liên tục nhằm cung cấp sự quản lý và các bên liên quan chính của
một can thiệp liên tục với những chỉ số ban đầu của quá trình để từ đó đạt
được kết quả. Một can thiệp liên tục có thể là một dự án, một chương trình
hay loại hình hỗ trợ khác để đạt kết quả. Đánh giá là một quá trình được
thiết kế để xem xét kết quả của dự án đã hoàn thành và đang thực hiện, theo
5 tiêu chí: Tính phù hợp, hiệu quả, hiệu suất, ảnh hưởng và bền vững. Một
cách hệ thống và khách quan nhằm cải thiện dự án đang thực hiện và các dự
án khác.
1.1.2. Các hình thức giám sát.
Các hình thức giám sát bao gồm:
- Giám sát nội bộ
- Giám sát từ bên ngoài
- Giám sát tiến độ: So sánh tiến độ thực hiện và tiến độ thiết kế
- Giám sát tài chính: So sánh chi phí thực tế với dự toán tài chính
(Nguồn lực tài chính là nguồn lực dễ được sử dụng sai mục đích, do vậy cần
giám sát cẩn thận nguồn lực này)
- Giám sát chất lượng: Khảo sát hiện trường kết hợp phỏng vấn các
bên liên quan (Giám sát này cũng rất quan trọng, để thực hiện tốt việc giám
sát này cần giám sát qua hệ thống báo cáo, qua các cuộc họp giao ban định
kỳ, giám sát qua thực tế)
Tùy theo nội dung giám sát và yêu cầu của công tác giám sát mà có
thể sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như: giám sát qua tài liệu,
giám sát qua báo cáo, giám sát qua hội nghị giao ban…
Ngoài ra để đảm bảo tính khách quan của kết quả giám sát các thông
tin giám sát cần được thu thập từ nhiều nguồn, nhiều đối tượng khác nhau
nhằm loại trừ tình trạng biến lệch, phiến diện của thông tin. Nên thu thập
thông tin từ nhiều nguồn, kênh khác nhau để mang lại tính khách quan.
1.1.3. Trình tự và thủ tục giám sát.
- Lập kế hoạch giám sát: Khi lập kế hoạch giám sát người giám sát cần phải
chuẩn bị:
+ Lịch biểu giám sát
+ Các yêu cầu thông tin hậu cần, phương tiện giám sát
+ Có tiêu chí và chỉ tiêu giám sát
+ Lựa chọn được hình thức giám sát
+ Lựa chọn đơn vị giám sát.
- Xây dựng các tiêu chí và chỉ tiêu giám sát
- Thu thập thông tin giám sát (Nội dung và phương pháp thu thập theo đúng
hệ thống tiêu chí và chỉ tiêu giám sát, càng nhiều, càng đầy đủ, qua nhiều
kênh càng tốt)
- Tổng hợp và phân tích thông tin giám sát
- Tổ chức hội nghị giám sát (Nhằm mục đích củng cố hoàn thiện thông tin
giám sát)
- Viết báo cáo giám sát (Không mô tả dài dòng mà đi thẳng vào vấn đề quan
tâm)
1.2. Đánh giá dự án
1.2.1. Khái niệm về đánh giá.
- Theo UNDP, đánh giá là quá trình hướng tới “Một bài thực hành lựa
chọn nhằm đánh giá một cách hệ thống và khách quan tiến độ thực hiện dự
án hướng tới việc đạt được kết quả của Dự án”
- Đánh giá là giai đoạn cuối cùng của chu trình dự án. Điểm đầu tiên
của đánh giá dự án là nội dung các vấn đề, khi dự án đang tiến hành là đánh
giá việc giải quyết các vấn đề và khi kết thúc là đánh giá hiệu quả và tác
động của dự án.
Đánh giá không phải thực hiện một lần, tất cả những đánh giá cần
phải được kết nối với kết quả cuối cùng vì giám sát chỉ phản ánh việc thực
hiện và kết quả trước mắt.
Có 5 tiêu chí đánh giá trong giám sát:
- Tiêu chí 1: Sự thích hợp
Nhằm xem xét tính minh bạch và sự cần thiết của việc thực hiện Dự án và
được đánh giá theo các nội dung sau:
+ Tính cần thiết: Dự án có đáp ứng được như cầu của nhóm hưởng lợi mục
tiêu hay không?
+ Thứ tự ưu tiên: Dự án có phù hợp với Chính sách phát triển hay không?
+ Tính bền vững: Như là một công cụ để xác định mục đích, khối lượng,
phân bố giới…của nhóm hưởng lợi mục tiêu
- Tiêu chí 2: Hiệu quả
Xem xét các tác động của dự án qua các điểm sau:
+ Có đạt được mục tiêu dự án hay không?
+ Mối quan hệ nhân quả:
1) Các thành quả có đáp ứng được mục tiêu của dự án hay không?
2) Các giả thuyết quan trọng về sản phẩm đầu ra có đúng với mục tiêu dự án
không? Có ảnh hưởng gì từ những giả thuyết này?
3) Yếu tố nào hạn chế hay thúc đẩy dự án đạt được mục tiêu.
- Tiêu chí 3: Hiệu suất
Hiệu suất được đánh giá theo các điểm sau:
+ Sản xuất sản phẩm: Việc sản xuất có tạo đủ sản phẩm không?
+ Mối quan hệ nhân quả: Có đủ các hoạt động để sản xuất các sản phẩm
không? Các giả thuyết quan trọng về các hoạt động có tạo ra đúng sản phẩm
không? Có ảnh hưởng gì từ các giả thuyết quan trọng?
+ Thời gian: Khối lượng và chất lượng đầu vào có được cung cấp đúng thời
gian để thực hiện các hoạt động không?
+ Chi phí: So sánh với các dự án tương tự xem chi phí, mục tiêu, kết quả có
phù hợp không?
- Tiêu chí 4: Tác động
Đánh giá về những ảnh hưởng của dự án, kể cả những tác động nhỏ nhưng
thời gian dài qua các điểm sau:
+ Triển vọng đạt được mục tiêu tổng thể như là một tác động của dự
án thông qua đánh giá đầu vào, đầu ra và tình trạng dự án
+ Các mối quan hệ nhân quả: Tính thống nhất giữa mục tiêu tổng thể
và mục tiêu cụ thể; các giả thuyết với các mục tiêu…?
+ Các ảnh hưởng liên tục: Ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực. Ví dụ như
các ảnh hưởng tới chính sách, các khía cạnh XH…
- Tiêu chí 5: Tính ổn định
Xem xét tính ổn định sau khi không còn các hỗ trợ:
+ Các chính sách và hệ thống: Các chính sách có được hỗ trợ tiếp tục
sau khi kết thúc dự án không? Dự án có thể nhân rộng?
+ Các khía cạnh tổ chức và tài chính: Có đủ năng lực Tổ chức, kỹ
thuật và tài chính (nguồn lực) để tiếp tục dự án không?
+ Xã hội văn hóa và môi trường: có hoạt động nào của dự án bị cản
trở vì: Không xem xét tới nhóm người dễ bị tổn thương về mặt XH không
(phụ nữ, trẻ em…) và cần xem xét tới môi trường.
+ Tính bền vững khác nói chung.
1.2.2. Các loại đánh giá.
a) Theo thời điểm đánh giá
- Đánh giá giữa kỳ
- Đánh giá kết thúc dự án
- Đánh giá sau kết thúc (Đánh giá tác động)
b) Theo phạm vi chuyên môn
- Đánh giá toàn diện
- Đánh giá chuyên đề
c) Theo hình thức đánh giá
- Đánh giá nội bộ
- Đánh giá từ bên ngoài
1.2.3. Nội dung và phương pháp đánh giá
- Đánh giá tính thích hợp của dự án
- Đánh giá tính phù hợp của mục tiêu
- Đánh giá kết quả thực hiện các hoạt động
- Đánh giá chi phí – hiệu quả
- Đánh giá trình độ kỹ thuật đã áp dụng
- Đánh giá công tác tổ chức quản lý dự án
- Đánh giá ảnh hưởng (tác động) của dự án
- Đánh giá vai trò tham gia của các bên liên quan
1.2.4. Trình tự và thủ tục đánh giá
- Thành lập hội đồng đánh giá
- Chuẩn bị kế hoạch đánh giá
- Xây dựng các tiêu chí và chỉ tiêu đánh giá
- Tổ chức hội nghị đánh giá
- Viết báo cáo đánh giá
1.3. So sánh sự khác nhau giữa giám sát và đánh giá.
Đánh giá
Giám sát
- Liên tục hoặc định kỳ
- Bất thường, theo hoạt động
- Mục tiêu CT đã đạt được như đã đề ra - Mục tiêu CT được đánh giá liên quan
- Các chỉ số tiến trình xác định trước đến các MT cao hơn hoặc vấn đề phát
được coi là phù hợp
triển cần được giải quyết
- Theo dõi tiến trình dựa trên một số ít - Hiệu lực và tính phù hợp của các chỉ số
các chỉ số xác định trước
xác định trước để ngỏ để chất vấn
- Tập trung vào các kết quả dự định
- Đối phó với nhiều vấn đề khác nhau
- Xác định cả kết quả dự định và không dự
định
- Phương pháp định lượng
- Phương pháp định tính và định lượng
- Thông tin được thu thập thường - Nhiều nguồn thông tin
xuyên
- Không trả lời những câu hỏi về - Đưa ra câu trả lời cho những câu hỏi về
nguyên nhân
nguyên nhân
- Thường là hoạt động quản lý nội bộ.
- Thường được tiến hành bởi cán bộ đánh
giá bên ngoài và thường do cơ quan bên
ngoài đề xướng .
Ngoài ra có thể so sánh giám sát và đánh giá qua sự khác biệt chính như sau:
Chỉ tiêu
Đánh giá
Giám sát
- Cải thiện chất lượng dự án đang thực hiện
Mục tiêu
- Cải thiện chất lượng dự án khác
- Cải thiện sự minh bạch về sử dụng nguồn vốn
- Đánh giá kết quả của dự án đã
Nắm bắt hiện trạng tiến
Định nghĩa
độ sửa đổi kế hoạch và
hoạt động nếu cần
hoàn thành và dự án đang thực
hiện
- Cải thiện các dự án đang thực
hiện và các dự án khác, các bài
học kinh nghiệm
Trọng tâm
chính theo
PDM
Thời gian
Đầu vào, hoạt động, kết
quả và mục tiêu dự án
Trong giai đoạn thực
hiện
Mục tiêu và mục tiêu tổng thể,
kết quả của dự án trên cơ sở 5
tiêu chí đánh giá.
Trong giai đoạn thực hiện, khi
hoàn thành và sau khi hoàn
thành dự án.
Về nguyên tắc là những Về nguyên tắc là bên thứ ba
Bên thực hiện
bên tham gia thực hiện gồm các chuyên gia thuộc các
dự án
lĩnh vực khác nhau có liên quan.
Quá trình giám sát và đánh giá được tiến hành ở các thời điểm khác
nhau, mục tiêu, nội dung khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với
nhau.
1.4. Liên hệ trong giám sát và đánh giá kỹ thuật trồng rừng nói riêng.
Trong các dự án trồng rừng việc giám sát và đánh giá rất quan trọng,
đặc biệt trong khâu kỹ thuật trồng. Bởi nó quyết định hiệu quả của dự án.
Khác với các dự án trong các lĩnh vực khác, trồng rừng là một quá trình lâu
dài nên việc giám sát và đánh giá theo đó cũng được tiến hành trong thời
gian dài và thường xuyên. Cũng chính vì vậy, khi giám sát và đánh giá dự án
trồng rừng dễ dàng điều chỉnh và đem lại hiệu quả cao nếu giám sát và đánh
giá kịp thời, đúng lúc và thường xuyên.
Để dự án trồng rừng thành công, ngay từ các bước đầu như: khảo sát
điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội đã phải làm rất tốt và tránh có
sự thiếu sót.
Hiện nay, nhiều địa phương không làm tốt các khâu giám sát, đánh giá
do đó đã làm cho diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, nạn chặt phá rừng
ngày càng phổ biến. Lợi dụng việc giám sát, đánh giá mà nhiều địa phương
đã trở thành điểm nóng về sử dụng rừng không đúng mục đích.
Theo nguồn tin của báo nhân dân được đăng trên trang web
http://www.nhandan.com.vn. Hiện nay, tỉnh Phú Yên có chín dự án trồng
rừng kinh tế, trồng cao - su của các tổ chức, đơn vị bằng nguồn vốn tự huy
động, trong đó có bảy dự án đã triển khai, với tổng diện tích quy hoạch vùng
dự án hơn 35.192 ha, quy mô diện tích trồng rừng gần 20.000 ha. Nhiều khu
rừng đã khép tán, bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, trong quá
trình thực hiện dự án, nhiều doanh nghiệp có biểu hiện lợi dụng trồng rừng
để phá rừng dẫn đến sự phản ứng của người dân vùng dự án.
Vậy, nguyên nhân do đâu mà dẫn đến hiện tượng này?
Cũng theo nguồn tin cho biết: Nguyên nhân là do nhiều sai phạm so
với việc thiết kế: Công ty TNHH Bình Nam được UBND tỉnh Phú Yên quy
hoạch diện tích tự nhiên trồng rừng sản xuất hơn 3.157 ha tại ba xã Xuân
Lãnh, Xuân Quang 1 và Xuân Quang 2, trong đó diện tích đã thuê đất hơn
2.969 ha. Ðến nay, Công ty TNHH Bình Nam đã trồng rừng được gần
1.700 ha, đạt 56,3% kế hoạch dự án. Mới đây, cơ quan chức năng kiểm tra,
phát hiện doanh nghiệp này thực hiện phát dọn thực bì không đúng theo
quy định tại khu vực Hòn Gõ, xã Xuân Quang 2, huyện Ðồng Xuân, làm
ảnh hưởng đến rừng tự nhiên, gây bức xúc trong nhân dân. Theo thiết kế,
khi phát dọn thực bì rộng 50 m phải có chừa lại băng 10 m; không được
chặt hạ những cây có đường kính từ 10 cm trở lên, nhưng doanh nghiệp lại
tự ý phát rộng 100 m không chừa lại băng 10 m và tự ý chặt một số cây có
đường kính hơn 10 cm, là không đúng theo hồ sơ thiết kế được duyệt.
Ngoài ra, Công ty Bình Nam cũng không thực hiện đúng quy trình, quy
phạm đã được thống nhất, qua việc tiến hành phát dọn thực bì mà không
báo cáo kế hoạch trồng rừng cho UBND huyện Ðồng Xuân và chính quyền
xã biết, để giám sát việc trồng rừng...
Hay trong một dự án khác cũng ở tỉnh Phú Yên, nguyên nhân tương
tự như trường hợp kể trên: Năm 2009, UBND tỉnh Phú Yên cấp phép cho
Công ty cổ phần Tập đoàn kỹ nghệ gỗ Trường Thành (Bình Dương) được
đầu tư trồng rừng tại 33 xã thuộc tám huyện, thị xã trên địa bàn tỉnh Phú
Yên, với quy mô trồng mới 12.420 ha và cải tạo, khoanh nuôi bảo vệ 4.306
ha rừng. Công ty cổ phần Trường Thành Xanh (CP TTX) là đơn vị trực
thuộc triển khai thực hiện dự án này. Tại huyện Sơn Hòa, Công ty CP TTX
được phép đầu tư trên diện tích 4.247 ha, trong đó có 717,69 ha ở xã vùng
cao Phước Tân. Năm 2010, đơn vị đã trồng được 100 ha; năm 2011, tiếp
tục trồng 552,25 ha.
Tuy nhiên, khi triển khai phát dọn thực bì chuẩn bị hiện trường trồng
rừng, công ty không có kế hoạch, phương án triển khai, không báo cáo địa
phương và các đơn vị có liên quan, dẫn đến chưa có sự phối hợp kiểm tra,
giám sát. Do đó, việc phát dọn thực bì không đúng với thiết kế kỹ thuật
trồng rừng đã được phê duyệt. Cụ thể qua kiểm tra 81 ha đã phát dọn xử lý
thực bì, đơn vị này đã phát trắng theo lô, nhiều cây có đường kính từ 10 cm
đều bị chặt hạ. Tại hiện trường núi K’Bang ở thôn Tân Hải, xã Phước Tân,
chủ đầu tư đã phát dọn sạch cây rừng bên bờ suối, không hề chừa lại thực
bì mỗi bên 10-20 m để tạo băng cản lửa, chống sạt lở, xói mòn. Những vạt
rừng đã phát dọn trắng theo phương pháp cuốn chiếu. Công ty CP TTX còn
cho rằng, trong vùng dự án của công ty, đã có 55 hộ dân địa phương lấn
chiếm, phát dọn trắng 33,68 ha, kể cả cây có đường kính hơn 10 cm. Như
vậy, trách nhiệm chủ đầu tư trong việc quản lý, bảo vệ vùng dự án được
giao đất là chưa chặt chẽ.
Trên đây là một trong những ví dụ về việc lơi lỏng trong việc giám
sát khi tiến hành dự án, may mắn những sai sót đó đã được phát hiện kịp
thời, tuy nhiên đây cũng là những bài học sâu sắc cho các nhà giám sát,
đánh giá trồng rừng.
Một số dự án khác do không có sự giám sát và đánh giá sát sao ngay
từ giai đoạn đầu mà dẫn đến hiện tượng cây trồng chết hàng loạt, hoặc cây
trồng kém phát triển, không phù hợp với điều kiện khí hậu nơi trồng…
Điển hình như các dự án trồng cây cao su ở một số tỉnh vùng núi phía Bắc
nước ta do cây không chống chịu được hiện tượng sương muối mà dẫn tới
cây chết và không phát triển theo đúng mục tiêu đã đề ra trong dự án. Dẫn
đến hậu quả này do nhiều nguyên nhân dẫn đến, trong đó giám sát và đánh
giá cũng góp phần gây nên.
Tùy thuộc vào từng loại rừng, kiểu rừng mà cách giám sát và đánh
giá khác nhau. Chẳng hạn đối với rừng ngập mặn giám sát và đánh giá
được tiến hành ở một số giai đoạn như sau:
- Giám sát sự thành công của việc trồng rừng ngập mặn:
Giám sát sự thành công của việc trồng rừng thường được thực hiện 3 tháng
sau thời điểm trồng. Nó nhằm mục đích xác minh việc áp dụng các biện
pháp kỹ thuật và khối lượng công việc đã được xác định trong kế hoạch
trồng rừng hàng năm. Việc giám sát này xem xét diện tích rừng trồng theo
các loài cây khác nhau và điều kiện khu vực trồng. Các yếu tố cần giám sát
bao gồm tỷ lệ sống sót, phân bố cây con, kỹ thuật trồng rừng, biện pháp cải
tạo đất, chất lượng cây giống, điều kiện khu vực trồng, điều kiện đất, mực
nước thủy triều và lượng công việc.
- Giám sát chất lượng rừng trồng:
Giám sát chất lượng của rừng trồng thường tiến hành theo định kỳ 5
năm một lần, điều này cung cấp số liệu cơ bản và thông tin để xây dựng kế
hoạch xử lý lâm sinh trong nuôi dưỡng rừng, chăm sóc, quản lý, bảo vệ và
sử dụng rừng.
Loại dữ liệu giám sát này là hồ sơ theo dõi mật độ cây sống sót trong
rừng, tăng trưởng đường kính và chiều cao của cây, đường kính trung bình
của khu rừng, chiều cao và thể tích của thân cây; điều kiện lập địa; sâu
bệnh, hiệu quả quản lý rừng, bảo vệ rừng và các tác động của yếu tố bên
ngoài rừng.
- Giám sát cấu trúc rừng ngập mặn
Cấu trúc rừng ngập mặn bao gồm các yếu tố thành phần loài, chiều
cao tán cây, mật độ thân cây, tuổi, đường kính cây và thành phần loài. Nó
thay đổi giữa các loại rừng khác nhau, giữa cùng loại rừng tại các địa điểm
khác nhau. Thành phần của rừng ngập mặn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu
tố, bao gồm khí hậu, mức độ ngập triều, độ pH của đất, độ mặn, kích thước
hạt trầm tích và lượng nước ngọt. Giám sát cấu trúc rừng ngập mặn phải
được thực hiện theo chu kỳ trong khoảng thời gian đều đặn, chu kỳ giám
sát phụ thuộc vào tuổi của rừng; khoảng thời gian ngắn khi rừng còn non,
và chu kỳ dài hơn khoảng khi rừng trở nên thành thục (mỗi kỳ giám sát
cách nhau 5 năm). Việc giám sát rừng ngập mặn ghi nhận sự đa dạng và
cấu trúc của rừng ngập mặn tại một lập địa cụ thể, đồng thời cung cấp
thông tin về sự thay đổi trong khoảng thời gian dài. Đây cũng là các biện
pháp định lượng cấu trúc thành phần loài, mật độ cây và tổng tiết diện
ngang của thân cây.
- Đánh giá về sự thành công của các hoạt động trồng rừng:
Việc đánh giá thành công của các hoạt động trồng rừng dựa trên các
khía cạnh sau đây:
+ Diện tích rừng trồng các loài cây khác nhau và điều kiện khu vực
trồng so với diện tích trồng ban đầu.
+ Tỷ lệ sống sót và phân bố cây trên điều kiện lập địa; số cây đã chết
và các giải pháp để lấp đầy khoảng trống.
+ Có các kỹ thuật khai hoang đất trồng, tiêu chuẩn cây giống, kỹ
thuật trồng rừng có phù hợp với điều kiện lập địa không?
+ Điều kiện lập địa, điều kiện đất đai và mức độ thủy triều của các
khu vực trồng rừng.
+ Sâu bệnh.
+ Hiệu quả quản lý rừng và các biện pháp bảo vệ.
Tóm lại, giám sát và đánh giá là 2 quá trình khác nhau nhưng lại có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Làm tốt công tác giám sát và đánh giá, dự
án sẽ đạt hiệu quả cao, không lo gặp rủi ro gây thiệt hại về kinh tế cho dự
án. Ngược lại, nếu giám sát và đánh giá lơ là, không sát sao, hậu quả sẽ khó
lường, kéo theo đó dự án có thể bị phá sản, gây ảnh hưởng đến nền kinh tế
nước nhà.
II. KẾT LUẬN
Giám sát và đánh giá là hai quá trình quan trọng trong một dự án.
Mang tính quyết định cho thành công của dự án. Làm tốt hai khâu này chắc
chắn dự án sẽ thành công.
Mặc dù quá trình giám sát và đánh giá được tiến hành ở các thời điểm
khác nhau, mục tiêu, nội dung khác nhau nhưng chúng có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Do đó khi thiết kế một dự án, cần chú ý xây dựng chi tiết cho
từng giai đoạn của dự án sao cho quá trình giám sát và đánh giá đạt hiệu quả
cao. Mỗi công trình, dự án kỹ thuật trồng rừng là khác nhau. Do vậy, khi
thiết kế trồng rừng cần xây dựng các hạng mục sao cho hợp lý với dự án đó.
Hiện nay nhiều công trình dự án bị lợi dụng cho việc khai thác rừng
hoặc ăn bớt số vốn đầu tư, nguyên nhân chủ yếu là do sự giám sát lơi lỏng,
hoặc các đối tượng cố tình không thực hiện đúng kế hoạch mà dự án đặt ra.
Những hiện tượng này cần phải được phát hiện và xử lý kịp thời, điều đó có
nghĩa rằng khâu giám sát và đánh giá càng phải được đề cao và quan tâm
hơn nữa, có như vậy các dự án mới có thể đạt hiệu quả cao./.
- Xem thêm -