Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học So sánh đối chiếu phương thức danh hóa trong tiếng anh và tiếng việt (tóm tắt)...

Tài liệu So sánh đối chiếu phương thức danh hóa trong tiếng anh và tiếng việt (tóm tắt)

.PDF
23
704
72

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------- NGUYỄN THỊ BÍCH NGOAN SO SÁNH ĐỐI CHIẾU PHƯƠNG THỨC DANH HÓA TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT Chuyên ngành: Ngôn ngữ học so sánh – đối chiếu Mã số: 62 22 01 10 BẢN TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Tập thể hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS LÊ TRUNG HOA 2. TS. NGUYỄN THỊ KIỀU THU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2016 1 MỞ ĐẦU 0.1 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, lí do chọn đề tài Theo Langacker“Danh hóa là một hiện tượng không chỉ phổ biến mà còn rất quan trọng về mặt lý thuyết...”. Tiếng Anh và tiếng Việt là hai ngôn ngữ khác nhau về loại hình nên phương thức danh hóa cũng khác nhau, chính vì thế, với mong muốn tìm hiểu, khảo cứu, phát hiện ra những nét tương đồng và dị biệt về phương thức biểu hiện cũng như về ngữ nghĩa của hiện tượng danh hóa trong tiếng Anh và tiếng Việt, từ đó đưa ra những nhận xét, nhận định về những đặc trưng có tính loại hình của hiện tượng này trong hai ngôn ngữ nói trên. Vì vậy, chúng tôi đã chọn đề tài của luận án này là: “So sánh đối chiếu phương thức danh hóa trong tiếng Anh và tiếng Việt”. Phạm vi nghiên cứu là các ngữ liệu thể hiện danh hóa được trích từ các văn bản văn học Anh và Việt. 0.2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án 0.2.1. Mục đích của luận án: tìm hiểu các phương thức danh hóa trong tiếng Anh và tiếng Việt để tìm ra những nét tương đồng và dị biệt của hai ngôn ngữ Anh – Việt; làm rõ hơn cơ chế vận hành của cấu trúc ngôn ngữ cũng như những khác biệt về loại hình ở hiện tượng danh hóa này của hai ngôn ngữ; giúp cho người học tiếng Anh và tiếng Việt ứng dụng ngôn ngữ tốt hơn; giúp cho việc chuyển dịch văn bản một cách chính xác và tinh tế hơn. 0.2.2. Nhiệm vụ của luận án: Nhận diện các phương thức danh hóa xuất hiện trong các văn bản văn học tiếng Anh và tiếng Việt; Mô tả, phân tích những kết quả của quá trình danh hóa trong hoạt động giao tiếp và phản ánh, từ đó tổng kết, hệ thống các phương thức danh hóa, rút ra các mô hình danh hóa trong hai ngôn ngữ; 0.3 Lịch sử vấn đề 0.3.1 Tình hình nghiên cứu hiện tượng danh hóa trong tiếng Anh Trong tiếng Anh, hiện tượng danh hóa được các nhà ngữ học quan tâm và nghiên cứu khá nhiều. Chẳng hạn như: N.Chomsky, F.Newmeyer, Spencer, Vendler, Abney ngoài ra còn có Grimshaw, Ravelli và Banks, Lees, V.Adams, J.yoon, R.Quirk, Heyvaert đặc biệt là Haliday, nhìn của ngữ pháp chức năng, đã nêu ra khái niệm ẩn dụ ngữ pháp như là kết quả của hiện tượng danh hóa. 0.3.2. Tình hình nghiên cứu hiện tượng danh hóa trong tiếng Việt Hiện tượng danh hoá được các nhà Việt ngữ học chú ý khi nghiên cứu ngôn ngữ trên các bình diện cú pháp, ngữ nghĩa, chức năng và đặc biệt là trong việc nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy. Trong tiếng Việt, hầu như các nhà Việt ngữ học đều nhận thấy sự tồn tại của hiện tượng danh hoá chẳng hạn như: Nguyễn Đức Dân, Phan Khôi, Nguyễn Văn Tu, Hồ Lê, Đái Xuân Ninh, Đỗ Hữu Châu, Bùi Đức Tịnh, Nguyễn Tài Cẩn, Diệp Quang Ban, Đinh Văn Đức. Trong các công trình nghiên cứu về từ, cấu tạo từ, từ loại tiếng Việt của Nguyễn Thiện Giáp, Hoàng Văn Hành, Nguyễn Phú Phong, Nguyễn Kim Thản,.. cũng như các nghiên cứu về loại từ tiếng Việt của Lý Toàn Thắng, Hà Quang Năng, Lưu Vân Lăng, Cao Xuân Hạo…một số cấu trúc - ngữ nghĩa kết quả của hiện tượng danh hóa cũng được đưa ra nhưng chưa được đi sâu mô tả. 0.4 Phương pháp nghiên cứu, nguồn ngữ liệu Luận án đã sử dụng phương pháp miêu tả, phân tích; phương pháp thống kê; phương pháp so sánh đối chiếu. Luận án chủ yếu khảo sát ngữ liệu trong các tác phẩm văn học tiếng Anh và Tiếng Việt. 2 0.5. Ý nghĩa của luận án 0.5.1. Ý nghĩa khoa học Đề tài nghiên cứu này góp phần bổ sung, hoàn thiện, hệ thống hóa phương thức và ngữ nghĩa của hiện tượng danh hóa trong tiếng Anh và tiếng Việt, qua đó đưa ra một bức tranh có tính so sánh đối chiếu những nét tương đồng và khác biệt có tính loại hình của hiện tượng này trong hai ngôn ngữ nói trên. 0.5.2. Ý nghĩa thực tiễn Các kết quả nghiên cứu của công trình là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu, các nhà sư phạm, các học viên khi gặp hiện tượng danh hóa trong tiếng Anh và tiếng Việt, đồng thời có thể vận dụng các tri thức, các tài liệu từ công trình này trong việc dịch thuật, soạn thảo văn bản có chứa hiện tượng danh hóa trong tiếng Anh và tiếng Việt 0.6 Bố cục của luận án Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án bao gồm bốn chương, như sau: - Chương I: Cơ sở lí luận. - Chương II: So sánh đối chiếu phương thức danh hoá động từ trong tiếng Anh và tiếng Việt - Chương III: So sánh đối chiếu phương thức danh hoá tính từ trong tiếng Anh và tiếng Việt - Chương IV: So sánh đối chiếu phương thức danh hoá mệnh đề trong tiếng Anh và tiếng Việt CHƯƠNG I CÁC VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT CƠ SỞ 1.1 Khái quát về danh từ, động từ, tính từ, danh ngữ, mệnh đề trong tiếng Anh và tiếng Việt 1.1.1 Khái quát về danh từ trong tiếng Anh và tiếng Việt 1.1.2 Khái quát về động từ trong tiếng Anh và tiếng Việt 1.1.3 Khái quát về tính từ trong tiếng Anh và tiếng Việt 1.1.4 Khái quát về mệnh đề trong tiếng Anh và tiếng Việt 1.2. Hiện tượng chuyển loại trong tiếng Anh và tiếng Việt Hiện tượng chuyển loại theo quan điểm ngôn ngữ học hình thức: Đối với quan điểm này thì hậu tố có thể dùng để phái sinh cấu tạo từ hoặc phương thức biến hình cũng là một hình thức khác của chuyển loại theo ngôn ngữ học hình thức. Kết quả của quá trình phái sinh là một từ mới còn kết quả của quá trình biến hình lại là hình thức khác của một từ. Trong quá trình chuyển loại từ tiếng Anh có hiện tượng chuyển loại khác có nghĩa liên quan đến từ gốc hoặc có một ý nghĩa nữa mà không cần hậu tố hữu hình. Điều này cho thấy mối quan hệ giữa hình thức và chức năng không phải lúc nào cũng rõ ràng. Chẳng hạn như love (v) – love (n)) đây được gọi là hình thức phái sinh zero. - Hiện tượng chuyển loại hoán dụ theo quan điểm ngôn ngữ học tri nhận Hoán dụ dùng để chỉ một hình ảnh tu từ mà ở đó tên gọi của một thực thể được sử dụng, là vật chứa thay cho chất được chứa đựng bên trong. Ngoài ra còn có một loại khá khác biệt của phép hoán dụ, đó là một vật có thể dùng để chỉ hành động chẳng hạn như danh từ có thể sử dụng để chỉ hành động; hoặc tính từ có thể được dùng chỉ hành động; và động từ chỉ hành động có thể dùng để chỉ kết quả. Chuyển loại là một trong những xu hướng vận động, biến đổi của từ. Sự vận động, biến đổi này có thể xảy ra trong sự phát triển nghĩa của một từ cũng như trong sự chuyển hóa của từ từ loại này sang từ loại khác. Xét một cách sâu xa, hiện tượng chuyển di từ loại là biểu hiện giữa mối 3 quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ. Các nhà Đông phương học Xô-viết đã khẳng định rằng việc chuyển di "các từ từ loại này sang từ loại khác mà không thay đổi vỏ âm thanh của chúng (tức là hiện tượng chuyển loại) là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của các ngôn ngữ này (ngôn ngữ đơn lập)” dẫn theo Hà Quang Năng, “Đặc trưng ngữ nghĩa của hiện tượng chuyển loại các đơn vị từ vựng tiếng Việt” [43, tr.141-144]. Chuyển loại cũng là một phương thức cấu tạo từ và việc chuyển loại cực kỳ hiệu quả để tăng vốn từ vựng tiếng Anh vì nó cung cấp một phương pháp dễ dàng để tạo ra những từ mới từ những từ hiện có. Hiện tượng chuyển di từ loại là một các phương thức cấu tạo từ có khả năng sản sinh rất cao, và cũng là một trong những phương thức danh hóa động từ được đề cập trong luận án. 1.3. Hiện tượng / phương thức danh hóa 1.3.1. Định nghĩa danh hóa Danh hóa là một qui trình ngữ pháp để tạo lập danh từ từ những từ loại khác, thường là động từ hoặc tính từ. [121, tr. 395] Crystal [96] cũng định nghĩa danh hóa là: 1. Là quá trình thành lập một danh từ từ một từ loại khác ví dụ như: redness hay refusal. 2. Là sự phái sinh một mệnh đề thành một danh ngữ ví dụ như: Her answering of the letter was expected được phái sinh từ mệnh đề: She answered the letter (Cô ấy trả lời bức thư). Theo R. Quirk và cộng sự, danh hóa là hiện tượng một danh ngữ có tính tương ứng một cách hệ thống với một cấu trúc tiểu cú (clause structure). Thường thì trung tâm của danh ngữ đó có mối liên hệ về hình thái học với một động từ hoặc tính từ, tức là cấu trúc của danh ngữ sẽ tương đương về nghĩa với cấu trúc có động từ hoặc tính từ tương ứng. Như vậy trong quá trình danh hóa có thể có danh từ chuyển loại (do quá trình chuyển loại) hoặc danh từ phái sinh (do quá trình phái sinh) Theo Quan điểm của A.Spencer thì xét trên bình diện hình thái học hay bình diện từ vựng, danh hóa được hiểu là danh từ hóa, tức là danh hóa ở cấp độ từ. Nói một cách cụ thể hơn, danh từ hóa là sự chuyển hóa từ một từ loại phi danh từ sang từ loại danh từ. Theo Spencer, có hai loại danh hóa chính: danh hóa tính chất (property nominalization), tức danh hóa phái sinh từ tính từ (deadjectiveal nominalization), và danh hóa hành động (action nominalization), tức danh hóa phái sinh từ động từ (deverbal nominalization). Huddleston & Pullum lại xem danh hóa là quá trình thành lập từ, trong đó: “Danh từ được thành lập từ các lớp từ khác, bằng cách thêm phụ tố, chuyển loại hoặc biến đổi âm vị” [115, tr. 1696]. Hai tác giả đặc biệt quan tâm đến các phụ tố để thành lập danh từ. Huddleston và Pullum đã phân chia các loại danh hóa vào những nhóm ngữ nghĩa - từ vựng tương ứng với các hậu tố sau: Danh hóa chỉ người hoặc dụng cụ (Person / instrument nominalizations): -ant /-ent; -ard; arian; -ee; -eer;-er / -or / -ar; -ist; -nik; -ster… Danh hóa chỉ hành động/ trạng thái/ quá trình (Action/state/process nominalizations): -age; – al; –ance/-ence; –ation/-ion/-ition/-sion/-tion/-ution; -dom ; –hood ; –ing; –ity/-ety/-ness; –ment … Khác với những nhà ngôn ngữ học theo khuynh hướng ngữ pháp hình thức, Halliday đã đề cập đến danh hóa theo một hướng khác đáng chú ý, ông cho rằng: “Danh hóa là một công cụ có sức mạnh nhất để tạo ra ẩn dụ ngữ pháp”. Trong tiếng Anh, một trong những ngôn ngữ biến hình, ý nghĩa ngữ pháp của từ được biểu thị bằng sự biến đổi hình thái của từ, việc danh hóa động từ, tính từ hay mệnh đề cũng được thực hiện bằng sự biến đổi hình thái động từ hay tính từ. Còn trong tiếng Việt, một ngôn ngữ phân tích tính, danh hóa được thực hiện chủ yếu bằng việc kết hợp động từ, tính từ hay mệnh đề với các yếu tố ngữ pháp chuyên dùng (Theo cách gọi của Đinh Văn Đức). Yếu tố ngữ pháp chuyên dùng được kết hợp với động từ, tính từ để tạo ra danh từ 4 tương ứng, ví dụ như: sự, việc, cái, nỗi, niềm…. Những từ trên theo quan điểm một số nhà ngôn ngữ học, chính là những danh từ có nội hàm hẹp nhưng ngoại diên rộng. Trong luận án này chúng tôi sử dụng thuật ngữ của Đinh văn Đức, ngoài ra chúng tôi sẽ không xét về từ loại của các từ này, mà xem xét chúng như những “yếu tố danh hóa” dùng để kết hợp để chuyển di từ loại từ động từ, tính từ sang danh từ. Dưới đây chúng tôi đưa ra một định nghĩa về hiện tượng danh hóa: Danh hóa là một phương thức ngữ pháp để biến đổi và chuyển di từ loại từ động từ, tính từ hoặc mệnh đề bằng cách thêm vào động từ, tính từ, hay mệnh đề đó một yếu tố danh hóa nhất định (có thể là yếu tố zero) để biến chúng thành danh từ hoặc danh danh ngữ. Danh hóa xảy ra ở hai cấp độ: Danh hóa ở cấp độ từ và danh hóa ở cấp độ trên từ (hay còn gọi là danh hóa ở cấp độ cú pháp) 1.3.2 Phân loại hiện tượng danh hóa Khi nghiên cứu hiện tượng danh hóa, cụ thể là danh hóa động từ, các nhà ngôn ngữ học tri nhận đã phân biệt hai loại danh hóa đó là danh hóa hành động (action nominalization) và danh hóa thực hữu (factive nominalization) Trong tiếng Anh, việc danh hóa động từ, tính từ, mệnh đề được thực hiện bằng sự biến đổi hình thái của động từ hay tính từ. Trong tiếng Việt thì việc danh hóa chủ yếu thực hiện bằng việc kết hợp động từ, tính từ hay mệnh đề bằng các “yếu tố danh hóa” chẳng hạn như: sự, việc, cái, cuộc, nỗi, niềm, những, mọi, vụ… Có nhiều cách gọi các từ trên, trong luận án này chúng tôi xem chúng là “ yếu tố danh hóa” để chuyển động từ, tính từ thành danh từ để có được hiện tượng danh hóa. CHƯƠNG II SO SÁNH ĐỐI CHIẾU PHƯƠNG THỨC DANH HOÁ ĐỘNG TỪ TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT Trong chương này, luận án đi vào khảo cứu, giải quyết nhiệm vụ thứ nhất của luận án, đó là đối chiếu phương thức danh hóa động từ trong tiếng Anh và tiếng Việt. 2.1 Danh hóa động từ trong tiếng Anh Trong tiếng Anh, việc nhận dạng hiện tượng danh hóa thường dễ dàng và rõ ràng hơn nhiều so với tiếng Việt. Để danh hóa động từ trong tiếng Anh, chỉ cần kết hợp động từ với phụ tố -ing, er và các phụ tố khác như –ment, -ion, - ance, -or, -ity, -al… hoặc phụ tố zero (tức là không cần kết hợp với bất kỳ phụ tố nào khác) Chúng tôi khảo sát điển cứu ba tác phẩm tiếng Anh Gulliver’s Travels (Jonathan Swift, 1726); Red sky in the morning (Elizabeth Laird, 2006) ; The professor (Charlotte Bronte, 2012) kết quả như sau: Bảng 1 Stt 1 Phương thức danh hóa động từ Kết hợp phụ tố -ing Gulliver’s Travels 258 Red sky in the morning 79 The professor 122 459 2 Kết hợp phụ tố -ion 172 26 86 284 3 Kết hợp phụ tố zero 32 54 66 152 4 Kết hợp phụ tố -er 68 10 10 88 5 Kết hợp phụ tố - 40 ment Kết hợp phụ tố - 13 7 28 75 2 10 25 6 Tổng cộng 5 7 ance Kết hợp phụ tố -or 9 1 2 12 8 Kết hợp phụ tố -ity 4 1 1 6 9 Kết hợp phụ tố -y 2 1 3 6 10 Kết hợp phụ tố -al 1 0 5 6 Qua kết quả ở bảng 1 chúng ta có thể nhận thấy tần suất danh hóa bằng phụ tố -ing xuất hiện rất nhiều so với các phương thức khác. Tất cả ba tác phẩm đều có tỉ lệ danh hóa bằng cách kết hợp phụ tố -ing, gấp ít nhất 1,5 lần so với các phương thức khác. Đây là phương thức phổ biến nhất và cũng được quan tâm nghiên cứu nhiều trong tiếng Anh. Phương thức phổ biến đứng thứ 2 sau phụ tố –ing là –ion hoặc phụ tố zero (chuyển loại). Phương thức phổ biến đứng kế tiếp là việc kết hợp với phụ tố -er hoặc –ment, còn lại các phụ tố khác tần số xuất hiện không nhiều. Sau đây chúng tôi sẽ lần lượt trình bày những phương thức danh hóa và ngữ nghĩa của những tổ hợp - kết quả của việc danh hóa động từ trong tiếng Anh. 2.1.1 Phương thức danh hóa thêm phụ tố vào sau động từ Phụ tố -ing Trong tiếng Anh, tất cả các động từ (ngoại trừ những trợ động từ chẳng hạn như shall, can, may) có thể thêm –ing: running, building, winning, being, having… và số lượng từ được danh hóa bằng phương thức thêm –ing vào động từ là cao nhất so với các hình thức khác. Ví dụ: We studied the textbook carefully.  Our studying of the textbook was carefully. Kết quả của việc danh hoá bằng cách thêm –ing vào động từ hoặc do phái sinh động từ là tạo ra tiểu loại danh từ chỉ hành động. Khi dùng –ing để danh hoá nhằm tạo ra những danh từ biểu thị một quá trình hành động và quá trình này được xem như một thực thể, có thể đo lường được, và có thể được bổ nghĩa. Phụ tố -er Kết quả của việc danh hoá bằng cách kết hợp động từ với tiếp tố –er tạo ra tiểu loại danh từ đó là danh từ chỉ người hành động (agentive nouns) hay người thực hiện hành động (person who vs something), hoặc danh từ chỉ sự vật không phải người hành động (non- agentive nouns) Phụ tố -er có mối quan hệ mang tính hệ thống đối với sự kết hợp chủ ngữ và động từ, là phương tiện hình thái học để chỉ người và vật trong quá trình và trong quá trình này có đặc trưng của tham thể. Bằng mối liên hệ giữa thực thể và tiến trình cụ thể, -er cung cấp thông tin về những thực thể đó (ví dụ: teacher thông báo cho chúng ta biết rằng he/she teaches. Phụ tố -er có mối tương quan với sự kết hợp giữa chủ ngữ và động từ trong câu được trình bày và đó chính là mệnh đề tường thuật, ví dụ teacher có quan hệ đồng dạng với he/she teaches. Ngoài phụ tố -er, một số động từ có thể được danh hoá để tạo ra tiểu loại danh từ chỉ người hành động trên bằng cách thêm hoặc -ar, -or vào động từ, chẳng hạn như: conduct -> conductor; beg -> beggar; lie -> liar… Phụ tố khác: -tion, -ment, ity, ent, -isis… Kết quả của việc danh hoá này tạo ra những danh từ hành động, hay những danh từ chỉ hoạt động có nghĩa xuất phát từ động từ gốc. Theo Chomsky thì hiện tượng danh hóa trong tiếng Anh có hai loại chính đó là gerundive nominalization (GN) (hiện tượng danh hóa bằng cách thêm –ing vào sau động từ để tạo nên gerund (vị danh từ) và derived nominalization (DN) (danh hóa phái sinh) 6 Danh hóa do phái sinh (derived nominalization) được xem là kết quả của hiện tượng phái sinh hình thái học và chính vì thế nó tương phản với Gerundive nominalization, một hình thức được xem là kết quả của quá trình biến tố. 2.1.2 Danh hoá động từ không có sự biến đổi hình thái (không cần kết hợp yếu tố danh hóa) Trong tiếng Anh cũng có một số động từ vừa là động từ vừa là danh từ. Một số từ có hai âm tiết, vừa là danh từ vừa là động từ thì danh từ có trọng âm chính ở âm tiết đầu tiên, còn động từ thì trọng âm chính rơi vào âm tiết thứ hai. Tuy nhiên cũng có một số từ ngoại lệ vừa là động từ vừa là danh từ vẫn có trọng âm chính không đổi. Hoặc nhiều động từ đơn tiết vừa là động từ vừa là danh từ, thì về mặt hình thức và trọng âm không thay đổi. Trong tiếng Anh nhiều động từ có thể phái sinh thành hai hoặc ba danh từ bằng cách thêm vào động từ ấy các phụ tố khác nhau, và các danh từ này có nghĩa khác nhau. Đối với một số động từ không thể phái sinh thì chúng được danh hoá bằng cách thêm ing, hoặc chúng ta phải tìm một danh từ khác tương ứng để thay thế, chẳng hạn như: - look after --> caretaker - study --> learner/ apprentice Trong tiếng Anh, hiện tượng danh hóa được sử dụng trong văn viết nhằm một trong bốn mục đích chính như sau: 1/ Khi danh hóa thì câu không còn có ý nghĩa miêu tả hành động hay quá trình nữa mà tập trung vào mục tiêu hay khái niệm nào đó. 2/ Khi sử dụng hiện tượng danh hóa thì người thực hiện hành động thường không được đề cập, nhằm giúp cho văn phong của bài viết khách quan và trang trọng hơn. 3/ Khi sử dụng hiện tượng danh hóa, những từ chỉ hành động có thể được chuyển sang những khái niệm trừu tượng và người viết có thể bình luận thêm hay bày tỏ quan điểm của mình dựa trên những khái niệm đó. 4/ Sử dụng hiện tượng danh hóa nhằm giảm đi số lượng mệnh đề trong văn bản, chính vì thế có thể làm cho bài viết bớt dài dòng, câu văn súc tích hơn. Tóm lại, như chúng tôi vừa nêu trên, khi động từ được danh hóa, chúng sẽ có khuynh hướng trở thành những khái niệm trừu tượng chứ không phải là hành động nữa, vì thế người viết có thể đưa thêm những nhận định của mình cũng như những điều mình nhận thấy được về khái niệm ấy vào trong câu. Điều này là kết quả trực tiếp làm gia tăng thêm lượng thông tin và sự kết hợp chặt chẽ giữa các thông tin này với nhau. 2.2 Danh hóa động từ trong tiếng Việt Trong tiếng Việt, việc danh hóa được thực hiện bằng hai hình thức: thêm các yếu tố ngữ pháp chuyên dùng (trong luận án này chúng tôi gọi là yếu tố danh hóa): sự, việc, cái cuộc, cơn, trận, chuyến, nỗi, niềm hoặc những, mọi, mỗi, một… vào trong động từ, ngoài ra có trường hợp không cần thêm yếu tố danh hóa hay gọi là sự chuyển loại. 2.2.1 Danh hóa bằng các yếu tố danh hóa như: SỰ, VIỆC, CÁI, CUỘC, NỖI, NIỀM, CƠN, TRẬN, CHUYẾN, SĨ, SINH, VIÊN … Trong ngôn ngữ, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa động từ và danh từ là sự chuyển hóa đa dạng và rất phức tạp. Trong tiếng Việt, danh hóa động từ được thực hiện thông qua sự kết hợp giữa các yếu tố danh hóa với động từ. 2.2.1.1 Danh hóa động từ với “SỰ” Trong tiếng Việt, “sự” được xem là phụ tố dùng để danh hóa động từ phổ biến nhất. Theo khảo sát điển cứu về tần suất sử dụng các phương danh hóa động từ trong ba tác phẩm “Chuyện làng Cuội”, “ Cánh đồng lưu lạc”, “ Nửa chừng xuân” chúng tôi có kết quả như sau: Bảng 2 7 STT Phương danh hóa thức Chuyện làng cuội Cánh Đồng Nửa lưu lạc xuân chừng Tổng cộng 1 Sự + V 84 67 78 229 2 Nỗi + V 79 31 9 119 3 Cái + V 22 18 10 50 4 Niềm + V 17 15 0 32 5 Những + V 15 13 1 29 6 Cuộc +V 11 19 0 30 7 Cơn + V 5 14 2 21 8 3 10 2 15 9 V + zero (không cần kết hợp phụ tố) Một + V 6 3 0 9 10 Việc + V 5 4 7 9 11 Trận + V 5 2 0 7 12 13 Bao, biết bao+ V Vụ + V 0 3 5 1 1 0 6 4 14 Mọi + V 3 0 0 3 Sự thường danh hóa với động từ đa tiết, thường biểu thị những hoạt động trừu tượng, khái quát hay biểu thị một trạng thái, ít khi danh hóa với động từ đơn tiết và những động từ đa tiết biểu thị những hoạt động cụ thể. Sự có thể danh hóa với những động từ tình cảm và những động từ biểu thị tri giác và hoạt động của cơ quan cảm giác và những động từ biểu thị cảm giác, dục vọng. Do hầu như không có nghĩa tự thân, sự là yếu tố danh hóa có phạm vi hoạt động rộng nhất. Qua khảo sát của chúng tôi thì sự thường chỉ có thể danh hóa cho những động từ đa tiết chỉ tình cảm trạng thái tinh thần. Khác với việc, sự có thể danh hóa cho những động từ biểu hiện những hoạt động phải thông qua hành động nói năng. Sự không được danh hóa với nhóm động từ đơn tiết chỉ các vận động có phương hướng xác định như: ra, vào, lên, xuống, đến, tới, sang, qua, về… Nhưng với các động từ có hướng đa tiết như ra đi, trở lại… “sự” cũng có thể danh hóa chúng. 2.2.1.2 .Danh hóa động từ với “VIỆC” 7 8 So với các danh từ khái quát khác, việc là một trong những từ có khả năng dùng độc lập như một danh từ khái quát cao. Theo từ điển tiếng Việt, tự thân việc có 2 nghĩa chính là: cái phải làm, nói về công sức phải bỏ ra; chuyện xảy ra đòi hỏi phải giải quyết. a. Tiêu chí phân biệt “VIỆC” – yếu tố danh hóa với “VIỆC” – danh từ. b. Danh hóa động từ với “VIỆC” Việc thường dùng với những động từ chỉ hành động hay chỉ hoạt động, trừ một nhóm nhỏ là động từ chỉ trạng thái. + Tổ hợp danh từ: việc + động từ, định danh cho loại thực thể định loại quá trình/ hành động. + Hầu hết các trường hợp khi tổ hợp danh từ việc + động từ làm chủ ngữ trong câu có vị ngữ là các động từ gây khiến, câu sẽ mang hàm ý về tính thực hữu của sự tình được biểu thị trong câu đó. + Tổ hợp danh từ việc + động từ + bổ ngữ biểu thị ý nghĩa về một sự kiện cụ thể đã xảy ra rồi. Việc chỉ danh hóa cho những động từ chỉ hành động. Việc không danh hóa cho các động từ mà ý nghĩa của chúng không phải là ý nghĩa hành động và việc không làm chức năng danh hóa khi đứng trước những động từ tình cảm, nhận thức. 2.2.1.3 Danh hóa động từ với “CUỘC” Trên thực tế, cuộc có thể dùng độc lập, khả năng này của cuộc mạnh hơn so với sự. Qua khảo sát tư liệu thì hầu như cuộc hiếm khi được dùng trước các động từ chỉ trạng thái. Những động từ được danh hóa bằng cuộc là những động từ chỉ hành động cụ thể như: đi, chơi, ăn, uống…những động từ chỉ hành động này khi được danh hóa thường không chỉ hoạt động cụ thể nữa mà mang ý nghĩa khái quát hơn. 2.2.1.4. Danh hóa động từ với “CÁI” Cái có thể danh hóa cho một nhóm động từ hành động chỉ các hoạt động có liên quan đến các bộ phận cơ thể, chẳng hạn: cái nhìn, cái hôn, cái đá… Cái có thể danh hóa các động từ chỉ trạng thái tình cảm, cảm giác, dục vọng cũng như các động từ nhận thức. Ví dụ như: cái hồi hộp, cái day dứt, cái buồn, cái khổ…Nhóm động từ này cũng có thể danh hóa bằng nỗi, niềm và sự. Khi dùng cái để danh hóa thay cho nỗi, niềm, sự thì người viết muốn khẳng định và nhấn mạnh sự việc hơn. Ở các ví dụ trên, với “sự hồi hộp” “sự sung sướng” “ nỗi đau đớn” người đọc cảm thấy bình thường, nhưng những tổ hợp “cái hồi hộp” “cái sung sướng” “cái đau đớn” lại tạo ra một cảm giác khác lạ, một cảm xúc mạnh mẽ hơn, gây sự chú ý cho người đọc hơn. Cái có khả năng danh hóa cho cả những động từ đơn tiết lẫn đa tiết, tổ hợp danh từ cái và các động từ nhóm này không định danh mà mô tả những thực thể cụ thể của những loại thực thể biểu thị bằng tổ hợp sự + động từ. Cái không chỉ danh hóa động từ chỉ trạng thái tình cảm, tinh thần, dục vọng mà còn có thể danh hóa những động từ nhận thức. 2.2.1.5. Danh hóa động từ với “NỖI”, “NIỀM” “Nỗi”“niềm” thường được dùng để danh hóa những động từ biểu thị trạng thái tình cảm, cảm giác hoặc những động từ gây tác động đến tình cảm, cảm giác. Nỗi thường danh hóa cho những động từ chỉ trạng thái tiêu cực (buồn, lo lắng, đau, sợ, giày vò), trong khi niềm thường danh hóa cho những động từ biểu thị trạng thái tình cảm tích cực (vui, hạnh phúc, hy vọng…). Tuy nhiên, cũng có một số cách dùng đặc biệt, khác quy tắc vừa nêu trên. Những động từ biểu thị dục vọng của con người thường có thể được danh hóa bằng cả nỗi lẫn niềm. Chẳng hạn như chúng ta có thể nói niềm đam mê, niềm khao khát, niềm đắm say cũng có thể nói nỗi đam mê, nỗi khát khao, nỗi đắm say. Khi được danh hóa bằng nỗi, các tổ hợp danh từ mang hàm ý cường độ mạnh của tình cảm, tâm trạng biểu thị ở động từ. 8 9 Tóm lại “nỗi” “niềm” có thể danh hóa cho động từ đơn tiết lẫn đa tiết chỉ trạng thái tình cảm, cảm xúc, dục vọng của con người. 2.2.1.6. Danh hóa động từ với “CƠN, ĐỢT, TRẬN, CHUYẾN, VỤ, SĨ, SINH, VIÊN” Trận thường được kết hợp với các động từ biểu thị hành động do nhiều người cùng thực hiện hoặc diễn ra với cường độ mạnh, với tần suất cao hoặc kết hợp với những động từ chỉ hiện tượng tự nhiên. Chẳng hạn: trận mưa, trận thi đấu, trận đánh…Ngoài ra trận đôi khi cũng có thể kết hợp với động từ chỉ cảm xúc. Cơn cũng có thể kết hợp với các động từ chỉ hiện tượng thiên nhiên như: mưa, bão, động đất… nhưng so với trận thì cơn thường biểu thị những hiện tượng thiên nhiên có cường độ yếu hơn và mang hàm ý hiện tượng đó xảy ra bất chợt. Đợt bản thân có nghĩa là lớp, lần tổ chức hoặc thực hiện một hoạt động gì đó. Đợt thường kết hợp với những động từ chỉ hoạt động để tạo ra những danh ngữ chỉ lần tồn tại của hoạt động. Cũng giống như đợt, vụ cũng thường kết hợp với những động từ chỉ hoạt động để tạo là những danh ngữ. Tuy nhiên những danh ngữ này đa phần mang sắc thái nghĩa tiêu cực chẳng hạn như vụ kiện, vụ tranh chấp, vụ điều tra… Ngoài việc kết hợp với các “ yếu tố danh hóa” đứng trước động từ để tạo thành danh từ/danh ngữ thì động từ cũng có thể kết hợp với một yếu tố danh hóa “sĩ” đứng sau để chuyển động từ thành danh từ. Ví dụ như các cụm từ “ca sĩ” “họa sĩ” thì “sĩ” đóng vai trò là yếu tố danh hóa kết hợp với động từ “ca” và “họa” để tạo thành danh từ. Tuy nhiên không phải động từ nào cũng có thể kết hợp với “sĩ” để tạo nên danh từ/danh ngữ. Tương tự như “sĩ” thì “ sinh” và “viên” cũng được xem là những yếu tố danh hóa động từ ví dụ như: nghiên cứu sinh, thực tập sinh, học sinh, báo cáo viên, học viên, thanh tra viên, diễn viên…. Đặc điểm chung của ba yếu tố danh hóa này là kết hợp với động từ chỉ hành động để tạo nên những danh từ chỉ người hoặc nghề nghiệp. Khả năng kết hợp của các yếu tố này với động từ không phổ biến, chúng không thể kết hợp với động từ chỉ tri giác, tình cảm hay nhận thức, chúng chỉ có thể kết hợp với một số động từ hành động để tạo nên danh từ chỉ nghề nghiệp hay chủ thể thực hiện hành động. 2.2.2 Danh hóa bằng lượng từ hoặc không cần kết hợp yếu tố danh hóa Một số động từ hành động vừa có thể danh hoá bằng cách kết hợp với lượng từ: những, mọi, mỗi, một… và cũng có một số động từ khi danh hoá không cần kết hợp với bất kỳ yếu tố danh hoá nào, vì những từ này có thể vừa là động từ vừa là danh từ, đây cũng có thể được xem là sự chuyển loại bên trong từ. Các danh từ được chuyển loại từ động từ so với các tổ hợp danh từ, kết quả của hiện tượng danh hoá biểu thị những thực thể cụ thể hơn so với những thực thể biểu thị bằng tổ hợp danh từ. Những động từ có khả năng chuyển loại như vậy thường là những động từ đa tiết biểu thị dục vọng. Các động từ biểu thị cảm giác thường không có khả năng chuyển loại như vậy. Ngoài ra theo Nguyễn Minh Thuyết [67] động từ cũng có thể đứng ở cương vị chủ ngữ tức hành chức như danh từ trong một số kiểu loại câu nhất định, với những điều kiện nhất định như sau: - Câu có vị ngữ là tính từ hoặc động từ khiến động (khiến, làm, buộc…) Ví dụ: Chơi cờ rất thú vị. - Câu có động từ chỉ sự biến hóa (trở thành, trở nên, hóa ra…) Ví dụ: Viết tiểu thuyết đã trở thành hẳn một nghề riêng. - Câu có động từ chỉ hành vi tác động lên đối tượng (đánh đập, tạo mở…) hoặc động từ chỉ sự tiếp thụ (bị, được) hay chỉ sự tồn tại (xảy ra, diễn ra, có, còn…) Ví dụ: a. Đi xe bỏ mui bị coi là không đứng đắn. b. Năm ấy, động đất đã xảy ra ở Nhật bản. Như vậy khi động từ đứng ở vị trí chủ ngữ có thể được xem là danh từ trong những mẫu câu sau: - Động từ/cụm động từ + tính từ 9 10 - Động từ/cụm động từ + động từ khiến động (khiến, làm, buộc…) Động từ/cụm động từ + động từ chỉ sự biến hóa (trở thành, trở nên, hóa ra…) Động từ/cụm động từ + động từ chỉ hành vi tác động lên đối tượng (đánh đập, tạo mở…) Động từ/cụm động từ + động từ chỉ sự tiếp thụ (bị, được) hay chỉ sự tồn tại (xảy ra, diễn ra, có, còn…) 2.3. So sánh đối chiếu phương thức danh hóa động từ trong tiếng Anh và tiếng Việt 2.3.1. Sự khác nhau giữa phương thức danh hóa động từ trong tiếng Anh và tiếng Việt a. Phương thức danh hóa là điểm khác nhau đầu tiên giữa tiếng Anh và tiếng Việt cũng chính là đặc điểm làm nên sự khác biệt về loại hình giữa hai ngôn ngữ, cụ thể là việc danh hóa động từ trong tiếng Anh được thực hiện bằng việc biến đổi hình thái động từ, có thể thêm hậu tố -ing vào động từ, hoặc phái sinh thành danh từ bằng cách thêm tiếp tố -er, -ion, -ment, -ant, -y, ity…Trong tiếng Việt, phương thức danh hóa động từ chủ yếu là kết hợp động từ với các yếu tố danh hóa như : sự, việc, cái, cuộc, nỗi, niềm, cơn trận, chuyến, hoặc cũng có thể kết hợp với các phụ từ chỉ lượng như: những, mỗi, mọi, một… b. Điểm khác nhau thứ hai là trong tiếng Anh sản phẩm danh hóa có thể tạo ra hai tiểu loại danh từ, đó là (1) danh từ hành động (action nominal), cấu trúc danh từ này thường là V-ing.Và (2) danh từ chỉ người hành động (agentive nouns), đây là kết quả của việc kết hợp động từ với tiếp tố -er chẳng hạn như: reader, writer, listener… Trong tiếng Việt thì các tổ hợp: người đọc, người viết, người nghe… theo chúng tôi đây là những danh ngữ chứ không phải là tổ hợp danh hóa. c. Phương thức danh hóa động từ phổ biến nhất trong tiếng Anh là kết hợp với hậu tố -ing, còn trong tiếng Việt là kết hợp với tiền tố sự. Hậu tố -ing có thể vừa kết hợp với những động từ chỉ hành động để tạo thành những danh từ/danh ngữ chỉ quá trình nhưng cũng có thể kết hợp với những động từ trừu tượng để tạo ra một danh từ/danh ngữ trừu tượng. Trong tiếng Việt, sự thường kết hợp với những động từ trừu tượng, và kết quả của hiện tượng danh hóa với sự là danh từ/danh ngữ mang tính khái quát trừu tượng, không phải là những từ chỉ hành động cụ thể rõ ràng, chúng thường chỉ những cảm nhận của con người. d. Về phương thức danh hóa thì hiện tượng chuyển loại (lâm thời), tức động từ được dùng với tư cách là danh từ thì trong tiếng Anh phổ biến hơn trong tiếng Việt, điều này được thể hiện qua việc so sánh bảng 1 và bảng 2. Trong tiếng Anh, phương thức danh hóa bằng việc chuyển loại lâm thời (không kết hợp phụ tố) đứng thứ 3 sau hậu tố -ing và –ion, còn trong tiếng Việt, việc danh hóa bằng cách chuyển loại lâm thời đứng vị trí thứ 8 trong bảng 2, tức là phương thức này ít được sử dụng so với các phương thức danh hóa khác e. Những yếu tố danh hóa trong tiếng Việt có sắc thái ý nghĩa tinh tế và phức tạp hơn trong cách sử dụng so với tiếng Anh. Đôi khi tùy trường hợp, tùy phong cách hay nhu cầu diễn đạt của tác giả mà có thể có cách dùng khác nhau, chẳng hạn như có thể nói: hy vọng/ niềm hy vọng, ham muốn/ sự ham muốn/ nỗi ham muốn… Trong tiếng Anh, cách sử dụng từ phái sinh đã có những quy tắc rõ ràng, không thể uyển chuyển thay đổi cách sử dụng, ngoài ra, các tiếp tố không mang ý nghĩa tình thái như trong tiếng Việt. 2.3.2 Sự giống nhau giữa hiện tượng danh hóa động từ trong tiếng Anh và tiếng Việt a. Danh hóa động từ trong tiếng Anh và tiếng Việt đều có thể tạo ra những danh từ/danh ngữ trừu tượng. b. Hiện tượng danh hóa trong cả hai ngôn ngữ đều có thể tạo ra một danh ngữ có ý nghĩa định danh cho loại thực thể định loại quá trình/hoạt động chung chung. c. Động từ trong cả hai ngôn ngữ có thể danh hóa thành danh từ chỉ người ví dụ như trong tiếng Anh: read (đọc)-> reader (người đọc); write (viết) -> writer (người viết), còn trong tiếng Việt cũng có thể danh hóa tương tự như ca –ca sĩ (tương tương với tiếng Anh: sing -> singer); họa ->họa sĩ ( tương đương với tiếng Anh: paint -> painter). Tuy nhiên kiểu danh hóa này trong tiếng Anh phổ biến hơn nhiều so với tiếng Việt. 10 11 d. Trong tiếng Anh, khi tổ hợp danh từ đã được danh hóa đứng ở vị trí chủ ngữ trong câu cũng thường biểu thị tính thực hữu của sự tình và sự nhấn mạnh hoặc khẳng định thông tin hay sự việc xảy ra.Tương tự trong tiếng Việt, khi dùng những câu có tổ hợp danh từ việc + động từ làm chủ ngữ, người ta thường có hàm ý nhấn mạnh tính thực hữu hoặc khẳng định tính đúng đắn của thông báo biểu hiện câu. e. Cả hai ngôn ngữ đều có sự chuyển loại nội tại, nhiều từ vừa là động từ vừa có thể được dùng với tư cách là danh từ, vì vậy khi danh hóa có thể không cần phải kết hợp với bất kỳ yếu tố danh hóa nào. CHƯƠNG III SO SÁNH ĐỐI CHIẾU PHƯƠNG THỨC DANH HÓA TÍNH TỪ TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT 3.1 Danh hóa tính từ trong tiếng Anh 3.1.1. Phương thức danh hóa tính từ trong tiếng Anh Trong tiếng Anh, danh hóa tính từ có ba phương thức chủ yếu đó là: a. Danh hóa tính từ với mạo từ “THE” b. Danh hóa do phái sinh: Tính từ được danh hóa bằng cách thay đổi hình thái hoặc thêm một trong những tiếp tố sau đây: - ness, - ity, -dom, -hood, -th, -tion, -ce… c. Danh hóa không cần kết hợp yếu tố danh hóa 3.1.2 Cấu trúc và ngữ nghĩa của tổ hợp danh hóa tính từ trong tiếng Anh 3.1.2.1 Danh hóa tính từ với mạo từ “THE” Trong tiếng Anh, tính từ được danh hóa có chức năng như là danh từ trung tâm của danh ngữ. Nếu tính từ được danh hóa được dùng để chỉ người thì đó là danh từ số nhiều mặc dù về hình thức không có dấu hiệu là danh từ số nhiều, và để chuyển tính từ sang từ có chức năng là một danh từ thì chúng thường được thêm mạo từ “the” vào trước tính từ. Mạo từ “the” cũng có thể được dùng để danh hóa những tính từ chỉ khái niệm trừu tượng. Chức năng của các danh từ trên là danh từ số ít hoặc danh từ không đếm được. Ngoài ra những tính từ cực cấp chỉ những khái niệm trừu tượng cũng được danh hóa với “the. Trong ngữ pháp tiếng Anh, thông thường thì khi sử dụng câu so sánh cực cấp thì người ta sử dụng cấu trúc “the + adj + est” trước danh từ. Các câu so sánh cực cấp thì cấu trúc the + tính từ được xem như the + tính từ + danh từ, và cũng có thể xem the + tính từ là một tổ hợp được danh hóa. 3.1.2.2 Danh hóa tính từ bằng cách phái sinh tính từ Tính từ có thể được danh hóa bằng cách phái sinh từ, thường là biến đổi hình thái hoặc thêm một tiếp tố/ hậu tố vào tính từ. Khi dùng danh từ thay thế cho tính từ, người sử dụng thường muốn khẳng định sự tồn tại hoặc muốn nhấn mạnh làm nổi bật một đặc trưng nào đó của thực thể. Các phương thức để danh hóa bao gồm: a. Thêm tiếp tố -ty, ity, -dom, -hood vào sau tính từ để tạo ra danh từ trừu tượng. b. Thêm –ness vào sau tính từ để tạo ra danh từ chỉ tình trạng hay trạng thái. Nhưng không phải lúc nào cũng có thể danh hóa tính từ trong câu được vì trong tiếng Anh những tính từ chỉ đặc trưng cụ thể mà con người có thể cảm nhận trực tiếp được như tall, short, old, fast, low… không phải là những tính từ có thể danh hóa mặc dù cũng có những danh từ có cùng gốc với tính từ như: tallness, shortness, fastness, lowness…bởi vì danh từ và tính từ có nghĩa khác nhau trong câu. c. Ngoài ra còn thêm một số tiếp tố khác vào tính từ để tạo thành danh từ chỉ đặc tính hay trạng thái của thực thể như: -tion, -ce, -cy, -th… 11 12 Những tính từ chỉ mức độ và sự đo lường trong tiếng Anh cũng ít khi được danh hóa, vì khi chuyển đổi từ tính từ sang danh từ câu hoàn toàn không còn giống nghĩa ban đầu. Tương tự, những danh từ chỉ sự đo lường thì nghĩa cũng không liên quan gì với dạng tính từ ví dụ như height, age, speed, elevation, altitude,.v.v… và tính từ trong câu có thể đi cùng với những từ chỉ mức độ. Khi danh hóa tính từ, không chỉ phái sinh từ tính từ thành danh từ mà còn phải thay đổi bổ từ chỉ mức độ trong câu được danh hóa nữa, chẳng hạn như so, too, as, enough, more… 3.1.2.3 Danh hóa không cần kết hợp yếu tố danh hóa Trong tiếng Anh, có nhiều từ vừa là danh từ vừa là tính từ. Tính từ có thể được sử dụng như danh từ riêng, danh từ chung và danh từ trừu tượng. Những danh từ riêng chẳng hạn như Indian, American, và African cũng là những tính từ có thể hành chức như danh từ. Việc này hoàn toàn tùy thuộc vào cách sử dụng chúng ở dạng số nhiều hay số ít. Nếu từ được sử dụng ở dạng số nhiều thì từ đó hành chức với tư cách là một danh từ và nếu được sử dụng ở dạng số ít thì nó cũng có thể là tính từ hoặc danh từ. Ngoài ra, cũng giống như những tính từ được danh hóa chỉ khái niệm trừu tượng, tính từ chỉ màu sắc được danh hóa cũng có chức năng là danh từ số ít hoặc danh từ không đếm được. 3.2. Danh hóa tính từ trong tiếng Việt 3.2.1. Phương thức danh hóa tính từ trong tiếng Việt Để danh hóa một tính từ, chúng ta có ba phương thức cơ bản sau: a. Chuyển hóa một tính từ thành một tổ hợp có tính danh từ bằng cách kết hợp tính từ đó với một yếu tố danh hóa: CÁI, SỰ, NỖI, NIỀM b. Tính từ được danh hóa với VẺ, VIỆC, ĐIỀU, ĐIỀM, TÍNH c. Tính từ được danh hóa bằng cách kếp hợp với lượng từ NHỮNG, MỖI, MỌI, MỘT, BAO/BIẾT BAO/NHIỀU d. Danh hóa không cần kết hợp yếu tố danh hóa 3.2.2 Cấu trúc và ngữ nghĩa của tổ hợp danh hóa tính từ 3.2.2.1 Danh hóa tính từ với “CÁI” a. “Cái”có thể kết hợp với những tính từ biểu thị những đặc trưng được nhận thức trực tiếp thông qua các giác quan. b. ‘Cái’ có thể kết hợp với nhóm tính từ biểu thị những đặc trưng được nhận thức một cách cảm tính. Ngoài ra, một đặc điểm chung nữa của tổ hợp cái + tính từ là nó trình bày một thực thể đặc trưng một cách hình ảnh, gợi cho người đọc, người nghe cái cảm giác về hình ảnh, cái hình hài của một thực thể vốn vô cùng trừu tượng. Tóm lại cái + tính từ đơn tiết là những tổ hợp có khả năng định danh, sau tổ hợp này không cần định ngữ, trong khi tổ hợp cái + tính từ đa tiết biểu thị một loại thực thể cụ thể của một loại thực thể, loại tổ hợp này phải có định ngữ. Tính từ biểu thị đặc trưng càng cụ thể bao nhiêu càng ít khả năng danh hóa bấy nhiêu. 3.2.2.2 Danh hóa tính từ với “SỰ” Trong phần danh hóa động từ, sự hầu như không danh hóa cho các động từ đơn tiết. Nó có thể danh hóa cho hầu hết các động từ thuộc các tiểu loại khác nhau miễn là các động từ là động từ đa tiết. Đặc tính này cũng thể hiện khi sự danh hóa cho tính từ. Cũng như các tổ hợp cái + tính từ, tổ hợp sự + tính từ cũng tạo nên tổ hợp danh từ mang tính chất của một danh từ trừu tượng. Do sự không danh hóa cho những tính từ đơn tiết, bất kể tính từ đó biểu thị đặc trưng cụ thể hay trừu tượng, nên cái đã đảm nhiệm việc danh hóa cho những tính từ này tạo ra các tổ hợp định danh cho các thực thể, kết quả của sự trừu tượng hóa những đặc trưng, biểu thị bằng những tính từ đơn tiết (chẳng hạn: xấu, đẹp, đúng, sai…) Tổ hợp danh từ cái 12 13 + tính từ chỉ trình bày cái thực thể đó mà không hàm ý đối lập thực thể ấy với thực thể khác. Vì lý do này, sau tổ hợp sự + tính từ có thể có hoặc không có định ngữ. Các tổ hợp danh từ sự + tính từ luôn là một tổ hợp định danh, chúng có tính chất như danh từ chỉ chất liệu. Có thể thấy rằng trong hiện tượng danh hóa, nhóm tính từ đa tiết đã hình thành hai loại tổ hợp danh từ phân biệt nhau khá rõ ràng: loại tổ hợp danh từ định danh cho các loại thực thể - đặc trưng: sự + tính từ và loại tổ hợp biểu thị một thực thể đặc trưng cụ thể: cái + tính từ. Do có tính chất giống như các danh từ chỉ chất liệu nên các tổ hợp danh từ sự + tính từ có thể kết hợp với từ chỉ xuất cái hoặc số từ một, đặc tính này cũng không có ở tổ hợp cái + tính từ. 3.2.2.3 Danh hóa tính từ với” VẺ, VIỆC, ĐIỀU, ĐIỀM, TÍNH” Bản thân từ “vẻ” đã là một danh từ khái quát với ý nghĩa là “sắc diện, dáng điệu tự nhiên hay do tình cảm khiến nên” [76]. Trong thực tế chúng ta rất hay gặp những trường hợp “vẻ” có thể kết hợp với tính từ đơn tiết (vẻ buồn, vẻ giận, vẻ vui…) và tính từ đa tiết (vẻ trầm tư, vẻ tư lự, vẻ sốt sắng, vẻ ngạo mạn, vẻ băn khoăn…) chỉ trạng thái, tình cảm hoặc chỉ điện mạo của con người để tạo nên tổ hợp danh hóa. Ngoài “vẻ” ra thì các từ “ việc”, “điều” “điềm” “tính” cũng được dùng để danh hóa tính từ. Tự thân các từ “ việc”, “điều” “điềm” “tính” đã là danh từ. Việc thường có nghĩa là cái phải làm, điều chỉ sự việc, sự kiện cụ thể hoặc ngôn ngữ trong cách đối xử hàng ngày, điềm có nghĩa là dấu hiệu báo trước việc gì đó, tính là những thói quen, tâm lí riêng của mỗi người, biểu hiện qua cách cư xử, thái độ. Khi tính từ kết hợp với những từ trên sẽ tạo nên những danh ngữ trừu tượng chỉ bản chất của con người hay sự việc đã, đang hoặc sắp xảy ra. Trong những danh ngữ trên - kết quả của hiện tượng danh hóa tính từ - tính từ đóng vai trò là định ngữ bổ nghĩa cho danh từ trung tâm (việc, điều, điềm, tính), và mối quan hệ giữa chúng cũng rất chặt chẽ. Chính vì thế, chúng cũng được xem là một trong những phương thức danh hóa tính từ. 3.2.2.4. Danh hóa tính từ với lượng từ NHỮNG, MỌI, MỘT, BAO/BIẾT BAO/NHIỀU Trong luận án này, chúng tôi xem những, mọi, một, bao/biết bao/nhiêu là yếu tố danh hóa. Chúng tôi nhận thấy một đặc điểm chung là trước những “danh từ” có những, sau chúng phải dùng của và các danh từ này phải là danh từ đa tiết. Đây là những trường hợp tính từ được dùng lâm thời như một danh từ. Trong một ngữ cảnh nhất định nó được dùng thay thế cho cả tổ hợp: những (cái/ việc) + tính từ. Trong các ngữ cảnh khác những tính từ này vẫn là những tính từ đích thực, nó không thể làm bổ ngữ cho một động từ, không thể đứng sau giới từ của. Ngoài việc kết hợp với những, mọi, một, tính từ có thể kết hợp với bao/biết bao/nhiều để tạo nên những danh ngữ. 3.2.2.5 Danh hóa tính từ không cần kết hợp yếu tố danh hóa Tính từ có thể chuyển thành danh từ mà không cần kết hợp với bất kỳ yếu tố danh hóa nào. Chúng thường là những tính từ đa tiết, có ý nghĩa thiên về biểu thị tình thế, trạng thái hơn là tính từ của sự vật hiện tượng. Về nghĩa từ vựng thì các “danh từ” này không có gì thay đổi nhưng chức vụ cú pháp thì thay đổi, các “danh từ” này thường đứng đầu câu làm chủ ngữ. Đây là hiện tượng chuyển loại bên trong từ, danh từ tương ứng với tính từ đó biểu thị một thực thể đặc trưng, cụ thể, và hiện tượng này ngày càng được sử dụng nhiều hơn trong cuộc sống hàng ngày. 3.3 So sánh đối chiếu phương thức danh hóa tính từ trong tiếng Anh và tiếng Việt 3.3.1 Sự khác nhau giữa phương thức danh hóa tính từ trong tiếng Anh và tiếng Việt + Hiện tượng danh hóa tính từ trong tiếng Anh chủ yếu là do biến đổi hình thái tính từ, hoặc thêm các tiếp tố -ance, -ness, -tion, -dom, -ce, -ence,- cy, -ty,- th,-ity,-hood… vào tính từ để phái sinh từ thành danh từ. Ngoài ra trong tiếng Anh còn có hiện tượng biến âm, khi một tính từ được chuyển thành danh từ thì nguyên âm chính của từ cũng được biến đổi. Còn trong tiếng Việt, hiện tượng danh hóa tính từ chủ yếu là do sự kết hợp tính từ với các yếu tố danh hóa như: cái, sự, nỗi, 13 14 niềm và những tính từ đa tiết có thể lâm thời được dùng như danh từ, nhất là khi kết hợp với: những, mọi. + Kết quả của hiện tượng danh hóa tính từ trong tiếng Anh có thể tạo ra danh từ chỉ người số nhiều, còn trong tiếng Việt thì không có trường hợp nào như vậy. + Trong tiếng Anh, những tính từ cực cấp có thể danh hóa để tạo ra những khái niệm trừu tượng và chức năng của danh từ này thường là danh từ số ít hoặc danh từ không đếm được, còn trong tiếng Việt không thể danh hóa những tính từ cực cấp. + Trong tiếng Anh không có sự phân biệt giữa tính từ đơn tiết hay đa tiết khi danh hóa, còn trong tiếng Việt khi danh hóa tính từ thường có sự phân biệt giữa tính từ đơn tiết và đa tiết. 3.3.2 Sự giống nhau giữa phương thức danh hóa tính từ trong tiếng Anh và tiếng Việt + Việc danh hóa tính từ trong tiếng Anh ngoài sự biến đổi hình thái còn có sự kết hợp mạo từ the với tính từ, như vậy the được xem là một yếu tố danh hóa, phương thức này giống với phương thức danh hóa trong tiếng Việt, nhằm tạo ra một tổ hợp danh từ: yếu tố danh hóa + tính từ. Trong tiếng Anh: the + tính từ được dùng để nói về một nhóm người cụ thể nào đó trong xã hội: the young, the old, the blind… + Sản phẩm danh hóa tính từ ở cả hai ngôn ngữ đều có thể tạo ra những danh từ hay những khái niệm trừu tượng. Những tính từ biểu thị một đặc trưng càng trừu tượng, càng khái quát bao nhiêu thì càng có khả năng danh hóa bấy nhiêu. + Những tính từ chỉ những đặc trưng cụ thể mà con người có thể tri nhận trực tiếp bằng giác quan thường không được danh hóa. Chẳng hạn các tính từ như: nặng, nhẹ, nhanh, chậm, béo, gầy, cao, thấp… + Danh hóa tính từ cũng là một trong những biện pháp tu từ hay nói chính xác hơn là biện pháp ẩn dụ ngữ pháp trong cả hai ngôn ngữ. Việc danh hóa tính từ để chỉ sự dịch chuyển từ tính chất của sự vật hiện tượng, sang các đặc điểm chỉ tính chất đó. Việc danh hóa tính từ có thể tỉnh lược chủ thể hay tác nhân, biến diễn trình thành hiện tượng, khái niệm, đặc điểm như chức năng biểu đạt của danh từ hay nói cách khác đi là cách biểu đạt nghịch ngôn nhằm nhấn mạnh sự tình và chủ ý của người nói/ người viết. + Cũng giống như việc danh hóa động từ, cả hai ngôn ngữ đều có sự chuyển loại bên trong tính từ và danh từ, có nghĩa là khi danh hóa tính từ không cần kết hợp với bất kỳ yếu tố danh hóa nào. CHƯƠNG IV SO SÁNH ĐỐI CHIẾU PHƯƠNG THỨC DANH HÓA MỆNH ĐỀ TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH Nếu như danh hóa động từ và tính từ là danh hóa thuộc cấp độ từ (lexical nominalization) thì danh hóa mệnh đề là danh hóa mang tính cú pháp (syntactic nominalization). 4.1. Danh hóa mệnh đề trong tiếng Anh Danh hóa mệnh đề là một tiến trình chuyển đổi một mệnh đề vị ngữ mang tính điển mẫu sang một danh ngữ. 4.1.1 Phương thức danh hóa 4.1.1.1. Các loại mệnh đề được danh hóa trong tiếng Anh Chomsky (1970) đã chia danh hóa mệnh đề trong tiếng Anh thành hai loại đó là gerundive nominals (danh hóa bằng cách thêm –ing vào động từ) và derived nominals (danh hóa phái sinh). Ngoài ra, một số mệnh đề phụ ngữ (complement clause) cũng được xem là danh ngữ - đây là kết quả của hiện tượng danh hóa khi mệnh đề này hành chức như danh ngữ trong câu. 4.1.1.2 Phương thức danh hóa mệnh đề trong tiếng Anh Trong tiếng Anh danh hóa mệnh đề được thực hiện chủ yếu bằng hai cách sau: 14 15 a. Kết hợp mệnh đề với THAT hoặc THE FACT THAT và những từ bắt đầu bằng wh-: WHAT(EVER), WHEN(EVER), WHO(EVER), WHO(EVER) và HOW. b. Phái sinh động từ của mệnh đề thành danh ngữ: Danh hóa bằng cách thêm –ING vào động từ. Khi mệnh đề danh hóa bằng cách thêm –ing vào động từ cũng cần lưu ý có sự khác biệt giữa mệnh đề được danh hóa và mệnh đề phụ ngữ. Về hình thức hai cấu trúc trên cũng gần giống nhau, nhưng chúng lại khác nhau về chức năng và ý nghĩa. 4.1.2 Cấu trúc, ngữ nghĩa của tổ hợp danh hóa mệnh đề trong tiếng Anh 4.1.2.1 Danh hóa mệnh đề với THAT hoặc THE FACT THAT Trong tiếng Anh that – clause là một trong những hình thức của mệnh đề được danh hóa, chẳng hạn như: 1. It was surprising that Somu gave younger brother the money [ Koptjevskaja –Tamn,122, tr. 283] (Thật ngạc nhiên là (về việc) Somu cho em trai tiền) 2. I didn’t know that so many arrived [Koptjevskaja –Tamn, 122,tr. 282] (Tôi không biết là (việc) quá nhiều người đến) Trong các ví dụ trên, các mệnh đề được xem có vai trò giống như chủ ngữ hoặc bổ ngữ, và các cấu trúc trên được xem là “thực hữu”, những điều mà người nói đưa ra hoặc giả định là điều đúng và người nói khẳng định về điều đó. Tuy nhiên cũng cần chú ý một số động từ mang tính thực hữu (factive) như: regret (hối hận/ đáng tiếc), resent (không hài lòng/ phẫn nộ), ignore (lờ đi, không chú ý) và những động từ không mang tính thực hữu (non-factive) chẳng hạn: claim (đòi, khẳng định), assert (quả quyết), suppose (cho rằng/ nghĩ rằng). Ngoài ra cũng có sự khác nhau giữa các mệnh đề có chứa hệ từ: khi mệnh đề có các tính từ: significant, odd, exciting thì ý nghĩa lại mang tính thực hữu, còn các tính từ likely, possible, true và false thì ý nghĩa lại không mang tính thực hữu. Như vậy việc danh hóa mệnh đề bằng “that” có thể tạo ra ý nghĩa thực hữu hoặc không thực hữu còn tùy thuộc vào động từ hoặc tính từ được sử dụng trong câu. Không giống như danh hóa thực hữu (factive nominalizations), hầu hết các trường hợp danh hóa không mang tính thực hữu (non- factive nominalilations) có chủ ngữ, và chủ ngữ này có thể chuyển thành chủ ngữ của của mệnh đề chính. Hơn thế nữa, việc hoán chuyển vị trí có thể xảy ra trong mệnh đề có bổ ngữ mang tính thực hữu, còn đối với bổ ngữ mà ý nghĩa không mang tính thực hữu thì không hoán chuyển vị trí được. Theo Zeno Vendler [161, tr. 36] để chuyển một câu hay mệnh đề thành một danh ngữ với “That” thì có các cấu trúc sau (n là nominal- từ mang tính danh từ): nV+ That he died surprised me. (Việc anh ta qua đời làm tôi ngạc nhiên) NV n I know that he died (Tôi biết việc anh ta qua đời) n is A That he died is unlikely (Việc anh ta qua đời là điều không tưởng) n is N That he died is a fact (Việc anh ta qua đời là sự thật) Ngoài việc danh hóa mệnh đề bằng “that” ra, cụm từ “the fact that” (thực tế là) trong câu tiếng Anh cũng có thể dùng để danh hóa mệnh đề và có thể dịch là việc… Ví dụ như: - One characteristic regarding farm holidays is the fact that the different offers are so varied (CB) (Một đặc điểm có liên quan đến ngày hội nông nghiệp chính là những lời chào mời rất đa dạng) Mệnh đề được danh hóa trong tiếng Anh thường xuất hiện ở danh từ trừu tượng, số ít (sau mệnh đề được danh hóa là động từ được chia ở số ít). Câu được danh hóa có thể biểu hiện một sự tình thực hữu. 15 16 Ngoài việc kết hợp that/ the fact that để danh hóa mệnh đề thì những từ bắt đầu bằng whcũng có thể dùng để danh hóa mệnh đề trong tiếng Anh. Theo Thomson và Martinet [155, tr.247] thì danh mệnh đề có thể bắt đầu bằng các từ what, when, who, why hoặc how ví dụ như: - They’ll believe whatever you tell them. (Họ sẽ tin những gì tôi nói với họ) - I forget who told me this.(Tôi quên ai là người nói với tôi điều này) Luận án chấp nhận quan điểm của Lester M. có nghĩa là mệnh đề được danh hóa là mệnh đề được dùng như danh ngữ. Hai ví dụ trên tổ hợp whatever you tell them và who told me this được cho là danh ngữ vì chúng hành chức như danh ngữ và giữ vị trí tân ngữ trong câu. Thế nên chúng tôi cũng xem các việc kết hợp các từ bắt đầu bằng wh- cũng là một trong những phương thức danh hóa mệnh đề. 4.1.2.2 Danh hóa mệnh đề bằng cách phái sinh động từ Mặc dù the fact that có thể dùng để danh hóa mệnh đề nhưng trong tiếng Anh hiện đại thì người ta có khuynh hướng ít dùng cụm từ này, vì nhiều người cho rằng nó làm cho câu văn có vẻ rườm rà hơn. Chính vì thế người ta cũng có thể danh hóa bằng cách bỏ đi cụm từ “the fact that” và chuyển động từ thành danh từ (bằng cách phái sinh, hoặc thêm –ing sau động từ) nhằm lượt bớt đi một số từ không cần thiết lắm và làm cho câu văn ngắn gọn hơn, súc tích hơn. Ví dụ: a) The fact that I denied what he accused me of impressed the jury. (Việc tôi từ chối những gì mà ông ấy cáo buộc tôi đã gây ấn tượng đối với ban hội thẩm) -> My denial of his accusations impressed the jury. Hoặc có thể viết như sau: -> In denying his accusations, I impressed the jury Việc danh hóa mệnh đề bằng cách phái sinh động từ về mặt ngữ nghĩa cũng không có gì khác so với danh hóa mệnh đề bằng that hoặc the fact that, có nghĩa là nó biểu hiện một sự tình thực hữu hoặc biểu hiện một sự việc có thể xảy ra. Danh hóa mệnh đề thường được dùng trong văn viết nhằm tạo ra những thuật ngữ chuyên môn và trừu tượng và có thể làm cô đọng thông tin trong các câu. Tóm lại, muốn danh hóa mệnh đề trong tiếng Anh chúng ta có thể dùng “that” hay “the fact that” hoặc cũng có thể là những từ bắt đầu bằng wh- trước mệnh đề; ngoài ra có thể danh hóa bằng cách phái sinh động từ của mệnh đề trở thành danh từ trung tâm của danh ngữ đó. Danh hóa mệnh đề trong tiếng Anh rất quan trọng trong văn viết, vì nó có thể làm cho câu văn chuẩn mực hơn, trang trọng hơn và chuyển tải được nhiều thông tin hơn. 4.2 Danh hóa mệnh đề trong tiếng Việt 4.2.1 Phương thức danh hóa Danh hóa mệnh đề trong tiếng Việt có hai phương thức sau: a. Kết hợp mệnh đề với “VIỆC” b. Kết hợp mệnh đề với các yếu tố khác như: SỰ, HIỆN TƯỢNG, VỤ, TRƯỜNG HỢP, TÌNH TRẠNG c. Kết hợp mệnh đề với từ chỉ trỏ “ NÀY, KIA, ẤY, ĐÓ, NỌ” d. Danh hóa mệnh đề bằng cách biến vị ngữ của mệnh đề thành danh từ hoặc định ngữ 4.2.2 Cấu trúc, ngữ nghĩa của tổ hợp danh hóa mệnh đề 4.2.2.1 Danh hóa mệnh đề với VIỆC Chúng ta đã biết, khi danh hóa cho động từ, tổ hợp danh từ việc + động từ định danh cho loại thực thể định loại quá trình. Danh hóa mệnh đề là danh hóa ở cấp độ cú pháp, kết quả của hiện tượng này tạo ra một tổ hợp có thể làm chức năng của danh từ, chúng có thể hành chức như những danh từ. Tổ hợp này biểu thị một sự kiện đã xảy ra mặc dù trước động từ không cần dùng 16 17 từ đã, song hàm ý về tính thực hữu của sự tình được biểu thị ở mệnh đề vẫn được thể hiện. Tổ hợp này biểu thị một thông tin cơ sở. Khi một mệnh đề được danh hóa thì tổ hợp danh hóa việc + mệnh đề luôn biểu thị một sự tình thực hữu, một thông tin cơ sở. Đây là lý do vì sao trước các động từ vị ngữ trong mệnh đề danh hóa rất ít khi dùng các từ đã/sẽ/ đang. Việc xuất hiện các từ sẽ/sắp/đang trước động từ vị ngữ của một số mệnh đề được danh hóa cho thấy một điều là sự tình được biểu thị ở mệnh đề không phải bao giờ cũng là thực hữu. Tuy nó không mang hàm ý về tính thực hữu của sự tình trong những trường hợp này, nó vẫn mang hàm ý về khả năng chắc chắn xảy ra sự tình ấy. 4.2.2.2 Danh hóa mệnh đề với ‘HIỆN TƯỢNG’ Hiện tượng là một danh từ trừu tượng, nhưng ý nghĩa của hiện tượng cụ thể hơn so với việc. Chính vì thế “hiện tượng”dễ có khả năng kết hợp với mệnh đề để tạo thành cấu trúc danh hóa. Tổ hợp danh hóa mệnh đề với hiện tượng bao giờ cũng biểu hiện một sự tình thực hữu, bởi ý nghĩa tự thân của hiện tượng là: từ cái có thể nhận thức được, nghĩa là cái đó phải là cái đã xảy ra. Và tổ hợp danh hóa mệnh đề với hiện tượng không biểu thị một sự kiện đơn lẻ, bất thường như ở tổ hợp danh hóa mệnh đề với việc mà biểu thị một tình trạng được tạo ra bởi một số sự việc đơn lẻ cùng loại. Đó là một tình trạng đã xuất hiện, có thể nhận thấy được nhưng chưa phổ biến. Đặc điểm thứ hai dẫn đến hệ quả là động từ vị ngữ trong mệnh đề danh hóa bằng hiện tượng phải do nhiều hơn một chủ thể thực hiện. Điều này có nghĩa là chủ ngữ của mệnh đề danh hóa với hiện tượng phải là các danh từ biểu thị một tập hợp sự vật nhất định, chứ không thể là các danh từ biểu thị một sự vật đơn nhất, trừ trường hợp danh từ chỉ sự vật duy nhất của thiên nhiên chẳng hạn như trái đất. Trong các trường hợp danh hóa mệnh đề bằng từ hiện tượng, chúng ta đều có thể thay thế hiện tượng bằng việc mà câu vẫn tự nhiên (tất nhiên là khi thay thế sẽ làm thay đổi ý nghĩa của tổ hợp), trong khi chỉ một số rất nhỏ trường hợp có thể thay thế việc bằng hiện tượng. 4.2.2.3 Danh hóa mệnh đề với ‘ VỤ, TRƯỜNG HỢP, TÌNH TRẠNG’ Cũng như hiện tượng, vụ là một danh từ có hàm lượng nghĩa thực khá cụ thể. Vụ cũng thường được dùng trong vai trò của một danh từ trừu tượng. Vụ là một danh từ biểu thị ‘sự việc không hay và rắc rối xảy ra’, với ý nghĩa này vụ thường kết hợp với các động từ biểu thị sự việc, sự kiện không hay mà không cần nhắc đến chủ thể gây ra sự kiện, sự việc đó, chẳng hạn như vụ tai nạn, vụ tiêu cực... Tuy nhiên theo Diệp Quang Ban [3, tr. 43], chúng ta cũng gặp các kiểu kiến trúc như vụ mưa, vụ bão, vụ rét…từ vụ là từ hàm ý chỉ thời gian. Vì vậy kiến trúc này có vụ làm thành tố chính (so sánh với : ngày mưa, ngày gió, ngày bão). Ở luận án này chúng tôi xem xét vụ với tư cách là yếu tố danh hóa mệnh đề. Do ý nghĩa tự thân chi phối, vụ chỉ có thể danh hóa cho những mệnh đề biểu thị một sự kiện, sự việc có tính tiêu cực. Trong các ví dụ trên, nếu thay việc vào vị trí của vụ, câu vẫn tự nhiên. Tuy nhiên khi dùng vụ để danh hóa, mệnh đề danh hóa mang hàm ý đó là một sự kiện, sự việc đã bị/được nhìn nhận từ góc độ của pháp luật. Đôi khi “tình trạng” và “trường hợp” cũng được dùng để danh hóa mệnh đề. “Trường hợp” là danh từ để chỉ cái xảy ra hoặc cái có thể xảy ra, hoặc có nghĩa là hoàn cảnh, còn “ tình trạng” cũng là danh từ thường dùng để chỉ sự tồn tại và diễn biến của các sự việc xét về mặt ảnh hưởng đối với cuộc sống, thường ở khía cạnh bất lợi. Khi danh hóa với mệnh đề, tổ hợp danh hóa cũng thường biểu thị ý nghĩa tiêu cực, sự việc đã xảy ra hoặc giả định có thể xảy ra không như mong đợi của con người, hoặc cũng có thể đó là những sự việc hay hoàn cảnh đặc biệt. 4.2.2.4 Danh hóa mệnh đề với từ chỉ trỏ ‘NÀY, KIA, ẤY, ĐÓ, NỌ’ 17 18 Theo Emeneau, danh ngữ trong tiếng Việt thường có cấu tạo theo lối sau [6, tr. 35- 36]: Từ chỉ loại Loại từ + danh từ biệt loại Danh từ không biệt loại Định ngữ của danh từ Từ chỉ trỏ. Hồ Lê cũng cho rằng những từ chỉ trỏ (này, kia, ấy, đó, nọ...) có thể kết hợp với danh từ để tạo ra cấu trúc danh ngữ [40, tr.37] và nhiều tác giả cũng đã thừa nhận đều này. Thường thì từ chỉ trỏ “này, kia, nọ, ấy…” có thể dùng để mở rộng danh từ thành danh ngữ ví dụ như: “quả cam này” hay “quả ổi kia”, những từ trên vừa là đại từ, vừa là từ chỉ trỏ để chỉ định sự vật cụ thể nhưng cũng có thể được xem là những “tính từ lạ” mang tính chỉ định kết hợp với danh từ để tạo ra danh ngữ. Việc danh từ kết hợp với từ chỉ xuất để tạo thành danh ngữ thì rõ ràng, tuy nhiên chưa ai đề cập đến việc liệu những từ chỉ xuất này có khả năng kết hợp với một mệnh đề để tạo thành danh ngữ hay nói cách khác là những từ chỉ xuất này có thể dùng để danh hóa mệnh đề không. Trước khi trả lời được câu hỏi trên chúng ta cần làm rõ đặc điểm của danh ngữ. Theo Nguyễn Tài Cẩn [7, tr.36-37] thì những tổ hợp được xem là danh ngữ khi có những đặc điểm sau: (a) Trong danh ngữ chỉ có thể có một trung tâm. Nếu có hai trung tâm thì không phải là danh ngữ;(b) cả danh ngữ phải có vai trò ở trong câu tương đương như một danh từ: danh ngữ là dạng triển khai của danh từ; (c) Danh ngữ là một từ tổ mà cấu tạo không liên quan đến một chức vụ cú pháp nhất định nào: có thể tách danh ngữ ra khỏi câu để khảo sát. Tóm lại, theo chúng tôi, những từ chỉ định hay định ngữ là thành tố có thể biến một mệnh đề thành danh ngữ và chúng cũng có thể được xem là một trong những phương thức danh hóa mệnh đề. 4.2.2.5 Danh hóa mệnh đề bằng cách biến vị ngữ của mệnh đề thành danh từ hoặc định ngữ. Theo Nguyễn Minh Thuyết [67], về nguyên tắc, chủ ngữ là động tính từ hoặc cụm chủ CV có thể chuyển thành chủ ngữ danh từ. Để chuyển thành chủ ngữ danh từ, ta chỉ cần thêm vào trước chúng một trong các danh từ trừu tượng như: việc, sự, cuộc, chuyện, hiện tượng…Còn để chuyển chủ ngữ là cụm C-V thành chủ ngữ danh từ thì ngoài cách ấy, ta còn có thể áp dụng một số biện pháp sau: (1) Biến V của cụm C-V ấy thành định ngữ của C;(2) Biến V của cụm chủ vị ấy thành danh từ và biến C thành định ngữ cho danh từ ấy. Như vậy, một trong những cách danh hóa mệnh đề là biến vị ngữ của mệnh đề đó thành danh từ hoặc định ngữ của chủ ngữ, và để thực hiện được những sự biến đổi trên thì từ chỉ sở hữu “của” thường được dùng trong đa số các danh ngữ được biến đổi. 4.3. So sánh đối chiếu phương thức danh hóa mệnh đề trong tiếng Anh và tiếng Việt 4.3.1. Sự khác nhau giữa phương thức danh hóa mệnh đề trong tiếng Anh và tiếng Việt a. Sự khác nhau đầu tiên là cách thức danh hóa. Trong tiếng Anh ngoài phương thức kết hợp mệnh đề với yếu tố danh hóa (the fact that) còn có thể danh hóa mệnh đề bằng cách phái sinh động từ của mệnh đề đó thành danh ngữ trung tâm. Trong tiếng Việt, danh hóa mệnh đề chỉ có thể kết hợp với yếu tố danh hóa chứ không có phương thức phái sinh động từ của mệnh đề. Tuy nhiên trong tiếng Việt có thể danh hóa mệnh đề (cụm chủ vị) bằng cách biến vị ngữ của mệnh đề thành danh từ hoặc định ngữ, điều này làm nên đặc trưng và điểm khác biệt của danh hóa mệnh đề giữa tiếng Anh và tiếng Việt. b. Thứ hai là trong tiếng Việt có trường hợp một mệnh đề/cụm chủ vị đứng đầu câu làm chủ ngữ và có chức năng như một danh ngữ, còn trong tiếng Anh thì không có trường hợp này. 18 19 Trong tiếng Anh thì không trường hợp danh hóa mệnh đề bằng cách kết hợp các từ chỉ định như tiếng Việt. Tuy nhiên, trong tiếng Anh có thể danh hóa mệnh đề bằng cách thêm từ bắt đầu bằng wh- vào trước mệnh đề. c. Thứ tư, trong tiếng Anh không có phương thức danh hóa mệnh đề bằng cách biến vị ngữ của mệnh đề thành danh từ hoặc định ngữ giống như trong tiếng Việt, trong tiếng Anh phải thêm một “yếu tố danh hóa” như “that, the fac that” hoặc các từ như “what, when, why..” mới có thể chuyển một mệnh đề thành một danh ngữ. d. Thứ năm, kết quả của hiện tượng danh hóa mệnh đề ở hai ngôn ngữ đều thể hiện tính thực hữu của sự tình, nhưng về hình thức câu trong tiếng Anh người đọc có thể nhận biết rõ ràng bởi nếu là sự việc đã xảy ra thì động từ trong câu luôn được chia ở thì quá khứ. Còn tiếng Việt thì không dùng phạm trù thì để phân biệt, cụ thể là không dùng từ đã để chỉ rõ sự tình đã xảy ra trong quá khứ. Tuy nhiên trong tiếng Anh, một số trường hợp khi danh hóa mệnh đề còn tùy thuộc vào động từ hoặc tính từ mà ý nghĩa của mệnh đề đó có mang tính thực hữu hay không, chẳng hạn như nếu là động từ: regret, resent, and ignore, hoặc có các tính từ: significant, odd, exciting trong mệnh đề được danh hóa thì mệnh đề đó mang tính thực hữu. Còn nếu mệnh đề được danh hóa có các động từ: claim, assert, suppose và các tính từ: likely, possible, true, false thì ý nghĩa mệnh đề không mang tính thực hữu. 4.3.2 Sự giống nhau giữa phương thức danh hóa mệnh đề trong tiếng Anh và tiếng Việt a. Điểm giống nhau giữa danh hóa mệnh đề trong tiếng Anh và tiếng Việt trước hết là về phương thức danh hóa, trong cả hai ngôn ngữ đều có thể danh hóa mệnh đề bằng cách kết hợp mệnh đề đó với các yếu tố danh hóa (yếu tố danh hóa mệnh đề trong tiếng Anh: that /the fact that hoặc những từ bắt đầu bằng wh-; trong tiếng Việt: việc, vụ, hiện tượng, tình trạng, trường hợp… That/ the fact that / what/when/why… + mệnh đề  danh ngữ (cấu trúc được danh hóa) Việc/ vụ/hiện tượng/ tình trạng/ trường hợp + mệnh đề  danh ngữ (cấu trúc được danh hóa) Mệnh đề danh ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt đều có thể giữ chức vụ chủ ngữ hoặc tân ngữ trong câu. Như vậy việc danh hóa mệnh đề ở hai ngôn ngữ chủ yếu kết hợp với yếu tố danh hóa, và yếu tố này thường đứng đầu mệnh đề để biến một mệnh đề thành một danh ngữ và chúng thường giữa chức vụ chủ ngữ trong câu. Tuy nhiên trong tiếng Việt còn có thể kết hợp với yếu tố danh hóa là từ chỉ trỏ “này, kia, ấy nọ” để danh hóa, và yếu tố này đứng sau mệnh đề, đặc điểm này rất hiếm khi xảy ra trong tiếng Anh. b. Điểm thứ hai là giống nhau về mặt ngữ nghĩa của mệnh đề được danh hóa; sản phẩm của hiện tượng danh hóa mệnh đề đều có thể biểu hiện một sự tình thực hữu hoặc mang hàm ý tính tất yếu sẽ trở thành thực hữu của sự tình. Mệnh đề được danh hóa ở cả hai ngôn ngữ đều có chức năng giống như một danh ngữ và hành chức như một danh ngữ trong câu Danh hóa mệnh đề trong tiếng Việt cũng như trong tiếng Anh là một công cụ thay thế biểu đạt ý nghĩa, và là đặc điểm thường gặp ở loại hình ngôn ngữ viết. Với biện pháp danh hóa mệnh đề, mật độ chặt về ngữ nghĩa được nén trong ngôn từ, biến những chuỗi câu đơn ngắn thành những mệnh đề hoặc câu ghép. Chính vì thế có thể nói, danh hóa mệnh đề giúp cho câu văn trở nên trang trọng hơn và chuyển tải được nhiều thông tin hơn mà không cần phải tăng số lượng từ trong câu. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan