SO SÁNH CHIẾN LƯỢC MARKETING CỦA SẢN PHẨM BỘT
GIẶT OMO VÀ TIDE
1. Lời mở đầu
Marketing không chỉ là một chức năng trong hoạt động kinh doanh,
nó là một triết lý dẫn dắt toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp trong việc phát
hiện ra, đáp ứng và làm thoả mãn cho nhu cầu của khách hàng.
Doanh nghiệp cần phải biết làm thế nào để xác định và phân khúc thị
trường, xây dựng giải pháp hấp dẫn để chào cho khách hàng, và xây dựng
thương hiệu với định vị mạnh. Họ phải biết làm thế nào để làm giá cho giải
pháp của mình một cách hấp dẫn và hợp lý, và làm thế nào để chọn và quản
trị kênh phân phối để đưa sản phẩm của mình đến người tiêu dùng một cách
có hiệu quả. Họ cần phải biết làm thế nào để quảng cáo và giới thiệu sản
phẩm của mình, để khách hàng biết và mua. Không chỉ thế, họ cần phải biết
áp dụng chiến lược thị trường và phương pháp quản trị phù hợp với thực tế
thị trường đầy kỹ thuật mới trong xu hướng toàn cầu hoá
Có người nói rằng không nhất thiết phải có một bộ phận chuyên trách
marketing để làm công việc phân tích thị trường, lập kế hoạch và kiểm soát
các khâu liên quan. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhỏ, hoạt động
không đa dạng nơi mà giám đốc đã có nhiều kinh nghiệm và hiểu biết về
nhu cầu khách hàng. Ngay cả đối với các công ty lớn, cũng không cần phải
có một phòng marketing, bởi vì sản phẩm thì đã có các kỹ sư quản lý, giá cả
thì phòng tài chính-kế toán quản, việc phân phối hàng đã có nhân viên
chuyên trách lo, và việc bán hàng cũng như là quản cáo đã có giám đốc bán
hàng lo.
Cách tiếp cận như vậy thật là nguy hiểm. Các nhà kỹ thuật thường chỉ
chăm chút vào khía cạnh vật chất của sản phẩm, các cô kế toán thường quan
tâm đến giá thành hơn là giá trị thị trường của sản phẩm, các nhân viên giao
hàng thường đặt ưu tiên tối ưu hoá việc quản lý hàng hoá, trong khi lại
không quan tâm lắm về dịch vụ khách hàng vốn quan trọng hơn, và việc bán
hàng cũng như thúc đẩy bán hàng thường được thực hiện không phải theo
cách tốt nhất nhằm đạt mục tiêu chung của doanh nghiệp.
Muốn hay không muốn, do số lượng sản phẩm và thị trường của
doanh nghiệp ngày càng phát triển, và do áp lực cạnh tranh cũng như yếu tố
bất ổn định của môi trường kinh doanh ngày càng tăng, doanh nghiệp cần
phải tổ chức việc quản lý hoạt động marketing tập trung, nếu không sẽ đi
đến chỗ nguy hiểm là doanh nghiệp sẽ sản xuất ra sản phẩm mà về góc độ kỹ
thuật thì tuyệt vời, nhưng lại là một tai hoạ về góc độ thương mại.
Một trong những chiến lược marketing phổ biến hiện nay các doanh
nghiệp thường áp dụng là chiến lược marketing hỗn hợp. Tập hợp bốn biến
số chính (sản phẩm, giá, phân phối và hỗ trợ bán hàng) cấu thành kế hoạch
marketing của doanh nghiệp được gọi là marketing hỗn hợp (marketing
mix). Bốn yếu tố của marketing mix tác động tương hỗ, quyết định về yếu tố
này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của ba yếu tố còn lại.
Sản phẩm (Product): Quản lý các yếu tố của sản phẩm bao gồm lập
kế hoạch và phát triển đúng những mặt hàng/dịch vụ mà công ty sẽ
đưa ra thị trường.
Giá (Pricing): Xác định đúng cơ sở giá cho các sản phẩm.
Phân phối (Placement): Chọn lựa và quản lý các kênh thương mại
để sản phẩm chiếm lĩnh được thị trường mục tiêu đúng thời điểm
và phát triển hệ thống logistic và vận chuyển sản phẩm.
Xúc tiến bán hàng (Promotion): Giới thiệu và thuyết phục thị
trường dùng sản phẩm của doanh nghiệp.
Chính sách sản phẩm
Chính sách về sản phẩm là nền tảng của chính sách marketing hỗn hợp, được
xác định dựa trên kế hoạch kinh doanh quy mô lớn hơn dành cho sản phẩm
mới và chiến lược marketing tổng thể cho mọi sản phẩm đang có của doanh
nghiệp. Khi xem xét chính sách sản phẩm, doanh nghiệp cần quan tâm đến
những vấn đề sau:
Quản lý chất lượng tổng hợp
Phát triển nhãn hiệu và bao bì sản phẩm
Những yếu tố của một nhãn hàng tốt:
Gợi mở một cái gì đó về đặc tính của sản phẩm chẳng hạn như lợi ích,
giá trị sử dụng của sản phẩm.
Dễ phát âm, đánh vần và dễ nhớ.
Dễ phân biệt với các nhãn hàng khác.
Thích nghi với sản phẩm mới để có thể thêm vào dòng sản phẩm sẵn
có của doanh nghiệp
Đúng luật lệ để có thể đăng ký nhãn hàng với cơ quan có thẩm quyền.
(Fundamentals of Marketing - McGraw-Hills)
Chính sách giá
Ngày nay, giá cả không phải là yếu tố cạnh tranh hàng đầu nhưng vẫn luôn
được coi là yếu tố cạnh tranh quan trọng trong việc thu hút khách hàng đặc
biệt là ở những thị trường mà thu nhập của dân cư còn thấp. Trong việc phát
triển sản phẩm mới doanh nghiệp phải có chính sách giá thích hợp để tạo
cho sản phẩm có chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
Trong chính sách giá đối với sản phẩm mới, doanh nghiệp có thể theo đuổi
những mục tiêu cơ bản sau đây:
Để tồn tại (giá cao hơn chi phí)
Để tối đa hoá lợi nhuận trước mắt
Để tăng thị phần
Để thu hồi vốn nhanh
Để dẫn đầu về chất lượng
Các mục tiêu khác: một doanh nghiệp có thể dùng giá để phục vụ cho
một số mục tiêu cụ thể hơn. Doanh nghiệp có thể đặt giá ở mức thấp
để ngăn chăn cạnh tranh hay đặt giá bằng giá của đối thủ cạnh tranh
để giữ ổn đinh thị trường. Giá có thể được quyết đinh ở mức giữ uy
tín cũng như hỗ trợ các hãng buôn hay để tránh sự can thiệp của
Chính phủ.
Chính sách phân phối sản phẩm
Nội dung cơ bản của chính sách phân phối trong marketing sản phẩm mới là
thiết kế và quản lý mạng lưới bán hàng trong giai đoạn đầu doanh nghiệp
tung sản phẩm ra thị trường.
Mạng lưới bán hàng đó là tập hợp các kênh với sự tham gia của các chủ thể
khác nhau có sức mạnh và uy tín khác nhau để đưa hàng hoá từ doanh
nghiệp sản xuất đến các khách hàng một cách thành công.Việc thiết kế và
quản lý các kênh bán hàng hoá mới của doanh nghiệp phải bảo đảm các yêu
cầu cơ bản sau đây:
Phù hợp với tính chất của sản phẩm.
Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng trong việc tiếp cận và
tìm mua sản phẩm một cách dễ dàng.
Xem xét kênh phân phối của đối thủ cạnh tranh.
Các kênh phân phối cần đảm bảo tăng doanh số bán của công ty và
thiết lập mối quan hệ bền vững với các trung gian.
Xúc tiến bán hàng
Hoạt động xúc tiến hỗn hợp trong marketing là sự kết hợp tổng hợp các hoạt
động sau:
- Quảng cáo
- Khuyến mại
- Chào hàng hay bán hàng cá nhân
- Tuyên truyền
Toàn bộ các hoạt động xúc tiến trên phải được phối hợp để đạt tác dụng
truyền thông tối đa tới người tiêu dùng.
Ngoài ra, các doanh nghiệp ngày nay còn quan tâm đến 3 yếu tố khác nữa,
cùng với 4 yếu tố trên tạo thành chiến lược marketing hỗn hợp 7Ps: Con
người (People), Progress (Quy trình) và Cơ sở vật chất (Physical evidence)
Dưới đây, chúng ta sẽ cùng nhau phân tích chiến lược marketing của 2 nhãn
hàng bột giặt lớn nhất Việt Nam hiện nay là Omo của tập đoàn Unilever và
Tide của tập đoàn P&G.
2. Giới thiệu chung và so sánh chiến lược của 2 nhãn hàng
2.1. Giới thiệu về chung về Unilever và P&G Việt Nam
Trong lĩnh vực hàng tiêu dùng nhanh (FMCG - Fast Moving
Consumer Goods),Unilever và P&G (Procter & Gamble) luôn là 2 tên tuổi
đầu sỏ lớn nhất trên thế giới.Lịch sử phát triển của 2 tập đoàn khổng lồ này
cũng na ná nhau.Cả 2 đều là corporate - sáp nhập từ 2 công ty. Đối với
Unilever là công ty Uni (Margarine Union) của Hà Lan và công ty Lever
(Lever Brothers - khởi đầu sản xuất xà phòng), còn P&G là công ty Procter
và Gamble đều của Mỹ (một công ty sản xuất nến,cái còn lại sản xuất xà
phòng) và sở hữu rất nhiều nhãn hiệu nổi tiếng rất quen thuộc với người tiêu
dùng, không những Việt Nam mà còn các nước trên thế giới. Các sản phẩm
này hầu như đi vào mọi ngóc ngách trong cuộc sống của mỗi người dân Việt
Nam.
Cả 2 đều có các thương hiệu đối đầu trực tiếp với nhau. Có thể kể một
vài sản phẩm như bột giặt Tide đối đầu với với bột giặt Omo, nước xả vải
Downy với Comfort, xà bông Safeguard với Lifebouy, dầu gội đầu Head &
Shoulders với Clear, Rejoice với Sunsilk, Pantene với Dove, kem dưỡng da
Olay Total Effects+ với Pond, thuốc nhuộm tóc Wella và Sunsilk Color...
Nếu so sánh về mức độ phổ biến của cả 2 trên thế giới (chủ yếu nói về
thị trường Mỹ và Châu Âu) thì P&G hơn hẳn Unilever, còn tại thị trường
Việt Nam thì Unilever có phần lấn lướt hơn nhờ mảng marketing rất mạnh,
đa dạng và độc đáo, đơn cử như để đẩy mức độ phổ biến và tầm ảnh hưởng
trong lĩnh vực chăm sóc quần áo,chiến lược "Đám cưới vải" quá thành công
vì độc đáo và tạo được tiếng vang lớn. P&G thì không được như thế vì chiến
lược tổ chức khác xa so với Unilever.
Cơ cấu tổ chức của P&G không phải dạng cây mà là dạng biểu đồ
tròn, phân theo đặc trưng từng lĩnh vực, miếng này là bên nguyên liệu, kho
bãi..., miếng kia là về sales và marketing, miếng khác lại là bộ phận quản lý
và lãnh đạo...và quản lý theo vùng,vùng nào mạnh nhất vùng đó có ảnh
hưởng đến các vùng khác,vì thế kinh phí rót cho marketing ở Việt Nam có
giới hạn,người ta không đủ khả năng để tổ chức các chương trình hoành
tráng và rầm rộ như Unilever, hoặc là marketing của Unilever tài giỏi hơn...
Về sự xâm nhập vào thị trường Việt Nam, thật ra thế hệ cha anh
chúng ta đã từng biết đến bột giặt Tide Mỹ từ thế chiến thứ 2. Do ở Mỹ,
P&G hầu như là độc quyền, họ trúng được hợp đồng cung cấp bột giặt cho
lính Mỹ viễn chinh ở Việt Nam, nên cấp tốc xây dựng nhà máy sản xuất bột
giặt ở Philippine để cung cấp cho quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam, kể từ đó
Tide trở nên quen thuộc đối với người dân Việt Nam. Cũng như đã đề cập ở
trên, Philippine có nhà máy lâu đời và thị phần cũng lớn mạnh hơn so với
Việt Nam nên được quyền chi phối về ngân sách marketing.
P&G luôn là người tiên phong. Chính tập đoàn này đã đề ra khái niệm
quản trị thương hiệu và là nơi khai sinh ra hình thức quảng cáo trailer (kiểu
các trailer của các bộ phim bom tấn nhằm mục đích quảng cáo, marketing
hay PR…). Tuy nhiên ở Việt Nam, Unilever rất mạnh về mảng thực phẩm
và beverage (thức uống), bỏ xa P&G, với một số thương hiệu lẫy lừng như
nước mắm và bột nêm từ thịt Knorr, bánh snack Taro, trà Lipton...
2.2. So sánh chiến lược marketing của Omo và Tide
Omo
Tide
Định vị sản phẩm
Unilever định vị Omo là sản phẩm
Khác với Omo, Tide tập trung định
bột giặt có khả năng đánh bay vết
vị mình là sản phẩm có khả năng làm
bẩn với slogan “Ngại gì vết bẩn”.
trắng sáng quần áo
Trong suốt những năm qua, Omo
luôn kiên định đi theo con đường này
với những chiến dịch khác nhau như
đánh bật 99 vết bẩn khó giặt, chuyên
gia giặt tẩy vết bẩn Omo, Omo đánh
bật vết bẩn đã khô
Sản phẩm
- Tên sản phẩm: Omo => Dễ nhớ
- Tên sản phẩm: Tide => Rất nổi
- Bao bì sản phẩm: Màu chủ đạo là
tiếng, là nhãn hiệu số 1 tại Mỹ trước
màu đỏ và màu xanh là với thiết kế
đó
bắt mắt, 2 mặt bao bì đều là mặt
- Bao bì: Màu chủ đạo cũng là màu
chính và có đủ kích cỡ cho người sử
đỏ cùng với Logo xanh da trời, tuy
dụng
nhiên bao bì thiết kế hơi đơn điệu và
- Chủng loại sản phẩm: Có rất nhiều
kém nổi bật so với Omo
loại với các mùi hương khác nhau
- Chủng loại sản phẩm: Không nhiều
như Omo
Chiến lược giá
Omo định vị mình trong phân khúc
Lúc mới thâm nhập vào Việt Nam,
giá trung bình, bởi vì nhãn hàng nhận P&G định giá cao hơn Omo, tuy
thấy 80% người tiêu dùng Việt Nam
nhiên do sự cạnh tranh khốc liệt,
sống ở nông thôn.
chiến lược giá của Tide phải thay đổi
và đang hạ dần mức giá của mình sát
với Omo
Năm 2002, thị trường chứng kiến cuộc chiến khốc liệt về giá giữa Omo và
Tide nhằm mục đích nhanh chóng chiếm lĩnh trường, chiến lược hạ giá được
khởi xướng hồi đầu tháng 8/2002 giữa P&G và Unilever.
Tuy nhiên, khi giá giảm đến mức sàn, không gồng nổi nữa họ bèn rủ nhau
tăng giá. Cuộc chiến phải ngã ngũ giá cả trở về như cũ. Sau khoảng 6 tháng
so kè, hai thương hiệu này bắt tay nhau, rồi cứ thế mà cùng nhau tăng giá
đến ngày hôm nay.
Chiến lược phân phối
Omo thừa hưởng hệ thống phân phối Tide cũng có hệ thống phân phối
rộng khắp với hơn 100.000 địa điểm
mạnh nhờ nằm trong hệ thống của
của Unilever. Gồm:
tập đoàn P&G.
- Kênh trực tiếp: Từ nhà sản xuất đến Tuy nhiên, tại các siêu thị và cửa
người tiêu dung
hàng, hình ảnh của Tide không nổi
- Kênh gián tiếp: Qua nhà bán lẻ, nhà bật bằng đối thủ, số hàng xuất hiện
phân phối
cũng ít hơn, đặc biệt ở khu vực miền
Ngoài ra, tại các cửa hàng & siêu thị, Bắc & Trung.
hình ảnh nhãn hàng Omo được phủ
khắp, trưng bày hàng đẹp mắt
Chiến lược xúc tiến bán hàng
Thông thường đối với một nhãn hàng Khi mới xuất hiện tại Việt Nam, Tide
đã quen thuộc với người tiêu dùng
có chiến dịch quảng cáo rầm rộ, hình
thì không nhất thiết phải chi quá
ảnh xuất hiện mọi nơi và trở nên
nhiều và quảng bá hình ảnh sản
quen thuộc với người tiêu dùng Việt
phẩm. Tuy nhiên, Omo dù đã rất
Nam, tuy nhiên nhãn hàng dường
quen thuộc với người tiêu dùng Việt
như chỉ dừng lại tại đây.
Nam, nhãn hàng vẫn rất tích cực
Sau này người tiêu dùng chỉ nhìn
quảng bá hình ảnh sản phẩm của
thấy hình ảnh của Tide với mức độ
mình trên hầu hết các phương tiện
lác đác, mẫu quảng cáo không được
truyền thông. Chiến dịch quảng cảo
đổi mới, gây nhàm chán cho người
của họ luôn nhất quán với định vị sản tiêu dùng. Chính vì thế, Tide đã bị bỏ
phẩm là “đánh bật vết bẩn” nhưng
xa so với đối thủ cạnh tranh của
hình thức và hình ảnh quảng cáo
mình.
luôn được đổi mới để không gây
Nhận biết được điều này, gần đây,
nhàm chán với người tiêu dùng.
Tide đã tích cực đổi mới các mẫu
Ngoài ra, Omo thường xuyên có các
quảng cáo và xuất hiện trên các
chương trình khuyến mại, đặc biệt
phương tiện truyền thông nhiều hơn.
vào các dịp tết để cảm ơn người tiêu
Về mặt chăm sóc khách hàng, rõ
dùng và cũng để tăng cường mức độ
ràng Tide còn thua xa Omo, các
trung thành của người tiêu dùng với
chương trình khuyến mại dành cho
nhãn hàng.
người tiêu dùng rất thưa thớt.
Như vậy từ việc phân tích chiến lược marketing của Tide và Omo, chúng ta
có thể nhận thấy, dù là nhãn hàng đã thân thuộc với người tiêu dùng thì cũng
cần được thường xuyên củng cố về mặt hình ảnh, thường xuyên có các
chương trình chăm sóc khách hàng để giữ được thị phần, đặc biệt trong sự
cạnh tranh khốc liệt của thị trường hiện nay.
- Xem thêm -