Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn sáng kiến kinh nghiệm tiểu học một số biện pháp dạy học luyện từ và câu nhằ...

Tài liệu Skkn sáng kiến kinh nghiệm tiểu học một số biện pháp dạy học luyện từ và câu nhằm bồi dưỡng tư duy cho hoc sinh lớp 4

.PDF
39
243
120

Mô tả:

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Năng lực tư duy là điều kiện cần và đủ để khám phá và lĩnh hội tri thức. Ngày nay, khi nền kinh tế tri thức tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất thì việc rèn luyện tư duy của mỗi người lại càng hết sức cần thiết. Trong nền kinh tế ấy, tri thức trở thành quyền lực, trở thành chìa khoá mở cửa tương lai. Không có những năng lực, phẩm chất của tư duy, con người không có khả năng nắm bắt tri thức, lĩnh hội tri thức và cũng không có khả năng vận dụng tri thức. Làm thế nào để phát triển tư duy cho người học một cách hiệu quả? Đó là câu hỏi đặt ra không chỉ cho ngành Giáo dục mà cho toàn xã hội. Trong thực tế, phát triển tư duy cho người học là mục tiêu quan trọng của các chương trình dạy học. Để đạt được mục tiêu đó, chương trình thường cấu trúc theo hướng đồng tâm và phát triển; Phương pháp dạy học hướng vào người học nhằm tôn trọng lợi ích, quyền lợi, sáng tạo cá nhân của họ. Nhờ đó, tư duy của người học sẽ được hình thành và phát triển trong môi trường, điều kiện tốt nhất. “Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng” (Mác). Ngôn ngữ và tư duy luôn có mối quan hệ biện chứng, chặt chẽ. Thực tế cho thấy trẻ em có kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ thì những năng lực, phẩm chất tư duy của các em cũng được thể hiện rõ. Ngược lại, trẻ em không có ngôn ngữ hoặc khả năng ngôn ngữ kém thì năng lực tư duy cũng hạn chế. Tuy vậy, cần nhận thức rằng, ngôn ngữ và tư duy thống nhất chứ không đồng nhất. Mối quan hệ biện chứng giữa ngôn ngữ và tư duy cho thấy môn Tiếng Việt có nhiều lợi thế trong việc rèn luyện và phát triển tư duy cho học sinh. Chính vì vậy, mục tiêu cơ bản của việc dạy học Tiếng Việt là hình thành và phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp cho học sinh. Điều đó cũng có nghĩa là hình thành và phát triển điều kiện cần thiết, quan trọng để phát triển tư duy. Mặt khác, Tiểu học là cấp học đầu tiên đặt cơ sở cho việc hình thành và phát triển nhân cách con người, đặt nền tảng cho giáo dục phổ thông và các cấp học trên. Là những chủ nhân tương lai của đất nước, đòi hỏi học sinh cần phải có khả năng tư duy cần thiết. Nhằm giúp học sinh có khả năng tư duy, môn Tiếng Việt ở Tiểu học đặt ra mục tiêu là trang bị cho các em những kiến thức về hệ thống tiếng Việt, chuẩn tiếng Việt, rèn cho học sinh kỹ năng sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp. Trong đó phân môn Luyện từ và câu là một trong những phân môn quan trọng có ý nghĩa to lớn trong chương trình Tiểu học. Luyện từ và câu giúp học sinh mở rộng, hệ thống hoá vốn từ và trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về từ và câu. Rèn cho học sinh một số kỹ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các dấu câu. Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói - viết thành câu, có ý thức sử dụng tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp, rèn luyện phát triển tư duy, bồi dưỡng tình cảm tốt đẹp cho học sinh. Việc bồi dưỡng và nâng cao chất lượng phân môn "Luyện từ và câu" sẽ giúp các em làm giàu vốn từ, vốn tri thức về tâm hồn. Từ đó, các em tích luỹ cho mình những kỹ năng tư duy phù hợp. Nhận thức được những vấn đề trên nên em quyết định chọn đề tài: “Một số biện pháp dạy học Luyện từ và câu nhằm bồi dưỡng tư duy cho hoc sinh lớp 4”. 2. Mục đích nghiên cứu Làm rõ tầm quan trọng của việc bồi dưỡng tư duy cho học sinh Tiểu học. Đề xuất một số biện pháp nhằm bồi dưỡng tư duy cho học sinh lớp 4 thông qua môn Luyện từ và câu. 3. Đối tƣợng nghiên cứu - Biện pháp, phương pháp dạy học tiếng Việt. - Bồi dưỡng tư duy cho học sinh Tiểu học. 4. Giả thuyết khoa học. Nếu đề tài này thành công thì sẽ giúp cho giáo viên có được một số phương pháp dạy học phù hợp nhằm bồi dưỡng tư duy cho sinh Tiểu học. Bên cạnh đó học sinh sẽ được phát triển khả năng tư duy một cách tốt nhất trong phân môn Luyện từ và câu. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu về bồi dưỡng học sinh giỏi về mảng bồi dưỡng tư duy. - Nghiên cứu về thực trạng bồi dưỡng tư duy cho học sinh lớp 4 qua phân môn Luyện từ và câu. - Đề xuất một số biện pháp nhằm bồi dưỡng tư duy cho hoc sinh lớp 4 qua phân môn Luyện từ và câu. 6. Phạm vi nghiên cứu - Học sinh lớp 4. - Phân môn Luyện từ và câu. 7. Phƣơng pháp nghiên cứu 7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết Để thực hiện đề tài này thì trong nhóm này tôi chọn phương pháp chính là: - Phương pháp phân tích, tổng hợp các lý thuyết. - Phương pháp mô hình hóa. Ngoài ra, tôi còn sử dụng thêm phương pháp: đọc sách và nghiên cứu tài liệu. 7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn Tôi chọn phương pháp chính là: - Phương pháp quan sát sư phạm. - Phương pháp thực nghiệm khoa học. Bên cạnh đó tôi còn sử dụng thêm một số phương pháp sau: - Phương pháp điều tra. - Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động. 7.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học - Phương pháp thống kê, lập bảng số liệu. 8. Đóng góp mới của đề tài Về mặt lý luận: Làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc bồi dưỡng tư duy cho học sinh Tiểu học. Về mặt thực tiễn: Đưa ra một số phương pháp dạy Luyện từ và câu nhằm bồi dưỡng tư duy cho học sinh lớp 4; là tài liệu nghiên cứu cho các công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt và các công trình nghiên cứu sau có liên quan. 9. Cấu trúc của đề tài: Gồm có 3 phần: Mở đầu; Nội dung; Kết luận. Trong phần nội dung gồm có 3 chương chính: - Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu - Chương 2: Một số biện pháp bồi dưỡng tư duy cho học sinh lớp 4 qua phân môn Luyện từ và câu - Chương 3: Thực nghiệm sư phạm PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Bồi dưỡng tư duy 1.1.1.1. Khái niệm Trong thế giới hiện thực có rất nhiều cái con người chưa biết, chưa nhận thức được. Nhiệm vụ của cuộc sống luôn đòi hỏi con người phải hiểu thấu những cái chưa biết đó, phải vạch ra được cái bản chất và những quy luật tác động của chúng. Quá trình nhận thức đó gọi là tư duy. Theo tâm lý học, tư duy là thuộc tính đặc biệt của vật chất có tổ chức cao – bộ não người. Tư duy phản ánh thế giới vật chất dưới dạng các hình ảnh lý tưởng: “Tư duy phản ánh những thuộc tính bên trong, bản chất, những mối liên hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng mà trước đó ta chưa biết”. Quá trình phản ánh này là quá trình gián tiếp, độc lập và mang tính khái quát, được nảy sinh trên cơ sở hoạt động thực tiễn, từ sự nhận thức cảm tính nhưng vượt xa các giới hạn của nhận thức cảm tính. Dưới góc độ giáo dục, có thể hiểu tư duy là hệ thống gồm nhiều ý tưởng, tức là gồm nhiều biểu thị tri thức về một vật hay một sự kiện. Nó dùng suy nghĩ hay tái tạo suy nghĩ để hiểu hay giải quyết một việc nào đó. Theo cách hiểu đơn giản nhất, tư duy là một loạt những hoạt động của bộ não diễn ra khi có sự kích thích. Những kích thích này nhận được thông qua bất kì giác quan nào trong năm giác quan: xúc giác, thị giác, thính giác, khứu giác hay vị giác. Tóm lại, có thể hiểu tư duy là một hiện tượng tâm lý, là hoạt động nhận thức bậc cao ở con người. Cơ sở sinh lý của tư duy là sự hoạt động của vỏ đại não. Hoạt động tư duy đồng nghĩa với hoạt động trí tuệ. Mục tiêu của tư duy là tìm ra các triết lý, lý luận, phương pháp luận, phương pháp, giải pháp trong các tình huống hoạt động của con người. 1.1.1.2. Đặc điểm của tư duy Tư duy mà con người là chủ thể chỉ nảy sinh khi gặp tình huống “có vấn đề”. Tuy nhiên vấn đề đó phải được cá nhân nhận thức đầy đủ, được chuyển thành nhiệm vụ cá nhân (cái gì đã biết, cái gì cần tìm kiếm), đồng thời nằm trong ngưỡng hiểu biết của cá nhân và là nhu cầu động cơ tìm kiếm của cá nhân. Tiếp theo, tư duy luôn phản ánh cái bản chất nhất chung cho nhiều sự vật hợp thành một nhóm, một loại, một phạm trù, đồng thời trừu xuất khỏi những sự vật đó những cái cụ thể, cá biệt. Ngoài ra, tư duy luôn phản ánh gián tiếp hiện thực. Trong tư duy, có sự thoát khỏi những kinh nghiệm cảm tính. Cuối cùng, ngôn ngữ có vai trò cố định lại các kết quả của tư duy và nhờ đó làm khách quan hóa chúng cho người khác và cho cả bản thân chủ thể tư duy. 1.1.1.3. Các giai đoạn của tư duy K.K.Platonôv sơ đồ hóa các giai đoạn của một hành động (quá trình) tư duy. Theo đó, mỗi hành động tư duy là một quá trình giải quyết một nhiệm vụ nảy sinh trong quá trình nhận thức hay trong hoạt động thực tiễn. Quá trình tư duy bao gồm nhiều giai đoạn từ khi gặp tình huống có vấn đề đến khi giải quyết nó rồi lại khởi đầu cho một hành động tư duy mới. Có thể nói, xác định được vấn đề là giai đoạn đầu tiên và quan trọng nhất của mỗi quá trình tư duy. Tiếp theo là việc huy động các tri thức, kinh nghiệm, những liên tưởng nhất định của bản thân chủ thể đến vấn đề đã được xác định và biểu đạt. Cuối cùng, khi giả thuyết đã được khẳng định và chính xác hóa thì nó sẽ được hiện thực hóa bằng câu trả lời, hay đáp số cho vấn đề đặt ra. Vấn đề đã được giải quyết lại làm một khâu khởi đầu cho một hoạt động tư duy mới. Như vậy quá trình tư duy diễn ra theo các giai đoạn, cho dù vấn đề tư duy nảy sinh từ đâu, trong lý luận hay trong hoạt động thực tiễn, thì cũng đều diễn ra theo quy trình kể trên. 1.1.1.4. Các thao tác tư duy Tính giai đoạn của tư duy mới chỉ phản ánh được cấu trúc bên ngoài của tư duy, còn nội dung bên trong của mỗi giai đoạn trong hành động tư duy lại là một quá trình diễn ra trên cơ sở những thao tác tư duy. Có thể nói các thao tác trí tuệ chính là các quy luật bên trong của tư duy. Theo các kết quả nghiên cứu trong tâm lý học, tư duy diễn ra thông qua các thao tác sau: - Phân tích: là quá trình dùng trí óc để phân chia đối tượng nhận thức thành các bộ phận, các thành phần khác nhau từ đó vạch ra được những thuộc tính, những đặc điểm của đối tượng nhận thức hay xác định các bộ phận của một tổng thể bằng cách so sánh, phân loại, đối chiếu, làm cho tổng thể được hiển minh. - Tổng hợp: là quá trình dùng trí óc để hợp nhất, sắp xếp hay kết hợp những bộ phận, những thành phần, những thuộc tính của đối tượng nhận thức đã được tách rời nhờ sự phân tích thành một chỉnh thể để từ đó nhận thức đối tượng một cách bao quát, toàn diện hơn. Trong tư duy, tổng hợp là thao tác được xem là mang dấu ấn sáng tạo. Khi nói người có “đầu óc tổng hợp” thì cũng tương tự như nói người có “đầu óc sáng tạo”. - So sánh - tương tự: là thao tác tư duy nhằm “xác định sự giống nhau và khác nhau giữa các sự vật hiện tượng của hiện thực”. Nhờ so sánh người ta có thể tìm ra các dấu hiệu bản chất giống nhau và khác nhau của các sự vật. Ngoài ra còn tìm thấy những dấu hiệu bản chất và không bản chất thứ yếu của chúng. - Trừu tượng hoá: trừu tượng hoá là quá trình dùng trí óc để gạt bỏ những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ, quan hệ thứ yếu, và chỉ giữ lại những yếu tố đặc trưng, bản chất của đối tượng nhận thức. - Khái quát hoá: là quá trình dùng trí óc để hợp nhất nhiều đối tượng khác nhau thành một nhóm, một loại theo những thuộc tính, những liên hệ, quan hệ chung, bản chất của sự vật, hiện tượng. Kết quả của khái quát hoá là cho ra một đặc tính chung của hàng loạt các đối tượng cùng loại hay tạo nên nhận thức mới dưới hình thức khái niệm, định luật, quy tắc. Tóm lại, các thao tác tư duy cơ bản được xem như quy luật bên trong của mỗi hành động tư duy. Trong thực tế tư duy, các thao tác đan chéo vào nhau mà không theo trình tự máy móc. Tuy nhiên, tùy theo từng nhiệm vụ tư duy, điều kiện tư duy, không phải mọi hành động tư duy cũng nhất thiết phải thực hiện tất cả các thao tác trên. 1.1.2. Phân môn Luyện từ và câu lớp 4 1.1.2.1. Mục đích dạy Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4: a) Hình thành và phát triển kỹ năng tiếng Việt: - Thực hiện mục tiêu hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Sách giáo khoa tiếng Việt 4 tiếp tục lấy nguyên tắc giao tiếp làm định hướng cơ bản. Việc rèn luyện kỹ năng sử dụng tiếng Việt thông qua tất cả các phân môn Tập đọc, Chính tả, Tập làm văn, Luyện từ và câu. Phân môn luyện từ và câu được học từ lớp 2, song đến lớp 4 mới có những tiết học dành riêng để trang bị kiến thức cho học sinh. Các em được mở rộng, hệ thống hoá vốn từ, được trang bị kiến thức sơ giản về từ, câu, kỹ năng dùng từ đặt câu, sử dụng dấu câu Việt để học tốt các phân môn tiếng b) Sử dụng từ, câu tiếng việt giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, năng lực tư duy: - Thông qua các bài Tập đọc, Kể chuyện, Tập làm văn, Luyện từ và câu...học sinh được rèn luyện và phát triển trí tưởng tượng ngay từ các bài thơ, bài văn... c) Giúp học sinh ý thức và thói quen sử dụng tiếng Việt, văn hóa trong giao tiếp để trẻ tích luỹ những hiểu biết cần thiết về tiếng Việt: - Quá trình học "Luyện từ và câu" giúp các em biết sử dụng từ ngữ phù hợp trong giao tiếp hàng ngày với bạn bè, bố mẹ và mọi người xung quanh. Bồi dưỡng cho các em biết thưởng thức cái đẹp, biết thể hiện những buồn, vui, yêu, ghét của con người. Từ đó, học sinh biết phân biệt đẹp, xấu, thiện, ác để hoàn thiện nhân cách cho bản thân. 1.1.2.2. Nội dung và mức độ cần đạt: a) Đối tượng để học sinh làm bài: - Là những bài tập mở rộng vốn từ theo chủ điểm, những bài tập về từ, câu. b) Yêu cầu cần đạt: - Nắm kiến thức về từ ngữ qua các chủ điểm. - Nắm kiến thức sơ giản về câu. - Rèn cho học sinh các kỹ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các dấu câu. - Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu; có ý thức sử dụng tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp. c) Nội dung dạy học: Phân môn luyện từ và câu ở lớp 4 được dạy trong 62 tiết : HKI : 32 tiết ; HKII 30 tiết. Bao gồm các nội dung sau: *Mở rộng hệ thống hoá vốn từ: (19 tiết) - Các từ ngữ được mở rộng và hệ thống hoá theo trường nghĩa tương đương các chủ điểm. + HK I: 9 tiết Nhân hậu – Đoàn kết (tuần 2, 3) Trung thực – Tự trọng (tuần 5, 6) Ước mơ (tuần 9) Ýchí – Nghị lực (tuần 12, 13) Đồ chơi – Trò chơi (tuần 15; 16) + HK II: 10 tiết Tài năng (tuần 19) Sức khoẻ (tuần 20) Cái đẹp (tuần 22, 23) Dũng cảm (tuần 25, 26) Du lịch – Thám hiểm (tuần 29, 30) Lạc quan – Yêu đời (tuần 33, 34) - Các từ ngữ được mở rộng và hệ thống thông qua các bài tập. Tìm từ ngữ theo chủ điểm. Tìm hiểu nắm nghĩa của từ; Phân loại từ ngữ. Tìm hiểu nghĩa của thành ngữ, tục ngữ theo chủ điểm; luyện sử dụng từ ngữ. * Tiếng, cấu tạo từ: (5 tiết) - Cung cấp một số kiến thức sơ giản về cấu tạo của tiếng, cấu tạo của từ + Cấu tạo của tiếng tuần 1: 2 tiết + Từ đơn và từ phức tuần 3: 1 tiết + Từ ghép và từ láy tuần 4: 2 tiết - Các dạng bài tập: Nhận diện và phân tích cấu tạo của tiếng, từ; Phân loại từ theo cấu tạo; Tìm từ theo kiểu cấu tạo; Luyện sử dụng từ. * Từ loại: (9 tiết) - Cung cấp một số kiến thức sơ giản về cấu tạo từ loại của tiếng Việt. + Danh từ (tuần 5, 6, 7, 8: 5 tiết gồm cả cách viết danh từ riêng) + Động từ (tuần 9 và 11: 2 tiết) + Tính từ (tuần 11 và 12: 2 tiết) - Các dạng bài tập: Nhận diện từ theo loại; Luyện viết danh từ riêng; Tìm và phân loại từ theo từ loại; Luyện sử dụng từ. * Câu: 26 tiết - Cung cấp các kiến thức sơ giản về cấu tạo, công dụng, và cách sử dụng các kiểu câu: + Câu hỏi: tuần 13, 14, 15 – 4 tiết. + Câu kể: tuần 16, 17, 19, 20, 21, 22, 24, 25, 26 – 12 tiết bao gồm các kiểu câu: ai làm gì; ai thế nào; ai là gì? + Câu khiến: tuần 27, 29- 3 tiết + Câu cảm: tuần 30 – 1 tiết + Thêm trạng ngữ cho câu: tuần 31, 32, 33, 34 - 6 tiết - Các dạng bài tập: Nhận dạng các kiểu câu; Phân tích cấu tạo câu; Đặt câu theo mẫu nhằm thực hiện các mục đích cho trước; Lựa chọn kiểu câu để đảm bảo lịch sự trong giao tiếp; Luyện sử câu trong các tình huống khác nhau; Luyện mở rộng câu. * Dấu câu: 3 tiết - Cung cấp kiến thức về công dụng và luyện tập sử dụng các dấu câu: + Dấu hai chấm (tuần 2: 1 tiết) + Dấu ngoặc kép (tuần 8: 1 tiết) + Dấu chấm hỏi (tuần 13 học cùng câu hỏi) + Dấu gạch ngang (tuần 13: 1 tiết) - Các dạng bài tập: Tìm công cụ của dấu câu; Luyện sử dụng dấu câu (đặt dấu câu vào chỗ thích hợp, tập viết câu, đoạn có sử dụng dấu câu). 1.1.2.3. Các biện pháp dạy học chủ yếu: a) Cung cấp kiến thức mới: - Giáo viên tổ chức cho HS làm các bài tập ở phần nhận xét theo các hình thức: + Trao đổi chung cả lớp. + Trao đổi từng nhóm (tổ; bàn; hoặc 2, 3HS). + Tự làm cá nhân, qua đó HS rút ra kết luận theo các điểm cần ghi nhớ về kiến thức. b) Luyện tập và mở rộng vốn từ: - Giáo viên cho học sinh nhắc lại một số kiến thức có liên quan, rồi tổ chức cho học sinh làm các bài tập theo các hình thức trao đổi nhóm, thi đua giữa các nhóm, cá nhân. Cần lưu ý các vấn đề sau: + Hướng dẫn HS tìm hiểu kĩ yêu cầu của bài tập. + Chữa mẫu cho học sinh một phần hoặc 1 bài để hướng dẫn cách làm. + Hướng dẫn học sinh làm vào vở ( bảng con, bảng phụ, bảng nháp…) + Hướng dẫn HS nêu kết quả, chữa bài tậpvà tự kiểm tra kết quả luyện tập. 1.1.3. Cơ sở tâm lí học 1.1.3.1. Đặc điểm tâm lý của học sinh Tiểu học Hệ thần kinh của học sinh Tiểu học đang trong thời kì phát triển mạnh. Đến chín, mười tuổi hệ thần kinh của trẻ căn bản được hoàn thiện và chất lượng của nó sẽ được giữ lại trong suốt cuộc đời. Trong thời kì này các em sẽ có những đặc điểm tâm lý như khả năng kìm hãm (khả năng ức chế) của hệ thần kinh còn yếu, dễ bị kích thích. Tri giác mang tính đại thể, toàn bộ, ít đi sâu vào chi tiết, mang tính không chủ động, gắn với hành động và với hoạt động thực tiễn. Tuy vậy trẻ cũng bắt đầu có khả năng phân tích, tách dấu hiệu, chi tiết nhỏ của một đối tượng cụ thể. Trí nhớ tuy đã phát triển nhưng còn chịu nhiều tác động từ hứng thú và các hình mẫu tác động mạnh. Nhiều học sinh còn chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa mà có khuynh hướng phát triển trí nhớ máy móc. Tưởng tượng của học sinh Tiểu học đã phát triển phong phú. Càng về những năm cuối cấp học, tưởng tượng của các em càng gần hiện thực hơn. Điều này chứng tỏ học sinh cuối cấp Tiểu học đã biết tưởng tượng sáng tạo, một trong những yếu tố cơ bản, cần thiết của tư duy. 1.1.3.2. Đặc điểm tư duy của học sinh Tiểu học Trong Tâm lý học nhận thức, Piaget đã đưa ra thuyết hoạt động hóa nhằm mô tả các cấu trúc lôgic khác nhau có tính kế thừa trong quá trình phát triển trí tuệ của con người từ khi sinh ra tới tuổi trưởng thành. Ông cho rằng tư duy của trẻ hình thành và phát triển liên tục theo từng giai đoạn cụ thể. Theo ông, ở giai đoạn từ 0 đến 2 tuổi, trẻ chỉ sử dụng công cụ tư duy là tri giác và động tác có khả năng biểu hiện. Đó là thời kì trí tuệ cảm giác – vận động tiền ngôn ngữ. Từ 2 tuổi đến khoảng 7 tuổi là khởi đầu cho một thời kì mới. Ở giai đoạn này, trẻ có tư duy mang chức năng tượng trưng (kí hiệu), chuyển từ trí tuệ cảm giác - vận động sang trí tuệ biểu tượng. Có nghĩa là các em nhận thức đối tượng chủ yếu và trực tiếp thông qua các giác quan. Như vậy tư duy của trẻ đã chuyển từ tiền hoạt động sang thời kì hoạt động cụ thể, từ tiền thao tác sang thao tác. Thực chất của loại tư duy này là trẻ tiến hành các hành động để phân tích, so sánh, đối chiếu các sự vật. Trong giai đoạn tiếp theo (thường là học sinh từ lớp 3, lớp 4), trẻ đã chuyển được các hành động phân tích, khái quát, so sánh từ bên ngoài thành các thao tác trí óc bên trong, mặc dù tiến hành các thao tác này vẫn phải dựa vào các hành động đối với đối tượng thực, chưa thoát ly khỏi chúng. Trẻ đã có khả năng đảo ngược các hình ảnh tri giác, khả năng bảo tồn sự vật khi có sự thay đổi các hình ảnh tri giác về chúng. Từ 10 và 11 tuổi trở đi, tư duy của trẻ đã chuyển dần sang hoạt động hình thức hay còn gọi là hoạt động giả thuyết – suy diễn, không còn bám giữ vào đối tượng (đồ vật, hiện tượng) cụ thể, mà căn cứ vào “giả thuyết’’. Thời kì tư duy hình thức phát triển ở tuổi thiếu niên (vị thành niên). Các thao tác tư duy như phân tích – tổng hợp, khái quát – trừu tượng hóa còn sơ đẳng ở các lớp đầu cấp Tiểu học, chủ yếu chỉ tiến hành hoạt động phân tích – trực quan - hành động khi tri giác trực tiếp đối tượng. Nhưng trong quá trình học tập dần lên các lớp trên thì khả năng phân tích - tổng hợp, trừu tượng hóa – khái quát hóa trong tư duy của trẻ có sự phát triển vượt bậc. Học sinh cuối cấp này có thể phân tích đối tượng mà không cần tới những hành động thực tiễn đối với đối tượng đó. Các em có khả năng phân biệt những dấu hiệu, những khía cạnh khác nhau của đối tượng dưới dạng ngôn ngữ. Như vậy, theo thời gian, hoạt động tư duy của học sinh Tiểu học có nhiều biến đổi cơ bản. Sự thay đổi mối quan hệ giữa tư duy hình tượng, trực quan cụ thể sang tư duy trừu tượng, khái quát chiếm ưu thế và là đặc điểm mới, nổi bật về hoạt động tư duy của học sinh cuối cấp Tiểu học. 1.1.3.2. Lý Luận dạy học: Trong lứa tuổi Tiểu học, học sinh có rất ít vốn từ, mỗi môn học cung cấp cho học sinh thêm một số từ để làm công cụ học tập cũng như trong giao tiếp. Tất cả các môn học và các phân môn Tiếng Việt đều có vai trò to lớn trong việc dạy từ. Chúng mở rộng sự hiểu biết về thế giới, con người, góp phần làm giàu vốn từ cho học sinh. Nguồn cơ bản của dạy Luyện từ và câu được xem là kinh nghiệm sống của cá nhân học sinh và những quan sát thiên nhiên, con người của các em. Dạy Luyện từ và câu phải gắn với đời sống, gắn với việc làm giàu những biểu tượng tư duy, bằng con đường quan sát trực tiếp và thông qua những mẫu lời nói. Tiết học Luyện từ và câu góp phần rèn luyện và phát triển kỹ năng sử dụng ngôn ngữ một cách thành thạo, góp phần phát triển kỹ năng giao tiếp và sử dụng văn bản sau này. 1.2. Cơ sở thực tiễn Trong quá trình dạy học chúng ta thường quan tâm đến 3 vấn đề quan trọng đó là sách giáo khoa và các tài liệu khác, trình độ giáo viên, trình độ học sinh. Sách giáo khoa có chức năng giúp học sinh lĩnh hội, củng cố, đào sâu những tri thức tiếp thu được trên lớp, phát triển năng lực trí tuệ và có tác dụng giáo dục học sinh đồng thời giúp giáo viên xác định nội dung kiến thức và lựa chọn phương pháp, phương tiện dạy học, tổ chức công tác dạy học của mình. Vì vậy, mỗi giáo viên cần phải tìm hiểu nghiên cứu để có hiểu biết về chương trình. 1.2.1. Về phía giáo viên Trước đây được đào tạo chuyên ngành với nhiều hình thức trình độ đào tạo khác nhau, có sự chênh lệch nhau về kiến thức, kỹ năng. Không ít giáo viên gặp khó khăn trong quá trình giảng dạy. Vì vậy, dạy học ở Tiểu học còn đơn điệu, nặng nề, học sinh chưa tích cực chủ động tiếp thu bài, giáo viên cũng gặp không ít khó khăn về cơ sở vật chất, về phương tiện dạy học… Hiện nay, đã thực hiện đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm giáo viên chỉ là người hướng dẫn chỉ đạo, tổ chức cho học sinh hoạt động nên giờ học hiện nay có khởi sắc hơn nhưng vấn đề quan tâm đến bồi dưỡng tư duy cho các em còn rất hạn chế. Bên cạnh đó, đối với phân môn Luyện từ và câu không ít giáo viên vẫn chưa thoát khỏi quỹ đạo của phương pháp dạy học truyền thống. Một số giáo viên vẫn coi học sinh Tiểu học là đối tượng nói theo, làm theo khuôn mẫu, ít sáng tạo và khả năng tư duy còn thấp. Chính vì vậy cần đổi mới phương pháp dạy học "Luyện từ và câu" theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học để giờ học sinh động, hấp dẫn, hiệu quả. Với đặc thù của phân môn Luyện từ và câu là trang bị những kiến thức cơ bản về từ ngữ, ngữ pháp tiếng Việt để các em học tốt các môn học khác. Bởi vậy, việc bồi dưỡng và nâng cao hiểu biết về từ, câu, kỹ năng sử dụng tiếng Việt văn hoá là vô cùng quan trọng góp phần kích thích sự phát triển tư duy, hoàn thiện nhân cách cho học sinh. 1.2.2. Về phía học sinh Đối với học sinh trong nhà trường, học sinh không chỉ là đối tượng được giáo dục mà còn là chủ thể chính của nhận thức, rèn luyện kỹ năng và thông qua đó hình thành nhân cách con người mới. Vì vậy, hoạt động giảng dạy của giáo viên đều hướng vào học sinh làm sao cho học sinh có hứng thú với bài học thông qua đó rút ra được kiến thức. Tuy nhiên học sinh Tiểu học ngại học môn từ ngữ, ngữ pháp. Phải nói rằng phân môn Luyện từ và câu đối với các em là một môn học khó, khô khan nên bồi dưỡng tư duy về tiếng Việt cho học sinh lớp 4 rất khó. Các em chỉ mới hiểu nghĩa của từ, cấu tạo từ, song vốn từ của các em còn nghèo, không thể diễn đạt một cách trôi chảy những cảm nhận của mình. Nhưng nếu giáo viên tổ chức không linh hoạt các hình thức, phương pháp dạy học thì học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động, các em sẽ không có điều kiện để thỏa sức sáng tạo, nâng cao trình độ hiểu biết và khả năng tư duy thấp. CHƢƠNG II: CÁC BIỆN PHÁP DẠY LUYỆN TỪ VÀ CÂU NHẰM BỒI DƢỠNG TƢ DUY CHO HỌC SINH LỚP 4 2.1. Quy trình dạy Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4: Các bước lên lớp của một tiết dạy Luyện từ và câu giữ một vị trí quan trọng, với nội dung kiến thức mỗi bài khác nhau, song lại tương đương nhau và “đồng dạng”. nên có quy trình chung là : 2.1.1. Kiểm tra bài cũ: Giáo viên yêu cầu học sinh giải được các bài tập ở nhà hoặc nêu ngắn gọn những điều đã học ở tiết trước, cho ví dụ minh hoạ. 2.1.2. Dạy bài mới: - Giới thiệu bài: + Có thể giới thiệu gián tiếp (như liên hệ với bài cũ) + Giới thiệu trực tiếp. - Hướng dẫn học sinh luyện tập: Giáo viên tổ chức cho học sinh thực hiện từng bài tập trong sách giáo khoa theo một trình tự chung là: + Đọc và xác định yêu cầu của bài tập. + Học sinh giải một phần bài tập làm mẫu. + Học sinh làm bài tập theo hướng dẫn của giáo viên. + Tổ chức trao đổi, nhận xét về kết quả, rút ra những điểm ghi nhớ vào kiến thức. 2.1.3. Củng cố, dặn dò: Giáo viên chốt lại những kiến thức, kỹ năng cần nắm vững ở bài luyện tập, nêu yêu cầu thực hành, luyện tập ở nhà. 2.2. Các biện pháp dạy Luyện từ và câu nhằm bồi dƣỡng tƣ duy cho học sinh lớp 4: Để bồi dưỡng tư duy cho học sinh trong môn Luyện từ và câu, giáo viên cần tăng cường cho học sinh thực hiện những hoạt động học tập như: - Đặt câu hỏi với các từ ngữ, thành ngữ đã cho; - Viết tiếp vào chỗ chấm đề hoàn chỉnh câu; - Tìm các từ theo chủ đề; Trong môn Tiếng Việt, đặc biệt là Luyện từ và câu có nhiều dạng bài tập có thể làm ngữ liệu để khai thác phát triển tính mềm dẻo của tư duy cho học sinh, bao gồm: + Tìm từ ngữ thích hợp điền từ vào chỗ trống (chỗ trống trong câu, chỗ trống trong đoạn, chỗ trống trong thành ngữ, tục ngữ,..). + Xác định nghĩa từ, giải nghĩa từ. + Tìm từ cùng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa với từ cho sẵn; từ cùng âm khác nghĩa với từ cho sẵn; thay từ bằng một từ cùng nghĩa khác. + Xác định cấu tạo của từ (từ đơn, từ láy, từ ghép...), cấu tạo cụm từ. + Tìm các từ ngữ có cùng một phạm vi nội dung. + Tìm những câu có từ dùng sai. + Đặt câu với từ cho sẵn + Tìm từ láy từ yếu tố cho sẵn, tìm từ láy tương đương thay thế từ trong câu. +Phân biệt nghĩa đen, nghĩa bóng của từ + Viết một đoạn văn với một số từ cho sẵn. + Đưa ra một câu, yêu cầu học sinh chỉ ra thành phần chính, phụ...; + Yêu cầu học sinh kết hợp các thành phần chính của câu, thêm các thành phần câu; + Yêu cầu học sinh đặt câu theo mẫu nào đó, hoặc là viết nhiều câu để tạo thành đoạn văn hoặc tách đoạn văn ra thành các câu... tách câu thành từ, sắp xếp các câu có sẵn thành đoạn… Dưới đây là một số phương pháp cụ thể dạy Luyện từ và câu cơ bản nhằm bồi dưỡng tư duy cho học sinh lớp 4. 2.2.1. Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu: - Việc phân tích ngữ liệu giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập và thực hành tốt nhằm rút ra kiến thức. * Ví dụ : Khi dạy bài "Động từ" ( tuần 9), ở phần nhận xét sau khi cho học sinh: đọc kĩ, thảo luận theo cặp tìm các từ chỉ hoạt động của người, các từ chỉ trạng thái của vật, rồi trình bày kết quả trước lớp. Giáo viên sẽ chốt lại: Các từ nêu trên là động từ. Vậy động từ là gì? Học sinh trả lời – giáo viên khẳng định và ghi bảng. (Động từ là từ chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật ) 2.2.2. Dạy nội dung mở rộng và hệ thống hoá vốn từ: - Từ ngữ được mở rộng và hệ thống hoá trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4 bao gồm các từ thuần Việt, Hán Việt, thành ngữ, tục ngữ phù hợp với chủ điểm của từng đơn vị học. Để học sinh hiểu nghĩa và biết dùng từ ngữ, thành ngữ, tục ngữ... thuộc các chủ điểm. Giáo viên cần gợi ý cho học sinh liên tưởng, so sánh hoặc tra từ điển để tìm hiểu nghĩa. Với những từ ngữ trừu tượng, ít gần gũi với học sinh, cần đưa chúng vào văn cảnh cụ thể để làm rõ nghĩa. - Giáo viên cần làm cho học sinh hiểu rõ tên chủ điểm. Từ đó, học sinh có cơ sở tìm thêm các từ khác theo chủ điểm đã cho. * Ví dụ: Khi dạy bài - Mở rộng vốn từ: Trung thực - Tự trọng. Bài tập 4: Có thể dùng thành ngữ, tục ngữ nào dưới đây để nói về tính trung thực hoặc lòng tự trọng: - Thẳng như ruột ngựa. - Giấy rách phải giữ lấy lề. - Thuốc đắng giã tật. - Cây ngay không sợ chết đứng. - Đói cho sạch rách cho thơm. - Cho học sinh thảo luận nhóm 4, đọc kĩ nội dung bài tập, xác định yêu cầu, trao đổi tìm hiểu nghĩa của từng thành ngữ, tục ngữ (cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng). Rồi học sinh tiến hành phân loại, sau đó báo cáo kết quả trước lớp, lớp nhận xét, bổ sung, thống nhất kết quả. Nếu câu nào các em chưa hiểu nghĩa giáo viên phải giải thích cho các em rõ. Ngoài ra, cho các em tìm thêm một số câu thành ngữ, tục ngữ có nội dung theo chủ điểm và yêu cầu học thuộc để vận dụng. *Ví dụ: Khi dạy bài - Mở rộng vốn từ: Ước mơ. - Học sinh bước đầu tìm được một số từ cùng nghĩa với từ ước mơ bắt đầu bằng tiếng ước, bằng tiếng mơ, ghép được từ ngữ, hiểu ý nghĩa và nhận biết được sự đánh giá của từ ngữ đó. 2.2.3. Dạy kiến thức về từ, câu, kỹ năng dùng từ, đặt câu và sử dụng dấu câu: - Kiến thức tiếng Việt là cả một kho tàng phong phú. Ngay từ khi mới bập bẹ biết nói, các em đã biết dùng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp. Thế nhưng đến lớp 4 các em mới bước đầu phân tích cấu tạo của từ, câu, từ loại, cách sử dụng dấu câu. - Trong mỗi bài học gồm 3 phần: Nhận xét, ghi nhớ, luyện tập. Để giúp học sinh nhận ra hệ thống từ, nhận xét về mặt cấu tạo giáo viên cần: - Giáo viên giúp học sinh thao tác ghép các từ với từng phần trong sơ đồ lần lượt theo thứ tự tầng bậc. * Ví dụ: Khi dạy bài "Luyện tập về từ ghép, từ láy" (tuần 4) - Giáo viên hướng dẫn học sinh phân loại từ "bánh trái" (chỉ chung cho các loại bánh) nên là từ ghép có nghĩa tổng hợp. - Giáo viên đặt câu hỏi: Hãy kể tên một số loại bánh mà em biết? (bánh rán, bánh cuốn, bánh mì…) - Bánh rán, bánh cuốn, bánh mì...là chỉ riêng cho một loại bánh nên là từ ghép có nghĩa phân loại. - Khi học sinh không phân biệt được từ ghép và từ láy, giáo viên cần giải nghĩa cho học sinh về từ ghép là từ gồm có hai tiếng có nghĩa trở lên tạo thành, các tiếng đó bổ sung nghĩa cho nhau tạo nên nghĩa mới. (Ví dụ : Từ "bờ bãi" cả hai tiếng đều có nghĩa). Còn từ láy là từ gồm hai tiếng trở lên phối hợp theo cách lặp âm hay vần hoặc lặp hoàn toàn cả âm lẫn vần. (Ví dụ: Từ "luôn luôn", "rì rào"). Vì vậy "bờ bãi" là từ ghép không phải từ láy mặc dù phần âm đầu giống nhau. - Trong kiến thức về từ loại, phần danh từ học sinh rất khó khăn trong việc nhận diện danh từ chỉ khái niệm, danh từ chỉ đơn vị. Vì vậy, khi dạy phần này giáo viên cần đưa ba dấu hiệu để giúp học sinh nhận diện danh từ chỉ khái niệm là : - Những từ chỉ sự vật có thể cảm nhận bằng trí óc như: đạo đức, kinh nghiệm... Những từ được chuyển hoá từ động từ hoặc tính từ khi ghép với các từ "sự", "cuộc", "lòng", ... như: lòng kiên nhẫn, sự hi sinh, ... - Thường là từ gốc Hán như: Truyền thống, Tổ quốc... - Đối với việc giúp học sinh phân tích và nhận diện danh từ chỉ đơn vị với các tiểu loại danh từ khác, cần chỉ cho học sinh thấy rằng các từ chỉ đơn vị như: cái, con, tấm, dãy, cơn, ... có thể kết hợp với các từ chỉ số lượng là: một, hai, các, vài, lũy, ... trong khi đó không phải từ chỉ sự vật nào cũng có thể kết hợp được với từ chỉ số lượng. - Các danh từ chỉ sự vật nếu không thể biểu thị một sự vật đơn thể như: bàn, ghế, áo, người... mà biểu thị các sự vật tồn tại thành tổng thể như: nước, mưa, quần áo... thì không thể kết hợp với từ chỉ số lượng. Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một số danh từ chỉ loại thường gặp như: Danh từ chỉ loại đi với vật thể: cái, con, cây, quả, người... (người thợ, cây bàng, con khỉ...) ông, bà, ... ( ông bác sĩ, bà kĩ sư...) Danh từ chỉ loại đi với danh từ chất thể (vải, nước, nhôm, đồng): cục, thanh, tấm, giọt, hạt... (Ví dụ như: tấm vải, giọt nước...) Danh từ chỉ loại đi với danh từ chỉ hiện tượng: cơn, làn, trận... (cơn mưa, trận bão...) - Khi dạy kiến thức sơ giản về câu, học sinh dễ nhầm lẫn vị ngữ trong câu kể ai thế nào? Là động từ chứ không phải là tính từ. Các em thường có xu hướng xác định mọi câu kể có động từ thuộc câu kể Ai làm gì? Các em quen với động từ là từ chỉ hành động bởi khái niệm "trạng thái", "tình thái" chưa được hình thành hoặc hình thành chưa rõ ràng. Vì vậy, khi dạy học, giáo viên kết hợp miêu tả bằng động tác hoặc hình vẽ với những ví dụ để học sinh hình dung sự khác nhau giữa hành động và trạng thái. - Hành động thể hiện trực tiếp những đặc điểm vận động của chủ thể (Ví dụ: chạy, nhảy, viết, đi...) Trạng thái thể hiện mối liên hệ giữa vận động của thực thể trong một hoàn cảnh hoặc không gian, thời gian. (Ví dụ: Mặt trời toả nắng. Bé Hoa ngủ. Hoa nở rộ trong vườn...) - Giáo viên nên giới thiệu thêm một số động từ chỉ trạng thái thường dùng thể hiện ý nghĩa về sự cần thiết như: cần, nên, phải... Từ chỉ khả năng như: có thể, không thể... Từ thể hiện ý chí, ý định: toan, định, dám... Từ thể hiện sự mong muốn: mong ước, ước mơ... Từ thể hiện ý nghĩ hay nhận xét: nghĩ, tưởng, xem, cho... (Ví dụ: Tôi cho rằng hoa hồng đẹp nhất). - Việc nhận diện trạng ngữ cũng là một vấn đề khó đối với các em. Về vai trò ngữ pháp, trạng ngữ là thành phần phụ không bắt buộc phải có mặt trong câu, nhưng thêm phần trạng ngữ cho câu là để phản ánh đầy đủ tình cảm, nhận thức chủ quan của người nói. Về cấu tạo trạng ngữ là một cụm từ có hoặc không có quan hệ từ đúng trước. Trạng ngữ có thể đứng ở đầu câu, giữa câu hoặc cuối câu. Trạng ngữ ở đầu câu dễ gặp nhất, học sinh dễ nhận thấy còn trạng ngữ ở giữa câu và cuối câu học sinh khó nhận diện. Sách giáo khoa Tiếng Việt 4 chỉ nêu trường hợp trạng ngữ đứng ở đầu câu nhưng nếu học sinh đặt những câu có trạng ngữ ở vị trí khác, giáo viên vẫn chấp nhận và chỉ cho học sinh thấy vị trí linh hoạt của trạng ngữ. Ví dụ: Đặt câu với một trong các thành ngữ dưới đây: a) Bốn biển một nhà. b) Kề vai sát cánh. c) Chung lưng đấu sức. (Bài 4/tr56, Luyện từ và câu/Tiếng Việt 5, Tập 1) Đây là một bài thuộc chủ đề mở rộng vốn từ: hữu nghị - hợp tác. Bài tập có tác dụng rèn tính thuần thục, nhuần nhuyễn của tư duy sáng tạo vì để giải quyết được bài tập này, HS đồng thời phải hiểu rõ nghĩa của các thành ngữ (việc hiểu nghĩa, giải nghĩa thành ngữ là một yêu cầu khó đối với HS tiểu học vì hầu hết các thành ngữ, tục ngữ nói chung đều mang nghĩa suy ra, nghĩa bóng và các tầng bậc ý nghĩa rất sâu sắc. Nó mang tính trừu tượng cao). Với dạng bài tập đặt câu với từ cho trước đã đòi hỏi khả năng tư duy sáng tạo khi giải quyết thì việc đặt câu với thành ngữ cho trước còn khó hơn nhiều. Vì vừa phải đảm bảo về mặt cấu tạo câu, cấu trúc ngữ pháp vừa phải đảm bảo câu phản ánh một ý nghĩa khái quát và sâu sắc. Để giải quyết được bài này vừa đòi hỏi sự vững chắc về kiến thức vừa đòi hỏi sự mềm dẻo, uyển chuyển, linh hoạt của tư duy. Sự kết hợp này sẽ giúp phát triển tính thuần thục trong tư duy của HS. Tóm lại, trong quá trình hướng dẫn học sinh giải quyết những bài tập mở đòi hỏi sự vững chắc của kiến thức kết hợp với sự mềm dẻo của tư duy khi giải quyết, giáo viên cần ý thức tận dụng tối đa lợi thế của dạng bài này kết hợp với các kĩ thuật, biện pháp như đã trình bày để phát triển tính thuần thục của tư duy sáng tạo cho học sinh 2.2.4. Dạy học sinh tích luỹ kiến thức:
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan