Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Skkn giáo dục giới tính và bình đẳng giới chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành ni...

Tài liệu Skkn giáo dục giới tính và bình đẳng giới chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên

.DOC
46
1807
92

Mô tả:

Giáo dục giới – bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG Trang bìa Mục lục I- Lý do chọn đề tài II- Nội dung đề tài 1. Cơ sở lý luận 2. Thực trạng 3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 1 2 4 4 5 9 3.1. Năm học 2012- 2013 3.2. Năm học 2013- 2014 3.3. Năm học 2014- 2015 4. Hiệu quả III- Kết luận Tài liệu tham khảo Phụ lục 9 24 32 40 42 45 46 ĐỀ TÀI: GIÁO DỤC GIỚI TÍNH VÀ BÌNH ĐẲNG GIỚI CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN VỊ THÀNH NIÊN I – LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Trường THPT Lê Quý Đôn 1 GV:Nguyễn Thị Diệp Giáo dục giới – bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản Ở nước ta do ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều hiện tượng bất bình đẳng giới trong lĩnh vực dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên và kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ). Điều đó đã ảnh hưởng tiêu cực đến quy mô, cơ cấu và chất lượng dân số nước ta; ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc sức khỏe sinh sản (SKSS), cung cấp dịch vụ chăm sóc SKSS và KHHGĐ, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của phụ nữ, trẻ em gái, vị thành niên và đặc biệt lứa tuổi học đường. Mặc khác cũng theo quan niệm nho giáo, những quan niệm về tình dục bị coi là dung tục, tầm thường. Mối quan hệ tình dục chỉ được chấp nhận trong hôn nhân, các vấn đề liên quan đến tình dục ít được đề cập đến. Ngày nay, mặc dù thái độ của xã hội không đồng tình với quan hệ tình dục trước hôn nhân nhưng xu hướng thanh niên, kể cả vị thành niên có quan điểm và thái độ về tình dục cởi mở hơn. Một số nghiên cứu gần đây đã đưa ra những thông tin quan trọng về quá trình thay đổi thái độ đối với quan hệ tình dục trước hôn nhân liên quan đến giới của giới trẻ. Trước đây quan hệ tình dục trước hôn nhân là hiện tượng hiếm vì không được xã hội chấp nhận, thì ngày nay thanh niên lập gia đình muộn hơn nhưng có hoạt động tình dục sớm hơn. Theo số liệu SAVY, 41% nam thanh niên chấp nhận việc có quan hệ tình dục trước hôn nhân nếu như cả hai phía đều tự nguyện, trong khi đó tỷ lệ này trong nữ chỉ là 22%. Do đó, việc giáo dục giới tính, bình đẳng giới trong chăm sóc SKSS cho học sinh THPT là rất cần thiết. Bởi vì, hoạt động giáo dục vừa là quá trình hình thành những phẩm chất, những đặc điểm cũng như những xu hướng tâm lý của nhân cách con người, quy định nên những thái độ và hành vi cần thiết cho xã hội của họ đối với những đại diện của giới kia, vừa có thể hướng dẫn các hành vi tình dục đúng đắn và có trách nhiệm, bảo vệ SKSS cho vị thành niên trong quá trình trưởng thành. Như vậy, giáo dục giới tính, bình đẳng giới và SKSS cho vị thành niên không chỉ cần thiết cho bản thân thanh thiếu niên mà nó có ý nghĩa to lớn góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội. Vậy nên, việc giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản phải bắt đầu bằng giáo dục từ gia đình, vai trò của cha mẹ, truyền thống, đạo đức, giáo dục từ xã Trường THPT Lê Quý Đôn 2 GV:Nguyễn Thị Diệp Giáo dục giới – bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản hội, luật pháp của quốc gia, sau đó là kiến thức cơ bản về cơ thể học, sinh lý học, các thông tin về tình dục và sinh sản cơ bản từ nhiều nguồn thông tin như nhà trường, truyền thông, tài liệu sách báo, mạng... . Muốn thực hiện được điều đó thì việc phổ biến các kiến thức chuyên môn về cơ thể học, sinh lý học, tâm lý học và các quan điểm về đời sống tình dục phải được trình bày một cách công khai, thường xuyên dưới nhiều hình thức mang tính giáo dục cao và nên đưa vào chương trình dạy học chính khóa. Trong các môn học có thể nói sinh học là môn dễ lồng ghép những kiến thức cơ bản về việc giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản giúp các em có ý thức bảo vệ cơ thể, sống lành mạnh. Song song với việc lồng ghép, tích hợp qua bộ môn thì hình thức tổ chức các hoạt động ngoại khóa như: tổ chức thi giữa các tập thể, cá nhân, tổ chức dưới hình thức sân khấu hóa ...thu hút sự tìm tòi học hỏi khám phá và thể hiện ở học sinh, giúp học sinh hiểu được nội dung kiến thức về giới, bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên một cách nhẹ nhàng, lý thú mà lại hiệu quả nhất. Trong những năm học qua để giáo dục học sinh tích cực và chủ động trong việc tiếp thu chủ đề này, để các em có thể tự giải đáp những tò mò, thắc mắc của bản thân đồng thời có những hành trang cần thiết cho việc chăm sóc sức khỏe từ đó có ý thức tự bảo vệ bản thân và qua đó tuyên truyền giúp đỡ cho những người thân, bạn bè cũng như những người xung quanh, tôi đã chủ động lên kế hoạch phối kết hợp với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường, tìm hiểu thu thập thông tin, sử dụng nhiều hình thức phong phú hấp dẫn nhằm khai thác có hiệu quả nội dung giáo dục giới tính bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản cho học sinh . Đó là lý do tôi chọn đề tài: “Giáo dục giới - bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên” II - NỘI DUNG ĐỀ TÀI: 1. Cơ sở lí luận: 1.1. Đối tượng giáo dục: Trường THPT Lê Quý Đôn 3 GV:Nguyễn Thị Diệp Giáo dục giới – bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản Học sinh THPT - Vị thành niên là một giai đoạn phát triển rất nhanh về thể chất, tâm sinh lý và tinh thần. Tình hình bùng nổ thông tin hiện nay, đặc biệt là qua mạng Internet, các xu hướng văn hóa đã và đang xâm nhập, ảnh hưởng rất nhiều đến suy nghĩ và hành vi của lứa tuổi vị thành niên. Nhiều vấn đề về sức khỏe ở người lớn xuất phát từ những thói quen dung nhập trong giai đoạn vị thành niên, như hành vi tình dục, rượu chè, ma túy... Do đó, việc giáo dục giới tính cho lứa tuổi này rất cần thiết, nhằm đảm bảo sự phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần. 1.2. Những kiến thức cơ bản về giáo dục giới tính và bình đẳng giới cần cung cấp cho học sinh ở trường THPT: -Giúp các em nắm được một số kiến thức cơ bản như: sự phát triển tâm sinh lý; giáo dục giới tính; giáo dục sức khoẻ tình dục lành mạnh và an toàn, các biện pháp tránh thai, phòng các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, vệ sinh tuổi dậy thì, những biến đổi và khác biệt về tính cách em trai em gái do các hoocmon từ các tuyến sinh dục gây ra. - Giáo dục kỹ năng giao tiếp ứng xử trong quan hệ giữa bạn trai, bạn gái ở tuổi vị thành niên với cha mẹ, anh em trong gia đình. - Hiểu biết sâu sắc các giá trị của tình bạn, tình yêu, hiểu biết những thất bại tâm lý và các nguy hại lâu dài phải gánh chịu nếu vượt qua trái cấm. Trường THPT Lê Quý Đôn 4 GV:Nguyễn Thị Diệp Giáo dục giới – bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản - Giáo dục bạn trai biết tự trọng, tôn trọng bảo vệ bạn gái, có bản lĩnh, biết tự kiềm chế để chứng minh cho một tình yêu lành mạnh nếu nó chớm nở. - Giáo dục kỹ năng phòng vệ trước các áp lực nội tại đến từ hai phía, đặc biệt giáo dục kỹ năng phòng vệ cho các em gái, và rất nhiều nội dung khác xoay quanh tâm lý giới tính tuổi mới lớn giúp các em tự tin, tự chủ, tự hoàn thiện nhân cách, tự nhận thức để thay đổi hành vi, vững vàng nói "không" trước cám dỗ của bản năng ở độ tuổi phát dục. 2. Thực trạng trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài : 2.1. Thực trạng về giáo dục giới tính, bình đẳng giới, sinh sản sức khoẻ vị thành niên, tình dục an toàn trong nhà trường THPT: - Việc đưa giáo dục giới tính vào trường học là điều đã được thừa nhận. Nhưng hầu hết các trường THPT đều lúng túng khi đưa giáo dục giới tính và bình đẳng giới vào giảng dạy. Các giáo viên thiếu kiến thức chuyên môn, thiếu kĩ năng giảng dạy về vấn đề nhạy cảm này. Cũng chưa có trường nào xây dựng được chuẩn kiến thức chung về vấn đề này khi dạy lồng ghép. Nếu dạy thì cũng chỉ thiên về lí thuyết còn thực hành thì bỏ ngỏ. Về giáo cụ trực quan là không có, giáo viên không được tập huấn kĩ càng để giảng dạy về vấn đề giới tính, bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản vị thành niên - Trách nhiệm này hiện nay có lẽ giáo viên sinh học được mong đợi nhiều nhất. Tuy nhiên dạy thế nào thì giáo viên phải tự biên tự diễn. Không có hướng dẫn cụ thể, không ai kiểm tra, đánh giá công tác này. Hậu quả của việc này dẫn đến học sinh thu nhận một lượng kiến thức rời rạc, chắp vá. Bản thân các em đã nhận được kiến thức từ thông tin đại chúng, trong khi cần một người tổng hợp, đưa ra những kiến thức có tính cơ bản, tổng quát thì chúng ta chỉ có thể cung cấp cho các em kiến thức lồng ghép, không hệ thống, thiếu thực hành nặng về lý thuyết. Bởi vậy bài toán giáo dục giới tính bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản vị thành niên trong trường THPT chưa có lời giải đáp thích đáng. - Giáo dục giới tính, bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản vị thành niên là giáo dục kĩ năng sống. Khi giáo dục kĩ năng sống đòi hỏi có những kĩ năng Trường THPT Lê Quý Đôn 5 GV:Nguyễn Thị Diệp Giáo dục giới – bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản riêng thì mới đạt hiệu quả cao. Hầu hết các giáo viên THPT hiện nay chưa được đào tạo kĩ năng này một cách chuyên nghiệp. Điều này dẫn tới hậu quả là giáo viên né tránh hoặc khi giảng dạy không mang lại hứng thú cho học sinh. Đặc biệt các giáo viên trẻ thường bỏ qua khi mà chưa có qui định nào bắt buộc phải dạy giáo dục giới tính bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản vị thành niên trong từng bài học cụ thể. - Các cấp lãnh đạo cũng bỏ ngỏ khâu quản lí theo dõi giáo dục giới tính bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản vị thành niên. Chưa có tổng kết, đánh giá về hoạt động này trong nhà trường một cách chính xác, sát thực. Dạy lồng ghép chỉ là phương án tạm thời, rất cần thiết có những chương bài chi tiết, cụ thể, phù hợp về giáo dục giới tính bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản vị thành niên. Rất cần thiết đào tạo một đội ngũ giáo viên chuyên nghiệp, được trang bị đầy đủ kĩ năng, kiến thức, nắm bắt được tâm lí học sinh để thực hiện các bài dạy giáo dục giới tính, bình đẳng giới và giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên, tình dục an toàn một cách hiệu quả. -Trình độ học vấn là yếu tố quan trọng tác động mạnh đến việc chăm sóc SKSS, nhất là trình độ học vấn của phụ nữ. Do vậy, các chương trình thông tin và tuyên truyền về SKSS cũng cần được thiết kế cho phù hợp với đối tượng là những phụ nữ có trình độ học vấn thấp hoặc không biết chữ, đồng thời chú trọng đến việc nâng cao trình độ học vấn của phụ nữ, nhất là trẻ em gái. -Công tác truyền thông, giáo dục về chăm sóc SKSS chưa đặt vấn đề tiếp cận giới trong việc cung cấp thông tin, dịch vụ và bình đẳng đối với việc ra quyết định về SKSS. Các chương trình về SKSS đã được triển khai từ nhiều năm, nhưng thường tập trung các hoạt động vào đối tượng nữ. Vì vậy tất cả gánh nặng trách nhiệm trong kế hoạch hoá gia đình vẫn đặt lên vai người phụ nữ như đẻ nhiều, đẻ dày, thực hiện các biện pháp tránh thai, vỡ kế hoạch, không có con, con suy dinh dưỡng, con hư... Vô hình chung nam giới đã bị đặt ra ngoài, không thu hút được sự tham gia và chia sẻ của họ Trường THPT Lê Quý Đôn 6 GV:Nguyễn Thị Diệp Giáo dục giới – bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản -Nội dung và ý nghĩa của SKSS trong xã hội chưa được nhận thức đầy đủ, sự thiếu hiểu biết về cách đề phòng các nguy cơ đối với SKSS cùng với những tập tục lạc hậu trong lối sống, những hành vi ứng xử khi có các vấn đề về SKSS của nam giới nói riêng và xã hội nói chung còn nhiều hạn chế, nhất là ở các vùng dân tộc ít người, các vùng còn có nhiều khó khăn về hoàn cảnh địa lý, kinh tế, văn hoá, xã hội -Sự thiếu hiểu biết về chăm sóc SKSS của phụ nữ và nam giới còn hạn chế. Các chiến lược, chính sách trong kế hoạch hoá gia đình và chăm sóc SKSS ở nước ta hiện nay vẫn chưa đề cập một cách đầy đủ tới trách nhiệm của nam giới, Tình dục là một nội dung cơ bản của SKSS. Trong khi các nội dung khác của SKSS được nghiên cứu và áp dụng rộng rãi, công khai và có hệ thống trong các chương trình, kế hoạch hành động của các cấp, các ngành thì nội dung tình dục vẫn được coi là “vấn đề tế nhị”. Từ thực tế đó, việc giáo dục tình dục ở nước ta hiện nay vẫn chưa trở thành một hoạt động thường xuyên 2.2. Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đề tài: 2.2.1. Thuận lợi: - So với các bộ môn khác môn sinh là bộ môn có nhiều kiến thức liên quan tới giáo dục giới tính, bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản vị thành niên. Tất cả giáo viên sinh trong tổ sinh – công nghệ đã chủ động tìm hiểu các kiến thức và cập nhật kịp thời các thông tin về chủ đề giáo dục giới tính, bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản vị thành niên để xây dựng chương trình ngoại khóa . - Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy cho phép cập nhật nhiều thông tin cũng như hình ảnh minh họa, các video clip cho bài dạy cũng như cho các buổi ngoại khóa. - Bản thân tôi là một giáo viên nữ, lớn tuổi, có gia đình nên việc truyền đạt kiến thức sinh sản dễ dàng tự nhiên, học sinh tin tưởng. Trường THPT Lê Quý Đôn 7 GV:Nguyễn Thị Diệp Giáo dục giới – bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản - Sự đồng lòng của các tổ chức đoàn thể trong nhà trường khi phối kết hợp để tổ chức ngoại khóa về chủ đề giáo dục giới tính, bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản vị thành niên - Sự hổ trợ tối đa về mặt kinh phí của nhà trường và cấp trên góp phần thành công cho các buổi ngoại khóa về chủ đề giáo dục giới tính, bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản vị thành niên 2.2.2. Khó khăn: - Hiện nay, trong chương trình đào tạo của Việt Nam, vấn đề giáo dục giới, bình đẳng giới cho học sinh chưa được quan tâm đúng mức. Chưa hề có môn giáo dục giới tính trong chương trình giảng dạy chính khóa. Trong nội dung dạy tích hợp, lồng ghép của một số bộ môn có đưa vào giảng dạy nhưng chưa cụ thể còn chung chung và đôi lúc còn khiên cưỡng, chưa đáp ứng được nhu cầu hiểu biết và sự cần thiết phải lĩnh hội được kiến thức về giới tính của học sinh để các em có kỹ năng vận dụng vào cuộc sống cũng như sinh hoạt. Mặc khác với cơ chế thị trường, tự do thông tin như hiện nay, các cơ quan chức năng không kiểm soát hết được làm cho nhiều thông tin về vấn đề giới, bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên đưa ra mang tính chất phản giáo dục, làm cho giới trẻ hiểu sai lệch, tư tưởng không lành mạnh, có những hành vi không tự chủ được dẫn đến hậu quả khó lường như đài báo đã nêu . - Thái độ của học sinh khi nói đến những vấn đề liên quan đến giới tính, bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản vị thành niên còn khá dè dặt, các em chưa mạnh dạn trong quá trình tìm hiểu hay tiếp thu những kiến thức đó. Bên cạnh đó, đội ngũ giáo viên chuyên trách về những vấn đề này hầu như chưa trường nào có. Các giáo viên giảng dạy các bộ môn khi đề cập đến việc dạy các kiến thức về giới tính cho các em, một số người còn nói rằng: “giáo viên nói ra những vấn đề đó còn cảm thấy ngượng nữa là các em học sinh”. - Xã hội hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này nên hay không nên đưa chương trình giáo dục giới tính, bình đẳng giới và sức khỏe Trường THPT Lê Quý Đôn 8 GV:Nguyễn Thị Diệp Giáo dục giới – bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản sinh sản vị thành niên vào chương trình giáo dục PTTH. Có ý kiến cho rằng: không nên vẽ đường cho hươu chạy, ý khác lại cho rằng: Thà vẽ đường cho hươu chạy còn hơn để con em chúng ta lao xuống vực. Vấn đề lớn được đặt ra ở đây là làm thế nào để lấp lỗ hổng trong công tác giáo dục giới tính, bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản vị thành niên cho các em đang ở giai đoạn vị thành niên. -Theo ý kiến của cá nhân tôi, việc cần thiết phải trang bị cho các em các kiến thức về vấn đề giáo dục giới tính, bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản vị thành niên là không cần phải bàn cãi. Tuy nhiên, không nên quá tham lam để đưa quá nhiều nội dung giáo dục giới tính trong một tiết học, chỉ nên làm sao việc giáo dục giới tính diễn ra một cách nhẹ nhàng, đều đặn qua các tiết học và hiệu quả hơn cả tôi thiết nghĩ là giáo dục giới tính, bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản vị thành niên thông qua hoạt động ngoại khóa: tổ chức cho các em thi thố tài năng, tìm hiểu khám phá kiến thức với nhiều hình thức đa dạng phong phú mà không gây áp lực, nhàm chán. 3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: Tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và tổ chức hoạt động ngoại khóa về giáo dục giới tính, bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản vị thành niên trong 3 năm liên tục với những hình thức tổ chức khác nhau nhằm thu hút và tạo hứng thú tìm hiểu kiến thức của học sinh . Cụ thể: 3.1 Năm học 2012–2013: Tổ chức ngoại khóa dưới hình thức thi giữa các đội 3.1.1. Chương trình ngoại khóa gióa dục SKSSVTN ( 13h30 ngày 29/12) -Năm học 2012-2013 3.1.1.1. Chia đội chơi: ( Mỗi lớp chọn 1 em, riêng B1 chọn 2 em) +Đội Tuổi 18 Học sinh lớp A 1, 2, 3 , B 10, 11, 12 -GV phụ trách: Cô Nga (A) +Đội Lucky star Học sinh lớp A 4, 5, 6 , B 7, 8, 9 -GV phụ trách: Cô Thương +Đội Hoa học trò Học sinh lớp A 7, 8, 9 , B 4, 5, 6 -GV phụ trách: Cô Hận +Đội Ước mơ Học sinh lớp A 10, 11 , B 1, 2, 3 -GV phụ trách: Cô Trang (L) Trường THPT Lê Quý Đôn 9 GV:Nguyễn Thị Diệp Giáo dục giới – bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản 3.1.1.2. Nội dung thi: GIÁO DỤC SỨC KHOẺ SINH SẢN VỊ THÀNH NIÊN 1/ Phần chào hỏi :LUẬT CHƠI Mỗi đội chơi thể hiện màn chào hỏi của đội mình hóm hỉnh, sáng tạo, có ý nghĩa. Thời gian tối đa cho mỗi đội là 02 phút để thực hiện phần thi này. Số điểm tối đa mỗi đội đạt được là 10 điểm. 4 đội thi xong, mời BGK đánh giá cho điểm bằng cách giơ bảng ( lần lượt cho từng đội Điểm tối đa 10 x 5 : 5 = 10 đ) *Văn nghệ 2/Phần thi trả lời nhanh :LUẬT CHƠI Phần thi gồm 10 câu hỏi trắc nghiệm, đã có sẵn các phương án trả lời A,B,C,D. Các đội chơi lựa chọn đáp án đúng cho mỗi câu hỏi bằng hình thức giơ đáp án. Thời gian suy nghĩ cho mỗi câu là 15 giây, hết thời gian suy nghĩ các đội chơi cùng giơ đáp án trả lời. MC công bố điểm cho từng đội Mỗi đáp án đúng được 05 điểm, trả lời sai không bị trừ điểm. Điểm tối đa mỗi đội đạt được cho phần thi này là 50 điểm. Sau thi xong sơ kết điểm phần 2 Câu 1: Người Việt Nam được một tạp chí bầu chọn danh hiệu ’’Anh hùng Châu Á’’ năm 2004 là: A. Một nhà khoa học nữ nghiên cứu về HIV. B. Một điều dưỡng viên chuyên chăm sóc trẻ sơ sinh bị nhiễm HIV. C. Một phụ nữ bị nhiễm HIV. D. Một hoạ sĩ nổi tiếng bị nhiễm HIV. Câu 2: Trong những dấu hiệu sau đây, dấu hiệu nào thể hiện bạn trai đã bước vào tuổi dậy thì chính thức ? A. Lớn nhanh, cơ bắp phát triển. B. Ria mép phát triển. Trường THPT Lê Quý Đôn 10 GV:Nguyễn Thị Diệp Giáo dục giới – bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản C. Xuất hiện ”Giấc mơ uớt” (xuất tinh lần đầu). D. Vỡ giọng. Câu 3: Đặc điểm nào trong những đặc điểm sau đây là biểu hiện của một tình bạn tốt ? A. Biết bao che khuyết điểm cho nhau. B. Chân thành, tin cậy và có trách nhiệm với nhau. C. Kết thành bè phái để làm bất cứ gì theo ý thích. D.Tụ tập những người có cùng những vấn đề khiếm khuyết vì dễ cảm thông với nhau. Câu 4: Tình yêu là gì ? A. Tình cảm đặc biệt, sự rung động, hoà hợp của hai trái tim. B. Sự mong muốn chinh phục. C. Quan hệ tình dục. D. Sự hấp dẫn giới tính. Câu5: Một bạn gái sau khi đã trót lỡ có quan hệ tình dục lần đầu tiên, hiện đang rất lo lắng. Theo các bạn, những nguy cơ nào có thể xảy ra đối với bạn gái ấy ? A. Bạn ấy có thể mang thai. B. Bạn ấy có thể bị nhiễm HIV. Trường THPT Lê Quý Đôn 11 GV:Nguyễn Thị Diệp Giáo dục giới – bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản C. Bạn ấy có thể bị nhiễm bệnh lây truyền qua đường tình dục. D. Tất cả các nguy cơ trên (A,B,C). Câu 6: Đâu là lý do không nên quan hệ tình dục ở tuổi vị thành niên ? A. Tuổi học đường là mùa xuân đầu tiên trong cuộc đời, vì vậy thanh niên chúng ta nên tập trung vào học tập và phấn đấu cho một tương lai tươi sáng. B. Tình bạn, tình yêu, là những rung động đầu đời rất đẹp và không thể thiếu trong cuộc đời mỗi con người, song hãy làm sao để nó đừng làm chúng ta hối tiếc và ân hận. C. Không quan hệ tình dục sớm là cách tốt nhất để thanh niên chúng ta tự tránh mình và bạn mình khỏi những nguy cơ rắc rối không đáng có về sức khoẻ và tâm lý. D. Tất cả các điều trên. Câu 7: Vì sao không nên kết hôn và sinh con ở tuổi vị thành niên ? A. Vì còn ít tuổi. B. Vì cơ thể chưa phát triển đủ độ thuần thục về sinh dục. C. Vì chưa được chuẩn bị về tâm lý và các điều kiện. D. Vì tất cả những lý do trên. Câu 8: Trong số những điều được nêu ra dưới đây, điều gì đúng khi nói về phá thai ? A. Phá thai ở tuổi vị thành niên chỉ một lần thì không ảnh hưởng gì đến sức khoẻ và việc sinh con sau này. B. Phá thai rất có hại đối với sức khoẻ, đe doạ tính mạng và khả năng sinh con sau này, có thể dẫn tới vô sinh. C. Vị thành niên còn trẻ, có sức khoẻ tốt nên phá thai ít hậu quả hơn người đã sinh con. D. Phá thai sớm ngay ở những tuần đầu hoặc tháng đầu thì không ảnh hưởng gì đến sức khoẻ và việc sinh con sau này. Câu 9:HIV/AIDS lây truyền qua những đường nào ? A. Qua quan hệ tình dục, qua đường máu và từ mẹ sang con. B. Qua ăn uống chung, bắt tay, ôm hôn, dùng chung đồ với người bị bệnh. Trường THPT Lê Quý Đôn 12 GV:Nguyễn Thị Diệp Giáo dục giới – bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản C. Qua muỗi, rệp và các côn trùng cắn. D. Tất cả các phương án trên. Câu 10: Bạn có thể bị lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục qua việc: A. Hôn nhau. B. Dùng chung nhà vệ sinh. C. Quan hệ tình dục không sử dụng bao cao su. D. Dùng chung bơm kim tiêm dù đã được khử trùng. *Trò chơi khan giả: “Phối hợp ăn ý” Thọ và Nam chi đoàn GV phụ trách 3/Phần thi chọn phương án trả lời đúng và giải thích: LUẬT CHƠI Phần thi gồm 8 câu hỏi trắc nghiệm, đã có sẵn các phương án trả lời A,B,C,D. Mỗi đội bốc thăm gói câu hỏi gồm 2 câu.Thời gian suy nghĩ và trả lời cho mỗi câu là 02 phút Chọn đúng được 05 điểm, giải thích đúng được 05 điểm/ 1 câu. Chọn sai không bị trừ điểm. Quá thời gian qui định sẽ bị trừ điểm Ban GK nhận xét cho điểm Câu 1: Hãy chọn từ đúng nhất điền vào chỗ trống để hoàn thiện câu ca dao dưới đây và giải thích . Yêu em vì nết vì người Yêu em ngay cả khi cười……… A. ghét anh. B. yêu anh. C. cấm anh. D. đừng anh. Đáp án D Trong tình yêu, nếu như người con gái biết khéo léo, tế nhị từ chối trước những đòi hỏi của bạn tình thì vừa giữ được bản thân vừa giữ được tình yêu trong sáng, bền chặt. Chính vì vậy mà câu ca dao đúng là: Yêu em vì nết vì người Yêu em ngay cả khi cười đừng anh Câu 2: Trong các quan niệm sau đây, quan niệm nào đúng đắn khi nói về tình bạn khác giới? Trường THPT Lê Quý Đôn 13 GV:Nguyễn Thị Diệp Giáo dục giới – bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản A. Không thể có một tình bạn đích thực giữa hai người khác giới. B. Tình bạn khác giới chỉ là hình thức ngụy trang cho tình yêu. C. Tình bạn khác giới có thể là sự khởi đầu của tình yêu. D. Luôn có sự hấp dẫn giới tính trong tình bạn khác giới. Đáp án C Tình bạn là thể hiện sự hiểu nhau, chia sẻ và thông cảm với nhau, đặc biệt là tình bạn khác giới lại càng thiêng liêng và cao cả. Không phải tình bạn khác giới nào cũng là sự khởi đầu của tình yêu, nhưng trong tình yêu chân chính thì tình bạn khác giới là sự khởi đầu. Tình yêu phải là sự gắn bó, hiểu nhau, thông cảm và chia sẻ. Câu 3: Trong tình bạn khác giới, bạn nên có hành vi cư xử như thế nào ? A. Đúng mực, lịch sự trong ăn mặc và giao tiếp. B. Không cần giữ khoảng cách. C. Cư xử lấp lửng để cho bạn khác giới hiểu nhầm là tình yêu. D. Không cần phải tế nhị. Đáp án A Trong tình bạn luôn là sự chia sẻ, tôn trọng, thông cảm và hiểu nhau, song trong cách cư xử không nên hiểu đã là bạn hiểu nhau rồi thì thế nào cũng được dễ thông cảm và bỏ qua cho nhau, mà trong quan hệ giao tiếp nên luôn có hành vi cư xử đúng mực, lịch sự trong cách ăn mặc và giao tiếp là mình đã tôn trọng bạn, cũng là tôn trọng chính bản thân mình và những người xung quanh. Câu 4: Trong các dấu hiệu sau đây, dấu hiệu nào là quan trọng nhất báo hiệu một cô gái đã đến tuổi dậy thì và có khả năng sinh sản: A. Thay đổi vóc dáng. B. Xuất hiện mụn trứng cá. C. Thay đổi giọng nói. D. Xuất hiện kinh nguyệt. Đáp án D Xuất hiện kinh nguyệt báo hiệu người con gái đã có hiện tượng rụng trứng và đã có khả năng sinh sản. Các yếu tố như thay đổi vóc dáng, giọng Trường THPT Lê Quý Đôn 14 GV:Nguyễn Thị Diệp Giáo dục giới – bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản nói, xuất hiện mụn trứng cá được coi là những đặc tính sinh dục phụ do sự tăng tiết hoóc môn sinh dục nữ trong giai đoạn dậy thì mang lại. Câu 5: Sở dĩ chúng ta gọi Postinor là “Viên tránh thai khẩn cấp” là do: A. Có thể dùng để tránh thai ngay sau khi quan hệ tình dục. B. Có thể dùng để tránh thai ngay cả khi đã có quan hệ tình dục trong vòng 72 giờ. C. Có thể dùng khi đã có dấu hiệu chậm kinh và nghi ngờ có thai. D. Có thể dùng trong tất cả các trường hợp nêu trên. Đáp án B Postinor là loại thuốc tránh thai đặc biệt, có thể dùng để “cấp cứu” trong những trường hợp đã trót có quan hệ tình dục mà không dùng biện pháp tránh thai nào. Chính vì vậy, Postinor còn được gọi là “Viên tránh thai khẩn cấp”. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng viên tránh thai khẩn cấp chỉ dùng trong những trường hợp “cấp cứu’’ và không nên lạm dụng, cụ thể hơn là không được dùng quá 4 viên trong 1 tháng.. Câu 6: Phá thai ở các cơ sở bất hợp pháp có thể có các nguy cơ: A. Mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, bao gồm cả HIV/AIDS. B. Vô sinh. C. Chảy máu hoặc tử vong do thủng tử cung. D. Tất cả các phương án trên. Đáp án D Ở các cơ sở phá thai bất hợp pháp thường không đảm bảo được điều kiện vô trùng, điều kiện chuyên môn kỹ thuật nên rất có thể dẫn đến những nguy cơ như mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS do lây nhiễm chéo từ người này sang người khác, vô sinh do nhiễm trùng gây dính buồng tử cung, tắc vòi trứng, chảy máu, thậm chí tử vong do thủng tử cung. Câu 7: Mang thai và sinh đẻ ở tuổi vị thành niên có thể có những bất lợi: A. Đẻ khó do cơ thể mẹ chưa phát triển. B. Con có nguy cơ bị suy dinh dưỡng bào thai. Trường THPT Lê Quý Đôn 15 GV:Nguyễn Thị Diệp Giáo dục giới – bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản C. Thường dang dở chuyện học hành do phải mang thai và nuôi con. D. Cả 3 phương án trên. Đáp án D Ở tuổi vị thành niên, cơ thể của người phụ nữ chưa phát triển đầy đủ nên khi mang thai và sinh đẻ có thể có những nguy cơ như mẹ thiếu máu, con dễ bị suy dinh dưỡng bào thai, đẻ khó do khung chậu người mẹ còn hẹp. Mặt khác, mang thai ở tuổi vị thành niên còn khiến cho các bạn gái phải dang dở chuyện học hành để kết hôn và sinh con. Câu 8: Hãy chọn từ đúng nhất điền vào chỗ trống để hoàn thiện câu ca dao dưới đây và giải thích tại sao lại chọn phương án đó? Bướm vàng đậu ngọn mù u Lấy chồng càng ..... lời ru càng buồn A. trẻ. B. trễ. C. muộn. D. sớm. Đáp án D Câu ca dao trên ẩn chứa nổi niềm tâm sự của cô gái trẻ phải đi lấy chồng sớm gánh trên vai trách nhiệm nặng nề: làm vợ, làm dâu, làm mẹ. Đây là lời than thân trách phận của người phụ nữ trong xã hội cũ phải chịu đựng những ngang trái do nạn tảo hôn 4/Phần thi dành cho khán giả gồm có 6 từ hàng ngang và 1 từ hàng dọc Khán giả tham gia phần chơi này bằng hình thức giải các ô chữ tương ứng . Khán giả nào giải đúng từ hàng ngang theo đáp án sẽ được 1 phần quà , giải đúng từ hàng dọc khi mở 2 ô được 3 phần quà của chương trình, giải đúng từ ô thứ 3 trở đi được 2 phần quà của chương trình . Mỗi hàng ngang trả lời đúng được cộng 1đ, hàng dọc trả lời đúng được cộng 2đ khuyến khích cho đội nhà 1/ 11chữ cái: Giai đoạn chuyển tiếp giữa tuổi ấu thơ và tuổi trưởng thành V Ị T H À N H N I Ê N 6/ 12 chữ cái : Một hành vi bắt trẻ vị thành niên, đưa người bất hợp pháp sang nước khác để trục lợi B U Ô N B Á N T R Ẻ E M Trường THPT Lê Quý Đôn 16 GV:Nguyễn Thị Diệp Giáo dục giới – bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản 4/ 8 chữ cái: Một trong những biện pháp tránh thai an toàn và hiệu quả nhất, hạn chế được các bệnh lây qua đường tình dục B A O C A O S U 2/ 6 chữ cái: Giai đoạn phát triển vượt bậc về thể chất và tâm lí ở tuổi vị thành niên D Ậ Y T H I 3/ 7 chữ cái. Là sản phẩm của các tuyến chất nhờn dưới da thường hoạt động mạnh vào tuổi dậy thì T R Ư N G C Á 5/ 7 chữ cái: Một sản phẩm có chứa nicotin, nếu nghiện có thể gây nguy cơ mắc nhiều tật bệnh và vô sinh T H U Ố C L Á 5/ Phần thi xử lý tình huống LUẬT CHƠI Phần thi này gồm 10 tình huống. Các đội chơi lần lượt lựa chọn tình huống của đội mình. Mỗi đội có 2 lượt lựa chọn tình huống. Thời gian suy nghĩ và xử lí mỗi tình huống là 02 phút. Mỗi tình huống giải quyết hợp lý được tối đa 10 điểm. Mời BGK nhận xét, giải thích thêm và cho điểm Tình huống 1: Hoa và Quang cùng học một lớp. Quang là một bạn trai học giỏi lại đá bóng hay nên trong trường có nhiều bạn gái ngưỡng mộ. Tình bạn của Hoa và Quang rất trong sáng và thắm thiết. Nhưng gần đây Hoa bỗng thấy Quang có một số cử chỉ thể hiện tình cảm khác lạ. Vào lần sinh nhật lần thứ 16 của Hoa, Quang tỏ tình với cô. Trong lòng Hoa cũng rất có cảm tình với Quang, nhất là mỗi khi nhìn Quang đá bóng Hoa thấy dường như bị hút hồn, thế nhưng Hoa vẫn phân vân không biết mình nên nhận lời hay chỉ nên dừng lại ở mức độ tình bạn. Hãy giúp Hoa giải quyết tình huống này. Giải quyết tình huống: Trường THPT Lê Quý Đôn 17 GV:Nguyễn Thị Diệp Giáo dục giới – bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản Trong tình huống này hoa không nên vội từ chối tình cảm của Quang cũng không nhận lời Quang vì: -Nếu Hoa từ chối tình cảm của Quang lúc này thì Quang sẽ thấy bị tổn thương tình cảm, ảnh hưởng đến việc học hành và tình cảm bạn bè trong sáng lâu nay có thể sẽ không còn nữa. -Hoa không nên nhận lời mà giải thích cho Quang hiểu: +Tình bạn của chúng ta lâu nay rất tốt đẹp, cùng giúp nhau trong học tập và sinh hoạt , chúng ta tiếp tục vun đắp cho tình bạn để cùng nhau cố gắng đạt kết quả cao nhất trong học tập. +Lúc này chúng ta còn quá trẻ để hiểu hết giá trị và ý nghĩa của tình yêu đôi lứa nên có thể dẫn đến những hậu quả khó lường. + Sau này khi cả 2 đã thành đạt lúc ấy chúng ta có thể tiến xa hơn tình bạn và tìm thấy tình yêu đích thực vẫn chưa muộn và như vậy cuộc sống sẽ vui vẻ và hạnh phúc hơn. Tình huống 2: Hùng đang học lớp 11. Một hôm nhà trường tổ chức sinh hoạt ngoại khoá về sức khoẻ sinh sản vị thành niên, Hùng được nhận rất nhiều tài liệu, tờ rơi của ban tổ chức phát cho. Về nhà Hùng đang đọc thì bố Hùng thấy cầm xem và mắng Hùng: “Con còn nhỏ sao không tập trung vào học tập lại quan tâm đến những chuyện vớ vẩn của người lớn, nhà trường cứ vẽ đường cho hươu chạy”. Nếu là Hùng em sẽ xử lý tình huống trên như thế nào ? Giải quyết tình huống: Hùng nên giải thích cho ba hiểu: -Trong thời buổi hiện nay, tất cả những thông tin về nhiều lĩnh vực đều có trên các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt trên internet. Học sinh thì có tính tò mò và rất muốn tìm hiểu, nhất là vấn đề sức khỏe sinh sản vị thành niên nên nhà trường không “vẽ đường hươu vẫn cứ chạy mà lại chạy sai đường”. -Vậy nên, nhà trường tổ chức buổi ngoại khóa là giúp học sinh hiểu đúng và biết cách phòng tránh những vấn đề liên quan đến SKSSVTN, nếu Trường THPT Lê Quý Đôn 18 GV:Nguyễn Thị Diệp Giáo dục giới – bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản không sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn đối với bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội. Tình huống 3: Lan là một học sinh lớp 10, hàng ngày đi học, em phải đi bộ từ nhà đến trường qua một quãng đường vắng vẻ. Nhiều lần đi học, em đã gặp một toán học sinh nam, họ thường trêu trọc: Giật tóc, cười cợt, bình phẩm về dáng người của em, thậm chí sờ cả vào người em khiến em rất sợ hãi. Giờ đây, mỗi buổi đi học em lại lo sợ phải gặp toán con trai đó. Theo em, Lan phải làm gì để tránh được sự quấy rối của toán con trai này ? Giải quyết tình huống: -Lan nên đi học cùng bạn bè -Lan tìm hiểu nhóm bạn nam đó học trường, lớp nào, ở đâu? Sau đó nhờ GVCN và gia đình của các bạn can thiệp: phân tích những hành vi không đúng và nhờ GVCN tạo điều kiện cho Lan làm quen, kết bạn với các bạn ấy. Qua đó Lan gần gũi, phân tích để các bạn có cách ứng xử văn hóa hơn với các bạn nữ. Tình huống 4: Chị Tâm sống trong một xã nhỏ và là vợ của anh Tuấn, anh này rất thích nhậu nhẹt với bạn bè và nhiều hôm về nhà trong tình trạng say xỉn, anh ta thường đánh chị Tâm. Chị tâm đến gặp ông Chủ tịch xã nhờ giúp đỡ, nhưng ông này từ chối và nói rằng đây là chuyện cá nhân, chính quyền xã không thể can thiệp vào chuyện riêng của gia đình. Ông Chủ tịch xã nói thế đúng hay sai ? Tại sao ? Chị Tâm có thể tìm đến ai để nhờ giúp đỡ ? Giải quyết tình huống: -Ông Chủ tịch xã từ chối giúp đỡ và nói rằng đây là chuyện cá nhân, chính quyền xã không thể can thiệp vào chuyện riêng của gia đình là sai vì: +Chủ tịch xã là người quản lí chung về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa trong xã. Trường THPT Lê Quý Đôn 19 GV:Nguyễn Thị Diệp Giáo dục giới – bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản +Theo quy định của pháp luật thì người nào có hành vi ngược đãi ( vợ, chồng, con cái, cha mẹ…) thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Trong trường hợp này, anh Tuấn đánh vợ là vi phạm pháp luật. Vậy nên Chủ tịch xã phải chỉ đạo cho công an, tư pháp, hội phụ nữ… đến để hòa giải, dàn xếp, xử lí tùy theo mức độ ngược đãi, bạo lực. -Chị Tâm có thể nhờ sự giúp đỡ của 2 bên gia đình, của Hội phụ nữ và các đoàn thể khác. Tình huống 5 Quý là một bạn trong nhóm bạn chơi rất thân của em, bất cứ việc gì các em cũng chia sẻ cùng nhau, nhưng từ ngày biết anh trai mình bị nhiễm HIV/AIDS, Quý trở nên khác hẳn, Quý sống lặng lẽ, xa lánh bạn bè và luôn khép kín. Ngày nghỉ cuối tuần sắp tới, lớp em tổ chức đi tham quan, Quý tỏ ý không muốn tham gia, lấy cớ là nhà có việc bận. Một số bạn trong nhóm nói: ’’Kệ nó, nó không tham gia thì thôi, chúng mình càng thoải mái’’. Em ứng xử như thế nào nếu gặp phải tình huống trên ? Giải quyết tình huống: Mình cần trao đổi với 2 phía: -Về phía bạn Quý: Quý xa cách bạn bè vì mặc cảm, hụt hẩng với căn bệnh AIDS của anh trai, bạn làm như vậy anh bạn sẽ càng buồn và mặc cảm hơn kể cả bố mẹ bạn cũng vậy( vì người thân trong gia đình cũng lo sợ với chính anh cậu). Với sự hiểu biết về căn bệnh này, Bạn cần phải giúp đỡ, chia sẻ với anh, giúp bố mẹ và anh lạc quan hơn trong cuộc sống vì AIDS nếu biết cách bảo vệ, chăm sóc sức khỏe vẫn có thể kéo dài sự sống và sống có ích hơn cho bản thân, gia đình và xã hội. -Về phía nhóm bạn: nên cảm thông cho hoàn cảnh của bạn Quý, bằng tấm chân tình hãy gần gũi, khuyên nhũ , giúp bạn hòa đồng với bạn bè để vượt qua những khó khăn, mặc cảm. Tình huống 6: Năm nay em 18 tuổi đang học lớp 12 , yêu một người hơn em 5 tuổi đã được 2 năm rồi, chúng em rất yêu nhau, hiểu và chia sẻ với nhau mọi niềm Trường THPT Lê Quý Đôn 20 GV:Nguyễn Thị Diệp
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan