UBND HUYỆN CAO LÃNH
TRƯỜNG THCS BÌNH THẠNH
ĐỀ TÀI
CÔNG TÁC PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU KÉM
MÔN NGỮ VĂN 6 Ở TRƯỜNG THCS
Người thực hiện: LÊ THỊ THIÊM
TỔ: VĂN - GDCD - NHẠC - HỌA
Năm học: 2011-2012
Trang 1
LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay, môn Ngữ văn là một trong những môn chính trong các trường Tiểu học, THCS
hay THPT và cũng là một trong những môn chính trong các kỳ thi tốt nghiệp. Còn đối với
xã hội môn Ngữ văn cũng góp phần quan trọng trong việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp hay
viết lách, giúp mọi người trau chuốt lời nói, lời văn của mình.
Còn trong nhà trường phổ thông môn Ngữ văn giúp các em học sinh rèn luyện và hoàn
thiện nhân cách của mình “ Văn học là nhân học”.
Nhưng trong quá trình giảng dạy những năm qua ở trường THCS Bình Thạnh tôi nhận
thấy một bộ phận không nhỏ học sinh chưa nhận thức đuợc tầm quan trong của môn học
này, học yếu và hơn thế nửa các em quá thờ ơ với môn Văn.
Thực tế khi tôi nghiên cứu và tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, tôi thấy đa
phần các em có tư tưởng học lệch, học thiên về các môn khoa học tự nhiên như: Toán. lý,
hóa, sinh…
Vì vậy việc tìm ra nguyên nhân và phương hướng khắc phục nhằm giúp cho các em học
tốt bộ môn Ngữ văn ở trường THCS là rất quan trọng. Có như thế thì việc học tập của các
em ngày càng khả quan hơn.
Đề tài này có hai phần chính:
Một là: Tìm hiểu nguyên nhân học yếu môn Ngữ văn ở trường THCS.
Hai là: Đề ra những biện pháp khắc phục những nguyên nhân trên để nâng cao chất
lượng học tập Ngữ văn cho học sinh.
Bên cạnh đó, khi nghiên cứu đề tài này sẽ giúp ích cho tổ văn trong việc giảng dạy môn
học Ngữ văn.
Song những vấn đề trong đề tài này chưa phải là hữu hiệu nhất, tôi rất mong sự đóng góp
của Hội đồng khoa học trường và quý đồng nghiệp trong tổ chuyên môn để tìm ra nhiều
biện pháp hữu hiệu hơn giúp nâng cao chất lượng dạy và học Ngữ văn ở trường THCS
Bình Thạnh ngày càng tốt hơn.
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lí do chọn sáng kiến kinh nghiêm:
Trang 2
Trong cuộc sống hàng ngày đòi hỏi mọi người phải có giao tiếp, giao tiếp để tìm hiểu mọi
người xung quanh, giao tiếp để kết bạn, giao tiếp vì mục đích kinh tế…Muốn như thế thì
mọi người cần có vốn kiến thức, lời nói phải lịch sự, trong sáng, đầy đủ ý nghĩa, đúng từ,
đúng câu…Như vậy, để thành công trong giao tiếp thì mọi người chúng ta phải học tập và
muốn như thế phải bắt đầu từ khi còn ở ghế nhà trường.
Có thể nói Ngữ Văn góp phần không nhỏ trong việc giao tiếp, hành văn, trau dồi kiến
thức từ vựng, ngữ pháp, sử dụng từ, đặt câu…đặc biệt là khả năng tự hoàn thiện nhân cách
cho mình “ Văn học là nhân học”.
Học Ngữ văn không những các em có được những giây phút thanh thản về tinh thần sau
những tiết học khác quá mệt mỏi vì công thức vì nguyên lý…mà các em còn được thưởng
thức những tác phẩm hay, những bài thơ mượt mà, những bài văn gợi cảm, những từ ngữ
khoa học, những cấu trúc câu uyển chuyển.
Bên cạnh đó, môn Ngữ văn hiện nay còn là môn thi chính ở cấp học phổ thông, các kỳ
thi tuyển sinh Cao đẳng, Đại học các khối C, D… và các kỳ thi trung học chuyên nghiệp
hay học nghề…
Song thực tế cho thấy học sinh ở trường THCS Bình Thạnh có một bộ phận nhỏ yêu thích
học và học tốt môn Ngữ văn thì còn có một phần lớn học sinh chưa ý thức được tầm quan
trọng của môn học. Còn một bộ phận học sinh có tư tưởng học lệch, các em học thiên về
các môn học thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên như: Toán học, vật lý, hóa học, sinh vật …
các em cho rằng đây là thời đại khoa học công nghệ, học những môn học đó sẽ giúp ích
cho mình thâm nhập khoa học, các em không quan tâm đến môn Ngữ văn. Bởi thế, trong
những năm qua, chất lượng học Ngữ văn của học sinh ở trường THCS Bình Thạnh còn
thấp.
Khi nghiên cứu một số bài văn của các em tôi nhận thấy: Bài viết không ý tưởng, bố cục
không có, nếu có thì lại không rõ ràng, rồi còn sai chính tả, lỗi dùng từ, đặt câu, dựng
đoạn…Khả năng vận dụng ngôn ngữ cũng như kiến thức văn học của các em còn rất hạn
hẹp.
Nhưng thực tế mà nói, học sinh ở trường THCS Bình Thạnh là ở vùng sâu, thiếu tiếp cận
với nguồn tư liệu từ sách, báo. Đa phần là các em ở xa trường, đường đi lại khó khăn trong
mùa mưa bão nên việc học của các em gặp khó khăn và vì vậy vốn từ vựng các em rất
thấp, không đủ lĩnh hội một tác phẩm văn học, một bài Tiếng Việt thực hành hoặc làm một
bài làm văn có chất lượng.
Với những lý do trên, tôi đã nghiên cứu và tìm hiểu “ nguyên nhân học yếu môn văn biện
pháp khắc phục” giúp cho các em học tốt hơn bộ môn Ngữ văn, chất lượng hơn, góp một
phần nhỏ vào công tác giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ - thế hệ tương lai ở trường THCS
Bình Thạnh.
Trong những năm qua, một thực trạng là càng ngày tính đa dạng về trình độ học sinh
trong các lớp càng tăng. Do đó, làm cách nào để có thể giúp cho học sinh khai thác tối đa
bài giảng của thầy, nhất là đối với học sinh yếu. Ở các em có sự khác biệt về: khả năng tiếp
Trang 3
thu bài, phong cách nhận thức, sức khoẻ… so với những học sinh khác. Cần xem xét
những học sinh này với những đặc điểm vốn có của các em để tìm ra những biện pháp
nhằm dẫn dắt các em đạt đến kết quả tối đa, tránh cho các em bị rơi vào những khó khăn
thường trực trong học tập. Đó chính là điều mà bản thân muốn trao đổi, chia sẻ, học hỏi
kinh nghiệm từ đồng nghiệp để giúp đỡ đối tượng học sinh yếu.
Vấn đề học sinh yếu hiện nay luôn được xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục
tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển toàn diện thì người giáo viên
không những chỉ biết dạy mà còn phải biết tìm tòi phương pháp nhằm phát huy tính tích
cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu. Vấn đề nêu trên cũng là khó khăn với
không ít giáo viên. Nhưng ngược lại, giải quyết được điều này là góp phần xây dựng trong
bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học hiện đại, giúp cho học
sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức.
Với những lí do trên, ngay đầu năm học, từ giai đoạn tổ chức lớp cho đến khi giảng dạy,
bản thân luôn chú ý, quan tâm đến việc giúp đỡ học sinh yếu. Đây sẽ là nền tảng, là động
lực để thúc đẩy các em tiếp thu bài đầy đủ, được trau dồi tri thức và tiếp tục vươn xa trên
con đường học vấn của mình.
Từ những suy nghĩ trên, bản thân đã mạnh dạn chọn đề tài: “Công tác phụ đạo học sinh
yếu kém môn Ngữ văn ở trường THCS” để tiếp tục áp dụng vào thực tế lớp 6A4, 6A5,
6A6 nói riêng và học sinh khối 6 trường Trung học cơ sở Bình Thạnh nói chung.
2.Mục đích nghiên cứu:
Qua những năm trực tiếp giảng dạy, bản thân cũng nắm bắt và thấu hiểu được tâm lí lứa
tuổi học sinh THCS. Nếu các em được sống trong sự yêu thương, chăm sóc, quan tâm của
gia đình, thầy cô và có một môi trường học tập tốt thì các em sẽ ham thích, say mê và nỗ
lực trong học tập. Điều này có tác động rất lớn đến các em là học sinh yếu, giúp các em tự
tin hơn trong việc học của mình. Việc phụ đạo học sinh yếu hay nói khác hơn, để nâng cao
chất lượng giáo dục không chỉ là trách nhiệm của nhà trường, gia đình mà là của toàn xã
hội. Vì vậy, đây là động lực để những ai đang làm công việc “trồng người” luôn cố gắng
tìm ra được những tồn tại và nguyên nhân làm cho chất lượng phụ đạo học sinh yếu chưa
đạt hiệu quả cao. Và từ đó sẽ có những biện pháp khắc phục phù hợp. Đây cũng chính là
mục đích của đề tài này.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Trang 4
Sự đổi mới công tác dạy và học những năm gần đây ở bậc THCS đã tạo điều kiện cho
chúng tôi phát huy sở trường trong dạy học, mạnh dạn trong việc đề ra những giải pháp
trong giảng dạy, giáo dục học sinh phù hợp với từng đối tượng. Từ đó giúp học sinh dễ
dàng hơn trong việc phát huy ưu điểm và khắc phục, sửa chữa những hạn chế của bản thân.
Vì vậy, chúng ta cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về quan điểm đổi mới để vận dụng vào
thực tiễn. Những biện pháp trên có thể áp dụng cho vào việc đổi mới dạy và phụ đạo học
sinh yếu các khối 6 đạt hiệu quả.
II. PHẦN NỘI DUNG:
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
a. Đối với giáo viên:
_ Giáo viên bộ môn Ngữ văn phải giải thích rõ nhiệm vụ cũng như tầm quan trọng của
môn Ngữ văn cho tất cả học sinh, đặc biệt học sinh yếu kém, nắm vững, cụ thể như :
+ “ Văn học là nhân học”, chúng ta học văn là học cách làm người góp phần rèn luyện
nhân cách cho ta, góp phần làm cho chúng ta có thêm vốn từ vựng, nền văn hóa, văn học
của nước mình, các nước láng giềng, các dân tộc anh em, của bè bạn trên toàn thế giới …
giúp ta hiểu biết thêm về đất nước và con người .
+ Văn học góp phần vun đắp, bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn ta thêm trong sáng như một
vầng trăng, mượt mà như một làn điệu ca dao – dân ca …
_ Khi lên lớp người giáo viên cần phải thảo luận cùng đồng nghiệp tìm ra phương pháp
giảng dạy riêng cho từng lớp, từng đối tượng học sinh. Vì từng khối lớp có đặc thù khác
nhau về việc tiếp thu, lĩnh hội kiến thức văn học và còn trong khối lớp đó như: Học sinh
giỏi, khá, trung bình, yếu, kém. Vì các đối tượng này có tâm sinh lý, trình độ khác nhau
trong việc học và cảm nhận văn học.
_ Người giáo viên phải biết khởi động và kích thích sự hứng thú học tập văn học của
từng đối tượng học sinh mình phụ trách đặc biệt là phải tôn trọng quan điểm lấy học sinh
làm trung tâm, giáo viên chỉ là người hướng dẫn còn học sinh phải chủ động và ra kiến
thức và lĩnh hội nó.
_ Ngoài ra giáo viên cũng phải biết ứng dụng công nghệ thông tin vào trong từng tiết dạy
như: Minh họa tranh, ảnh và các thứ tư liệu cần thiết khác cho bài học trên máy chiếu
nhằm khơi gợi sự hứng thú, sự quan sát và tìm hiểu của học sinh.
b. Đối với học sinh:
_ Có ý thức hơn, tích cực hơn, say mê, hứng thú hơn trong việc học tập môn Ngữ Văn.
_ Không còn tư tưởng học thiên, học lệch mà các em chủ động và tích cực hơn trong học
tập.
2. Thực trạng nghiên cứu:
a.Thuận lợi:
Trang 5
_ Đối với học sinh lớp 6 là lớp đầu cấp của bậc trung học cơ sở nên ý thức, động cơ học
tập của các em tương đối cao.
_ Học sinh lớp 6 có thể tiếp nhận sự giúp đỡ trong học tập từ nhiều phía. Trong đó, bạn
học với vai trò “ Đôi bạn cùng tiến” đã giúp các em học sinh yếu giảm bớt phần nào khó
khăn trong học tập.
_ Đội ngũ giáo viên khối nhiệt tình, thân thiện luôn quan tâm đến từng đối tượng học
sinh đặc biệt là học sinh yếu. Sự quan tâm, phối hợp của Ban Giám Hiệu và Đoàn thể nhà
trường.
Hiện nay, việc thực hiện đổi mới công tác dạy và học theo hướng khoán nội dung chương
trình cho phép giáo viên chủ động thời lượng trong từng phân môn, từng bài học. Vì vậy,
việc giúp đỡ các em trên lớp dễ dàng hơn, chủ động hơn.
b. Khó khăn:
_ Như đã nêu, đối tượng học sinh yếu có những khác biệt. Và hơn thế nữa, trong từng cá
nhân của đối tượng này cũng là sự khác biệt về phong cách nhận thức.Vì vậy, mỗi dạng đối
tượng cần có sự tác động khác nhau.
_ Theo qui định về đánh giá xếp loại học sinh hiện nay, một môn học xếp loại yếu khi
điểm học lực môn dưới 5. Nhưng trong thực tế, những học sinh yếu môn Toán, Văn thì
những môn học khác cũng bị ảnh hưởng. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực kiên trì của thầy và trò
rất cao.
_ Đối tượng học sinh yếu thường là những em có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, cha mẹ
ly hôn, cuộc sống không ổn định hoặc là gia đình ít quan tâm đến việc học Ngữ Văn.
c. Cơ sở vật chất:
_ Trường THCS Bình Thạnh luôn đứng trước những khó khăn về cơ sở vật chất. Nhìn
chung, hệ thống phòng học chỉ đủ đáp ứng cho việc giảng dạy chính khóa nên thiếu phòng
dành cho việc dạy phụ đạo trái buổi. Trước những thách thức đó đòi hỏi người thầy phải nỗ
lực bản thân, kiên trì, bền bỉ cùng nhà trường khắc phục khó khăn và từng bước nâng cao
chất lượng giáo dục.
_ Thực tế, trong 3 lớp: 6A4, 6A5, 6A6 mà bản thân phụ trách, phần lớn các em có hoàn
cảnh khó khăn hoặc cha mẹ ít quan tâm đến việc học tập của các em ở trường. Bên cạnh
đó, địa bàn xã Bình Thạnh lại chằng chịt, khó khăn cho việc đi lại. Vì vậy, có một số học
sinh thuộc con em gia đình lao động nghèo, vì cuộc sống mưu sinh, vì mãi lo cho kinh tế
gia đình, một số phụ huynh ít quan tâm đến việc học tập của con em mình. Điều này phần
nào đã ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em.
Trang 6
d. Phương pháp nghiên cứu:
Trong khi nghiên cứu đề tài chúng tôi có sử dụng một số phương pháp và tư liệu của
đồng nghiệp như sau:
_ Phương pháp nghiên cứu khoa học.
_ Phương pháp dạy học Ngữ văn.
_ Phương pháp điều tra xã hội học.
_ Phương pháp phỏng vấn.
_ Phương pháp tiếp cận trực tiếp đối tượng để tìm hiểu.
_ Đọc tư liệu tham khảo.
3. Khảo sát thực tế khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh:
Tháng điểm thứ 1 năm học 2011 – 2012 ( HKI )
GIỎI
KHÁ
TB
YẾU
KÉM
LỚP
SĨ
SỐ
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
6A4
6A5
6A6
TC
45
44
44
133
0
0
0
0
0
0
0
0
6
3
7
16
13,3
6,8
15,9
12
19
27
25
71
42,3
61,4
65,8
53,4
9
11
7
27
20
25
15,9
20,3
11
3
5
19
24,4
6,8
11,4
14,3
4. Nguyên nhân:
“ Khó như hình, linh tinh như đại, ngại như văn” đó là câu cửa miệng của học trò. Môn
Ngữ văn nói chung hay Văn học nói cụ thể rất phong phú và thú vị và cũng là một môn học
cực khó trong chương trình giáo dục phổ thông các cấp. Thế là học văn không phải dễ, qua
thời gian nghiên cứu tìm hiểu, tôi nhận thấy các em không tiếp cận tốt với Ngữ văn.
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên thì có nhiều song theo tôi,do một số nguyên nhân chủ
yếu sau:
a. Đối với nhà trường:
Trường THCS Bình Thạnh là một trường vùng cù lao, trang thiết bị và đồ dùng học tập
phục vụ cho các môn khoa học xã hội cũng như môn Ngữ văn như: Tranh ảnh, chân dung
về tác giả, về vùng đất liên quan đến con người, đến tác phẩm hay bản đồ về vùng đất ấy…
chưa được trang bị đầy đủ, còn thiếu so với nhu cầu, trên lớp chỉ có lời giảng, lời bình, lời
hướng dẫn của người thầy cho học sinh tìm ra kiến thức thì quá đơn điệu, các em chưa hình
dung ra được chân dung tác giả, nhân vật, vùng đất, vị trí trên bản đồ hành chính là như thế
nào, không gian tiết học thường thiếu tính sinh động, hấp dẫn hay chưa đủ kích thích trí
tưởng tượng, đầu óc tư duy và quan sát của học sinh… và thư viện trường thiếu cả sách
Trang 7
tham khảo, những tác phẩm hay, những tác phẩm cho các em đọc, tham khảo, nghiên cứu
nên phần nhiều các em thiếu vốn từ và việc học Ngữ văn thế là hạn chế.
b. Đối với học sinh:
_ Bình Thạnh là một xã vùng sâu, đời sống kinh tế gia đình của các em còn nhiều thiếu
thốn, cho nên khả năng gia đình lo đầy đủ điều kiện học tập cho các em như ở thành thị thì
không được. Đó cũng ảnh hưởng đến việc học tập của các em đặc biệt là học Ngữ văn, các
em không đủ tiền mua sách báo, tư liệu tham khảo hay tác phẩm văn học để đọc và nghiên
cứu. Ngoài giờ học các em còn tranh thủ thời gian làm thêm việc khác – đối với những gia
đình nghèo, để phụ giúp gia đình, các em không có đủ thời gian và điều kiện để học nhóm,
học phụ đạo hay học bồi dưỡng nên kiến thức các em cũng vì thế mà hạn chế theo mà
trong đó có kiến thức Ngữ văn .
_ Học sinh không có thời gian cho việc tự học: Vì trường nằm trên địa bàn thuộc vùng
kinh tế khó khăn, hầu hết đều làm thuê hoặc làm rẫy nên các em phải phụ giúp gia đình
ngoài giờ lên lớp, không có thời gian học.
_ Đa số các em lười học, chán học hoặc không bao giờ đọc sách, kể cả văn bản trong
sách giáo khoa: Qua quá trình giảng dạy, bản thân nhận thấy rằng các em học sinh yếu là
nên không chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học Văn. Các em tự cho rằng đây là môn học trừu
tượng khó hiểu nên không hứng thú về nó, vào lớp không chú tâm nghe giảng, không phát
biểu xây dựng bài, không ghi chép bài, về nhà không học bài, không soạn bài, không đọc
tài liệu cũng như tham khảo thêm qua các nguồn tư liệu khác thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng như: Đọc báo, nghe thông tin trên đài, trên ti vi… hay tự mình tìm để
đọc và nghiên cứu. Còn một bộ phận nhỏ thì các em không xác định được mục đích của
việc học. Các em chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội
dung đã học sau đó về nhà lấy tập ra “ học vẹt” mà không hiểu được nội dung đó nói lên
điều gì.
_ Học sinh bị hỏng kiến thức từ lớp nhỏ: Đây là một điều không thể phủ nhận với
chương trình học tập hiện nay. Nguyên nhân này có thể nói đến một phần lỗi của giáo viên
là chưa đánh giá đúng trình độ của học sinh.
_ Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí như xem ti vi,
chơi game...ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức học bị lôi cuốn, xao lãng
việc học.
_ Các em chưa yêu thích môn Ngữ văn. Các em có tư tưởng học lệch, thiên về các môn
tự nhiên vì các môn ấy có khuôn mẫu có công thức, các em chỉ cần nhớ khuôn mẫu, công
thức đó thì các em có thể giải mã được nhiều vấn đề, nhiều bài học cũng như bài tập khác.
_ Nhiều học sinh thiếu vốn từ vựng, chưa thông hiểu một cách cơ bản cấu trúc cú pháp
câu nên việc cảm nhận một tác phẩm văn học là một việc gian khổ.
_ Do chưa mạnh dạn và chủ động trong học tập nên trong giờ học một số vấn đề các em
chưa thật rõ, chưa thật hiểu các em không dám hỏi lại, dần dần các em bị mất kiến thức cơ
bản của môn học.
Trang 8
Trên đây, chưa hẵn đã hết những nguyên nhân, song những nguyên nhân trên cũng đã
làm cho việc học môn Ngữ văn bị hạn chế đáng kể.
c. Đối với giáo viên:
_ Do thiếu thốn về vật chất trong thời đại kinh tế thị trường ngày nay mà một số giáo
viên không có khả năng và điều kiện để tự học hay học để nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cũng như phương pháp dạy Ngữ văn lấy học sinh làm trung tâm và ứng dụng
công nghệ thông tin vào trong bài giảng một cách có hiệu quả cao nhất.
_ Mặt khác, do dung lượng thời gian ít, nội dung bài giảng nhiều và do xu thế chung của
lớp nên giáo viên đứng lớp chỉ chú tâm để ý đến các em khá giỏi tránh mấy thời gian và lạc
ý của mình. Giáo viên chưa chú ý quan tâm đến các em chậm tiến, ít phát biểu vì sợ mất
thời gian và rối ý mình, nên dần dần các em chán nản không hứng thú học Ngữ văn.
_ Giáo viên làm công tác chủ nhiệm chưa giải thích cho học sinh rõ về tầm quan trọng
của môn học trong trường phổ thông cũng như tầm quan trọng của của Ngữ văn trong việc
nâng cao kiến thức và hình thành nhân cách đẹp cho mình, nên các em chưa thật sự quan
tâm đến bộ môn này.
_ Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ học sinh yếu
kém dẫn đến chất lượng chưa cao.
_ Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp trực quan
vào tiết học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của học sinh.
_ Do sĩ số lớp đông nên rất khó cho giáo viên trong việc theo sát, kèm cặp từng học sinh
trong một tiết dạy.
_ Qua quá trình công tác bản thân nhận thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên chưa
chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu. Chưa tìm tòi nhiều
phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ động của học sinh. Chưa thật sự
quan tâm tìm hiểu đến hoàn cảnh gia đình của từng học sinh. Trên đây là một số nguyên
nhân dẫn đến tình trạng học sinh học yếu mà bản thân nhận thấy trong quá trình công tác.
5. Kết quả:
Tháng điểm thứ 3 năm học 2011 – 2012 ( HKI ):
GIỎI
KHÁ
TB
YẾU
KÉM
LỚP
SĨ
SỐ
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
6A4
6A5
6A6
TC
43
44
43
130
1
0
0
1
2,3
0
0
0,8
15
10
22
47
34,9
22,7
51,2
36,2
21
28
15
64
44,8
63,6
34,9
49,2
6
5
5
16
14
11,4
11,6
12,3
0
1
1
2
0
2,3
2,3
1,5
Học kỳ I năm học 2011 – 2012
Trang 9
GIỎI
KHÁ
TB
YẾU
KÉM
LỚP
SĨ
SỐ
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
6A4
6A5
6A6
TC
43
44
43
130
0
0
0
0
0
0
0
0
10
4
9
23
23,3
9,1
20,9
17,7
28
33
29
90
65,1
75
67,4
69,2
4
3
3
10
9,3
6,8
7
7,7
1
4
2
7
2,3
9,1
4,7
5,4
Qua việc phân tích những nguyên nhân đó, kết quả, bản thân đưa ra một số biện pháp để
giúp đỡ, phụ đạo học sinh yếu ở bộ môn Ngữ văn..
6. Một số giải pháp để nâng cao chất lượng môn Ngữ Văn:
6.1. Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh:
_ Giáo viên nên phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc điểm vốn có của các
em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của từng em. Một
số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu bài, lười học,
thiếu tự tin, nhút nhát…
_ Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách
nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các chức
năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng này.
_ Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm tạo
điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù hợp. Trong dạy học cần
phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho đối tượng này những câu hỏi
dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em được tham gia trình bày trước lớp,
từng bước giúp các em tìm được vị trí đích thực của mình trong tập thể. Yêu cầu luyện tập
của một tiết là 4 bài tập, các em này có thể hoàn thành 1, 2 hoặc 3 bài tuỳ theo khả năng
của các em.
_ Ngoài ra, giáo viên có thể tổ chức phụ đạo cho những học sinh yếu khi các biện pháp
giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ chức phụ đạo từ 1 đến 2 buổi trong
một tuần. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải kết hợp với hình thức vui chơi nhằm lôi
cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải, nặng nề.
6.2. Giáo dục ý thức học tập cho học sinh:
Trang 10
Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho học sinh sự hứng thú trong
học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên
liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của
môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê khám phá tìm tòi trong
việc chiếm lĩnh tri thức.
Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia đình và
nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép
việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho học
sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia đình giáo dục
ý thức học tập của học sinh. Do hiện nay, có một số phụ huynh luôn gò ép việc học của con
em mình, sự áp đặt và quá tải sẽ dẫn đến chất lượng không cao. Bản thân giáo viên cần
phân tích để các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm
của gia đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên.
6.3. Kìm cặp học sinh yếu:
Ngay từ đầu năm giáo viên phải khảo sát chất lượng để biết số lượng học sinh yếu là bao
nhiêu để có kế hoạch phụ đạo. Lập danh sách học sinh yếu (theo mẫu dưới đây) và chú ý
quan tâm đặc biệt đến những học sinh này trong mỗi tiết dạy như thường xuyên gọi các em
đó lên trả lời câu hỏi, khen ngợi các em đó khi các em trả lời đúng,…
DANH SÁCH HỌC SINH YẾU
Trang 11
STT Lớp Họ và tên
Đọc Viết Con ông, bà
yếu yếu
Nơi ở
1
6A4 Nguyễn Hoài Linh
x
Nguyễn Văn Tiền
Ấp Bình Hòa
2
6A4 Nguyễn Văn Thiện
x
Nguyễn Văn Thanh
Ấp Bình Linh
3
6A4 Dương Vũ Linh
x
Dương Văn Nhanh
Ấp Bình Linh
4
6A5 Lê Thanh Sang
x
x
Bùi Thị Tím
Ấp Bình Tân
5
6A5 Đàm Tấn Lộc
x
x
Nguyễn Thị Loan
Ấp Bình Tân
6
6A5 Đinh Kiều Phượng
x
x
Nguyễn Thị Mẫn
Ấp Bình Hòa
7
6A5 Phạm Phước Thiện
x
x
Nguyễn Thị Danh
Ấp Bình Linh
8
6A6 Lê Hoàng Thắng
x
Lê Thành Long
Ấp Bình Tân
9
6A6 Võ Hoàng Sơn
x
x
Võ Văn Hải
Ấp Bình Hòa
10
6A6 Nguyễn Văn Đức
x
x
Nguyễn Văn Phết
Ấp Bình Phú
Lợi
Chủ động gặp phụ huynh trao đổi về việc học của học sinh, cùng với phụ huynh tìm biện
pháp khắc phục.
6.4. Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn :
Trang 12
_ Đọc: Dù là học sinh lớp 6, nhưng trong khối còn một số em đọc rất yếu. Như em Đàm
Tấn Lộc (lớp 6A5), Đinh Kiều Phượng (lớp 6A5), Lê Thanh Sang (lớp 6A5), Nguyễn Hoài
Linh (lớp 6A4), Đặng Thành Tài (lớp 6A4),… Nguyên nhân đọc yếu ở các em là ngắt nghỉ
hơi chưa đúng dấu câu, cụm từ, không phân biệt được các dấu câu, chưa đạt được tốc độ
đọc của học sinh lớp 6, với những từ có vần khó thì phải đánh vần thật lâu, tùy tiện lượt
bớt hoặc thêm từ vào khi đọc. Bên cạnh đó, khả năng đọc trôi chảy, đọc hiểu và cảm thụ
một tác phẩm, một văn bản còn hạn chế.
_ Chính tả: Đọc đúng là cơ sở, nền tảng của viết đúng. Vì vậy, các em đọc yếu thường
cũng viết yếu. Nguyên nhân các em viết yếu là do không hiểu và nắm nghĩa của từ, không
nắm vững âm, vần, dấu thanh và cách ghép, một số mắc lỗi do phát âm chưa đúng nên dẫn
đến.
_ Luyện từ và câu: Vốn từ vựng ít, thường mắc lỗi về ngữ pháp khi viết câu.
_ Tập làm văn:
Khả năng đọc, viết hạn chế ảnh hưởng nhiều khi diễn đạt bằng lời, diễn đạt khi viết. Hơn
nữa, hoàn cảnh sống làm hạn chế khả năng hiểu biết của các em. Vì vậy, các em gặp khó
khăn khi cần mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo các chủ điểm đã học thông qua các kỹ
năng như: phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết đoạn.
6.5. Đối với những học sinh đọc yếu thì giáo viên cần:
_ Tạo điều kiện cho học sinh được đọc nhiều trong giờ tập đọc như: thường xuyên gọi
các em đọc bài, luyện phát âm đúng, sửa sai kịp thời cho các em và cho các em luyện đọc
lại từ sai nhiều lần. Nếu thời gian của tiết học không đủ thì giáo viên có thể tranh thủ cho
các em luyện đọc thêm vào giờ học tự chọn, tiết học trái buổi, giờ giải lao 5 hoặc 10 phút.
_ Dặn các em về nhà đọc lại bài, có thể đọc tham khảo thêm một văn bản, một bài tập
đọc khác có nội dung phù hợp và quan trọng là giáo viên phải kiểm tra và nhận xét đánh
giá việc đọc ở nhà của các em để động viên khuyến khích kịp thời. Bên cạnh đó, thỉnh
thoảng một hoặc hai tuần giáo viên có thể đến nhà gặp phụ huynh học sinh để xem cách
học ở nhà của các em như thế nào, nếu thấy cần thiết thì giáo viên đưa ra biện pháp giúp
đỡ.
_ Giáo viên động viên học sinh xuống thư viện mượn truyện thiếu nhi, truyện cổ tích đọc
vào giờ nghỉ giải lao. Giáo viên nên dành thời gian để các em thể hiện giọng đọc của mình,
đọc câu chuyện trước lớp cho các bạn nghe, cho các bạn nhận xét, đánh giá về sự tiến bộ
của các em sau mỗi tuần. Làm được điều này, ta sẽ tạo được niềm tin nơi các em rất nhiều,
là động lực thúc đẩy các em say mê rèn đọc.
_ Khi các em đã đọc đúng thì giáo viên tổ chức cho các em luyện đọc trôi chảy thông
qua các hình thức đọc trước lớp, đọc trong nhóm. Giúp học sinh mở rộng vốn từ và hiểu
Trang 13
nghĩa từ qua việc đọc chú giải và nghe bạn trình bày nghĩa một số từ trong bài đọc, từ đó
giúp các em hiểu nội dung bài đọc.
_ Chính tả:
+ Tổ chức cho các em ôn lại âm, vần đã học. Giáo viên yêu cầu học sinh mỗi ngày viết
khoảng một trang vở gồm cả âm, vần, tiếng, từ. Sau đó, giáo viên đọc cho học sinh viết
một đoạn văn mà sử dụng nhiều các âm, vần vừa viết. Chúng ta có thể cho các em viết vào
giờ ra chơi hoặc về nhà viết. Các em sẽ có một vở riêng để luyện viết và giáo viên phải
thường xuyên kiểm tra, nhận xét đánh giá kịp thời.
+ Nếu có điều kiện thì yêu cầu các em đến nhà của giáo viên để luyện viết thì các em sẽ
tiến bộ nhanh hơn. Chỉ cần các em nắm hết các âm, vần thì dần dần các em sẽ viết đúng
chính tả.
+ Khi các em đã nắm được các âm, vần thì đối với bài chính tả trong sách giáo khoa,
giáo viên cần cho học sinh nêu từ khó và luyện viết từ khó nhiều lần, nhiều từ. Có thể cho
các em có chọn từ để luyện viết thêm.
_ Luyện từ và câu:
Sửa lỗi ngữ pháp trong câu cụ thể, trong giao tiếp hàng ngày.
Hướng dẫn các em tra từ điển, tạo cơ hội cho các em được tra nhiều từ nhằm giúp các em
hiểu nghĩa gốc của từ, tạo sự ham thích tìm hiểu.
_ Tập làm văn:
+ Nhận dạng thể loại, sửa phần tìm ý, viết đoạn.
+ Giáo viên chỉ ra lỗi cụ thể trên bài làm của học sinh.
+ Học sinh tự viết lại.
Cần tạo điều kiện để các em nhận xét bài của bạn, ghi chép lại ý hay nếu thích. Khuyến
khích các em trình bày bài viết trước lớp.
Gợi mở, tạo hứng thú cho các em bằng cách thay đổi những đề bài tập làm văn thành
những tình huống, nhằm tạo ra cho các em một hoàn cảnh giao tiếp. Nhờ có hoàn cảnh
giao tiếp, các em dễ bày tỏ suy nghĩ của mình hơn.
III. PHẦN KẾT LUẬN:
1. Kết luận chung:
Trang 14
Có lẽ trong nhà trường không có môn khoa học nào có thể thay thế được môn văn. Đó là
môn học vừa hình thành nhân cách vừa hình thành tâm hồn. Trong thời đại hiện nay, khoa
học kĩ thuật phát triển rất nhanh, môn văn sẽ giữ lại tâm hồn con người, giữ lại những cảm
giác nhân văn để con người tìm đến với con người, trái tim hòa cùng nhịp đập trái tim. Sau
khi nghiên cứu, tham khảo sáng kiến kinh nghiệm này, bản thân người dạy và người học sẽ
có cái nhìn mới mẻ, tích cực hơn về phương pháp dạy phụ đạo học sinh yếu kém. Từ đó,
rất hy vọng kết quả học văn của các em sẽ tốt hơn; các em sẽ yêu thích, ham mê môn văn
hơn nữa.
Một số kinh nghiệm bản thân ghi ra ở đây với hy vọng rằng: Đây sẽ là một tài liệu nhỏ
để các quý đồng nghiệp có thể tham khảo, vận dụng trong những tình huống sư phạm thích
hợp. Hơn thế nữa, giúp đỡ học sinh yếu là nghĩa vụ, trách nhiệm của người thầy. Hãy làm
hết trách nhiệm bằng cái tâm của người thầy và hãy nhận lấy trách nhiệm về mình.
Bản thân xin kết thúc bằng câu chuyện sau:
Bản thân muốn giới thiệu đến đồng nghiêp một cuốn sách hay “Bách khoa toàn thư về
những học trò lười”. Sách kể về những tên tuổi như Einstein, Disney, Darwin và Picasso…
được thế giới biết đến như những thiên tài nhưng không phải ai cũng biết họ từng là những
học sinh lười biếng, không có gì nổi bật khi cắp sách đến trường nhưng họ đã để lại dấu ấn
sáng chói trong lịch sử văn minh loài người. Câu chuyện trên là một thông điệp mà bản
thân muốn gởi tới các em học sinh, các bậc phụ huynh, quý thầy cô, những người luôn có
ước vọng nuôi dưỡng tài năng tiềm tàng chứ không đơn thuần chỉ đặt niềm tin vào những
điểm số nổi bật trong lớp.
Hãy chia sẻ những kinh nghiệm giúp đỡ học sinh yếu của các thầy cô với chúng tôi, để
chúng ta cùng giảm bớt những khó khăn trong học tập cho các em và giúp các em vươn xa
hơn trên con đường học vấn của mình.
Qua nhiều năm tận tụy với nghề, hết lòng yêu nghề, mến trẻ. Thực hiện phương châm
“Tất cả vì học sinh thân yêu”. Kết hợp với kinh nghiệm của bản thân và sự chia sẽ của bạn
bè đồng nghiệp, bản thân luôn hoàn thành tốt việc giúp đỡ đối tượng học sinh yếu. Đây là
một trong những tác động lớn đưa bản thân đến việc nghiên cứu đề tài thiết thực hơn và
thực hiện viết sáng kiến kinh nghiệm đạt kết quả cao nhất.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ trong việc giúp đỡ học sinh yếu. Trong bài viết chắc
không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong quí thầy, cô đóng góp, sửa chữa. Tôi xin chân thành
cảm ơn.
2. Một số đề xuất, kiến nghị:
Trang 15
a. Đối với phụ huynh:
_ Quan tâm hơn đến việc học hành của con em mình, đầu tư nhiều về thời gian cho con
cái học tập, không nên để cho các em phụ giúp nhiều công việc gia đình.
_ Hướng dẫn và tạo cho con thói quen đọc sách; chia sẻ tư vấn, định hướng, bồi dưỡng
tâm hồn cho con để các em có nhiều thuận lợi trong việc bộc lộ và phát triển cảm xúc, tình
cảm trong cuộc sống nói chung và trong việc học văn.
_ Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với giáo viên bộ môn văn để tìm hiểu, nắm bắt kịp
thời tình hình học tập của con em mình.
b. Đối với phòng giáo dục:
_ Tổ chức nhiều hội thảo chuyên đề cho giáo viên bộ môn văn trong từng năm để giáo
viên có dịp trao đổi kinh nghiệm, bàn luận tìm ra biện pháp tối ưu, tích cực nâng cao chất
lượng dạy học môn văn.
_ Có kế hoạch tham mưu với cấp trên có chế độ đãi ngộ hợp lí đối với giáo viên giảng
dạy phụ đạo thêm cho học sinh yếu kém môn văn.
_ Đầu tư trang thiết bị, dụng cụ trực quan, đặc biệt là đầu tư công nghệ thông tin để hỗ
trợ cho giáo viên giảng dạy văn.
c. Đối với địa phương:
_ Quản lí chặt chẽ các điểm kinh doanh internet và các điểm dịch vụ không lành mạnh,
làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh.
_ Quan tâm sát sao, hiệu quả đến chất lượng giáo dục ở địa phương, đầu tư cơ sở vật chất
kịp thời phục vụ cho việc dạy và học.
MỤC LỤC
Trang 16
LỜI NÓI ĐẦU
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn sáng kiến kinh nghiêm.
2. Mục đích nghiên cứu.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2. Thực trạng nghiên cứu.
3. Khảo sát thực tế khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh.
4. Nguyên nhân.
5. Kết quả.
6. Một số giải pháp để nâng cao chất lượng.
III KẾT LUẬN
1. Kết luận chung.
2. Một số đề xuất, kiến nghị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy học Tiếng Việt (Nhà xuất bản Giáo dục).
2. Phương pháp dạy học Tiếng Việt (Nhà xuất bản Giáo dục)
3. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục Trung học cơ sở (Nhà xuất bản Giáo dục).
4. Tài liệu bồi dưỡng cho giáo viên THCS môn Ngữ Văn (Nhà xuất bản Giáo dục)
5. Ứng xử sư phạm ( Nhà xuất bnả Giáo dục).
6. Sách giáo khoa Ngữ Văn 6 (Nhà xuất bản Giáo dục).
Trang 17
Bình Thạnh, ngày 10 tháng 03 năm 2012
DUYỆT CỦA BAN GIÁM HIỆU
GIÁO VIÊN THỰC HIỆN
Lê Thị Thiêm
HIỆU TRƯỞNG
Trang 18
- Xem thêm -