Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn tự sự...

Tài liệu Skkn chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn tự sự

.PDF
23
567
62

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LÀO CAI ***o0o*** SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CHI TIẾT NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN TỰ SỰ - Họ và tên tác giả: Bùi Thị Thanh Hoa - Chức vụ: Giáo viên - Tổ chuyên môn: Ngữ văn - Đơn vị công tác: Trường THPT chuyên tỉnh Lào Cai ******* LÀO CAI, THÁNG 04 NĂM 2015 1 MỤC LỤC Trang 1 I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Thực trạng vấn đề 1 3. Phạm vi đề tài 1 4. Cấu trúc bài viết 1 2 II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lý luận của vấn đề: Chi tiết nghệ thuật và việc khai thác chi 2 tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương tự sự 1.1. Chi tiết trong tác phẩm văn học 2 1.2. Khai thác chi tiết trong truyện ngắn tự sự 4 1.3 Đặc điểm và vai trò của chi tiết trong tác phẩm tự sự 5 2. Thực trạng vấn đề: Khai thác chi tiết qua một số truyện ngắn tự sự 8 trong chương trình Ngữ văn 12 2.1. Truyện “Vợ nhặt” (Kim Lân): 9 2.2. Truyện “Vợ chống A Phủ” (Tô Hoài): 11 2.3. Truyện “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) 13 3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: Cách cảm nhận chi 15 tiết trong tác phẩm tự sự. 3. 1 Các bước cảm nhận chi tiết 15 3. 2 Cách làm bài văn cảm nhận chi tiết. 15 3.3. Hướng dẫn luyện tập một số đề văn 16 4. Hiệu quả của SKKN: Thống kê kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng 20 học sinh: 21 III. KẾT LUẬN 21 TÀI LIỆU THAM KHẢO 2 CHI TIẾT NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN TỰ SỰ I. ĐẶT VẤN ĐỀ: 1. Lý do chọn vấn đề Đọc hiểu và cảm thụ được vẻ đẹp của tác phẩm văn học vốn không phải là một công việc mang tính khuôn mẫu, bởi mỗi văn bản có một chìa khóa riêng để giải mã chiều sâu cảm xúc và nội hàm giá trị nhân văn, nhân sinh của nó. Để làm được công việc mang tính thẩm mĩ này, cần căn cứ vào đặc trưng thể loại, khuynh hướng nghệ thuật của tác giả, giai đoạn văn học… và quan trọng hơn hết là bản thân ngôn từ của tác phẩm văn chương. Với tác phẩm tự sự, ngôn từ tạo nên chi tiết, từ chi tiết mà cấu thành sự kiện, cảnh huống; kết nối sự kiện, cảnh huống thì tạo nên cốt truyện; từ chi tiết mà xây dựng chân dung nhân vật; từ chi tiết mà sắc thái thẩm mỹ độc đáo của mỗi thiên truyện được bộc lộ. Mỗi chi tiết như một tế bào cấu thành sự sống của tác phẩm văn chương. Theo các tác giả cuốn Lí luận văn học (NXB Giáo dục 1997): yếu tố có ý nghĩa quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là chi tiết có dung lượng lớn và hành văn mang ẩn ý. Nhiều khi, truyện ngắn sống được là nhờ vào những chi tiết hay, chi tiết phát sáng, chi tiết đắt giá. “Ở truyện ngắn, mỗi chi tiết đều có vị trí quan trọng như mỗi chữ trong bài thơ tứ tuyệt. Trong đó những chi tiết đóng vai trò đặc biệt như những nhãn tự trong thơ vậy”. (Nguyễn Đăng Mạnh – Trong cuộc tọa đàm về cuốn sách Chân dung và đối thoại của Trần Đăng Khoa báo Văn nghệ số 14, 4/1999) Một thói quen của nhiều người viết khi tiếp cận văn bản tự sự là chỉ quan tâm đến cốt truyện, nhân vật, tình huống và những đề kiểm tra của học sinh cũng thường xoay quanh các vấn đề trên, đó đã là nguyên nhân làm cho bài viết của học sinh trở nên ít mới mẻ và sâu sắc. Trong khi đó các chi tiết trong mỗi tác phẩm mới thực sự là tế bào, là mạch máu tạo nên sức sống và vẻ đẹp của từng thiên truyện. Những bài viết biết khai thác chi tiết thường tạo nên những nét riêng, nét mới mẻ và cá tính vì trong mỗi chi tiết luôn chứa đựng những lớp trầm tích càng khai thác càng thấy giá trị. 2. Thực trạng vấn đề Có nhiều công trình nghiên cứu đã đưa ra phương pháp tiếp cận tác phẩm đúng hướng, chú trọng chi tiết nghệ thuật như: Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể (Nhiều tác giả - NXB Giáo dục 1978), Những bài giảng văn ở Đại học (Lê Tri Viễn - NXB Giáo dục 1982), Giảng văn I. II (Nhiều tác giả - NXB ĐH & THCN 1982) v.v...Từ sau cải cách giáo dục, ngoài sách giáo khoa và sách tham khảo chính thức của Bộ Giáo dục (sách giáo viên) nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học, nhiều nhà giáo đã tham gia viết các công trình nghiên cứu và phân tích về các tác phẩm văn học được giảng dạy trong Nhà trường. Các công trình này cũng đã giúp rất nhiều cho cả giáo viên và học sinh trong việc tìm hiểu, nhận thức và cảm thụ tác phẩm văn học. Nhưng cũng có nhiều bài viết khi nghị luận về một tác phẩm tự sự cụ thể chỉ giúp học sinh tiếp thu một cách thụ động theo lối học vẹt, học theo, chưa nói có không ít bài viết chất lượng chưa cao còn nặng về diễn nôm hoặc tóm lược tác phẩm văn chương là chính. 3. Phạm vi vấn đề Chuyên đề không đi sâu vào từng tác phẩm cụ thể mà chỉ đưa ra một số cách thức khai thác chi tiết của một số tác phẩm tự sự trong chương trình Ngữ văn, giúp cho đối tượng học sinh trong quá trình tiếp cận tác phẩm. 4. Cấu trúc bài viết Chuyên đề gồm 4 phần chính: Đặt vấn đề, Giải quyết vấn đề, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Giải quyết vấn đề có cấu trúc 2 phần cụ thể như sau: 1. Chi tiết và việc khai thác chi tiết trong truyện ngắn tự sự 3 2. Hướng dẫn học sinh khai thác chi tiết qua một số truyện ngắn tự sự trong chương trình và một số đề luyện tập. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lý luận của vấn đề: Chi tiết nghệ thuật và việc khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương tự sự 1.1. Chi tiết trong tác phẩm văn học Chi tiết là một từ ngữ quen thuộc trong giao tiếp hàng ngày. Theo Từ điển Tiếng Việt (NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1988) thì Chi tiết là: Phần rất nhỏ, điểm nhỏ trong nội dung sự việc hoặc hiện tượng (Ví dụ: Kể rành rọt từng chi tiết). Là thành phần riêng rẻ hoặc tổ hợp đơn giản nhất của chúng có thể tháo lắp được (Ví dụ: Chi tiết máy). Như vậy trong đời sống hàng ngày từ “Chi tiết” được hiểu và dùng như là một thành tố, một bộ phận nhỏ của một sự việc, tổng thể. Chi tiết được hiểu như là một thành phần thuộc về cấu tạo. Trong văn học, chi tiết theo định nghĩa của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 1997) là: Các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng và họ gọi chung là chi tiết nghệ thuật. Cũng theo nhóm tác giả này thì: Tuỳ theo sự thể hiện cụ thể, chi tiết nghệ thuật có khả năng thể hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm. Chi tiết nghệ thuật gắn với “quan niệm nghệ thuật” về thế giới con người, với truyền thống văn hoá nghệ thuật nhất định. Chi tiết nghệ thuật là những yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. Sức chinh phục của hình tượng nghệ thuật là ở sự truyền cảm thì góp phần quyết định tạo ra sức truyền cảm hấp dẫn, lôi cuốn người đọc là nhờ chi tiết. Tất nhiên không phải mọi chi tiết trong tác phẩm đều có vai trò, vị trí và giá trị như nhau. Có chi tiết chỉ đóng vai trò vật liệu xây dựng, làm tiền đề cho cốt truyện phát triển thuận lợi và hợp lý, nhưng cũng có không ít chi tiết thể hiện tập trung cho cấu tứ của tác giả Chi tiết nghệ thuật trước hết mang bản chất sáng tạo của người nghệ sĩ, bản chất văn hóa của một cộng đồng. Chúng ta đều thấy chỉ qua một vài con chữ trong Truyện Kiều, như chữ “tót” (Ghế trên ngồi tót sỗ sàng), chữ “cò kè” (Cò kè bớt một thêm hai) mà thi hào Nguyễn Du đã lật tẩy cả một chân dung kẻ con buôn, vô học, thô lỗ của nhân vật Mã Giám Sinh, hay một chữ “lẻn” làm lộ ra một tính cách mờ ám, lén lút, tráo trở… của Sở Khanh, hay hai chữ “mặt sắt” đã gọi ra một chân dung tính cách lạnh lùng, hiểm độc, tàn nhẫn của Hồ Tôn Hiến… Các chữ “tót”, “cò kè”, “mặt sắt” được gọi là những chi tiết đắt giá làm nổi lên hồn cốt nhân vật. Chi tiết hàm chứa nhiều nét nghĩa, nhiều giá trị được gọi là tín hiệu nghệ thuật. Đã gọi là tín hiệu thì luôn mang một mã, để giải mã thì phải nhờ đến cả một chiều sâu văn hóa. Ví dụ để hiểu bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương phải có vốn văn học dân gian nhất định: Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi/ Này của Xuân Hương mới quệt rồi/ Có phải duyên nhau thì thắm lại/ Đừng xanh như lá, bạc như vôi. Để cắt nghĩa được văn bản người đọc buộc phải liên tưởng về câu chuyện cổ Trầu cau, lại phải đặt bài thơ vào quan niệm truyền thống phương Đông trong tình yêu hôn nhân: Cái duyên và màu sắc đỏ… Như vậy nếu dịch bài thơ này sang một ngôn ngữ khác là cực khó, không muốn nói là không thể. Chi tiết gắn với quan niệm nghệ thuật về con người và cuộc sống của nhà văn. Chỉ cần đọc một câu thơ Bố cu lổm ngổm bò trên bụng của “Bà Chúa thơ Nôm” cũng cho thấy cả một cái nhìn coi thường, khinh miệt giới đàn ông trong xã hội phong kiến hà khắc vốn luôn coi phụ 4 nữ chỉ là đồ chơi. Động từ “lổm ngổm” thường để chỉ những con vật loài cua cáy, đặt trong văn cảnh bài thơ nó toát lên một tiếng cười mỉa: Tưởng cái anh đàn ông phải là “Làm trai cho đáng lên trai/ Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài yên”, nhưng thực ra cũng chỉ là thứ cua cáy mà “bò” trên sự vĩ đại của người phụ nữ… Chi tiết này còn cho thấy một sự nổi loạn, sự đối chọi với cả một ý thức hệ hẹp hòi, ích kỷ, phản nhân văn lỗi thời. Hãy nhìn vào những so sánh của bài ca dao sau ta thấy người Việt xưa yêu quý cái đẹp lắm, nhất là cái đẹp thuộc về con người: Cổ tay em trắng như ngà/ Đôi mắt em sắc như là dao cau/ Miệng cười như thể hoa ngâu/ Cái khăn đội đầu như thể hoa sen. Và cái đẹp của người con gái xứ Kinh Bắc trong Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm không chỉ là cái đẹp trần thế mà còn là cái đẹp mang tầm vĩnh cửu của tạo hóa tỏa ánh sáng và sự sống xuống cõi trần gian: Những cô hàng xén răng đen/ Cười như mùa thu tỏa nắng. Chi tiết đóng vai trò làm tiền đề cho sự phát triển của cốt truyện. Hẳn chúng ta không ai quên cái hình dáng “ngật ngưỡng” của nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao: “Hắn vừa đi vừa chửi, bao giờ cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời…”. Đây là chi tiết mở đầu tác phẩm, ngoài sự khơi gợi hấp dẫn lôi kéo bạn đọc, nó vừa có tác dụng gián tiếp giới thiệu thân thế, tiểu sử nhân vật vừa có chức năng mở ra một trường không - thời gian trong quá khứ rồi tiếp đến thì tương lai trong cuộc đời ngắn ngủi của Chí Phèo. Dưới góc độ xã hội học, cũng chi tiết này còn mở ra một ý nghĩa về thân phận con người trong xã hội cũ. Bản chất của xã hội là giao tiếp. Không có giao tiếp thì không có xã hội, mà xét đến cùng chửi nhau cũng là một cách giao tiếp, có điều là giao tiếp trong thế đối lập. Kênh giao tiếp sẽ bị đóng băng hoàn toàn khi cả hai bên không thèm để sức, có hơi và nhiệt tình để mà chửi nhau nữa. Thế cho nên khi Chí chửi cả làng Vũ Đại tức là Chí khát khao được giao tiếp với mọi người. Cả làng Vũ Đại không ai thèm “ra nhời” với Chí vì Chí không còn xứng đáng là người để họ chửi. Tức là dân làng Vũ Đại đã coi Chí ở một thế giới khác, thế giới của thân phận loài vật, có lẽ chính xác hơn là thân phận loài chó, mà bằng chứng là có chi tiết: “Thành thử chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu…”. Giả sử Chí Phèo không có chi tiết “bát cháo hành” thì truyện sẽ rất bình thường, nhưng nhờ có nó mà cốt truyện như đào sâu thêm vào cái bi kịch không được làm người của một kẻ khát khao lương thiện, nhờ đó ý nghĩa truyện nâng thêm một tầm cao. Chi tiết thể hiện tập trung cho cấu tứ. Trường hợp này thường để nhà thơ cấu trúc tác phẩm và người bình thơ nương theo đó mà tìm ra tứ thơ. Xin ví dụ bằng bài thơ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng) của đại thi sĩ Lý Bạch: Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu Cô phàm viễn ảnh bích không tận Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu (Bạn từ lầu Hạc lên đường Giữa mùa hoa khói, Châu Dương xuôi dòng. Bóng buồm đã khuất bầu không Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời -Bản dịch của Ngô Tất Tố) Hai câu đầu nói tới người đi (Mạnh Hạo Nhiên) với không gian chia ly: Tại lầu Hoàng Hạc, thời gian chia ly: Giữa mùa hoa khói. Nơi đến: Dương Châu. Như vậy Lý Bạch không tiễn bạn nơi quê nhà mà ở nơi đất khách: Lầu Hạc - một địa danh gắn liền với truyền thuyết vị tiên cưỡi hạc vàng bay đi. Dương Châu thời điểm bấy giờ là một thành phố nổi tiếng sầm uất 5 nhất vùng Giang Nam mà Lý Bạch đã từng đến. Thế cho nên đằng sau những chi tiết địa danh này còn ẩn một lý do nào đó mà Lý Bạch không thể đi cùng bạn. Điều này cắt nghĩa hai câu sau với những chi tiết đặc sắc càng làm cho tứ thơ tiễn bạn thật nặng tình, chất chứa tâm trạng. Tình lồng trong cảnh: Chiếc buồm cô đơn cũng là người bạn cô đơn đang xa dần rồi mất hút vào màu xanh vô tận của sông nước bao la. Thuyền đi đã khuất bóng mà người đưa tiễn vẫn còn đứng trên lầu cao để trông theo. Chi tiết cô phàm (cánh buồm cô đơn) cho thấy nhà thơ không chỉ nhìn theo bằng mắt mà còn nhìn bằng cả tấm lòng. Như vậy trong phép làm văn, sự dụng công hướng vào việc tìm ra chi tiết. Chi tiết càng có sức biểu hiện càng góp phần nâng cao giá trị tác phẩm. Không bao giờ có một tác phẩm hay mà chi tiết lại nhạt nhẽo, nông cạn, thiếu sức sống. 1.2. Khai thác chi tiết trong truyện ngắn tự sự Chi tiết phong phú và đa dạng như thế khi phân tích tác phẩm văn học, tác phẩm tự sự, đặc biệt là truyện ngắn chúng ta cần phải cân nhắc cẩn thận trong việc lựa chọn chi tiết phù hợp. Trong bài viết này tôi quan tâm hơn về truyện ngắn vì kì thực trong chương trình Ngữ văn 12, các tác phẩm tự sự chủ yếu thuộc thể loại truyện ngắn. Và ở một phạm vi nhất định truyện ngắn có những điểm khác với các thể loại tự sự khác, nhất là tiểu thuyết. Thế nhưng, trong quá trình lựa chọn chi tiết để phân tích truyện ngắn nhiều người viết đã cho rằng các chi tiết tự sự (các tình tiết) là những bộ phận thuộc về kết cấu cốt truyện, thể hiện diễn biến của cốt truyện nên đã không chú ý. Chúng ta đều biết truyện ngắn khác với tiểu thuyết không chỉ vì số lượng trang, chữ, dài ngắn mà còn chính là khác về nội dung, kết cấu cốt truyện. Tiểu thuyết (truyện dài) vừa dài và dày về số trang, số chữ mà còn miêu tả cuộc sống đầy đủ về không gian và thời gian (dung lượng). Tiểu thuyết phản ánh hiện thực cuộc sống theo một thời gian dài, xẩy ra ở nhiều nơi khác nhau với nhiều nhân vật, thể hiện nhiều vấn đề. Vì vậy cốt truyện cũng phức tạp, đan chéo, quyện lẫn vào nhau. Do đó, khi phân tích tiểu thuyết nhà nghiên cứu không thể nêu hết và phân tích hết được các chi tiết biểu hiện của tác phẩm. Ngược lại truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, diễn tả một cái khoảnh khắc, chốc lát của cuộc sống vì vậy chi tiết phải cô đúc, ngôn ngữ mang nhiều ẩn ý, tạo ra cho tác phẩm những chiều sâu về nội dung và nghệ thuật cần phải tìm hiểu. Nhiều nhà văn đã có những phát biểu cụ thể về truyện ngắn như nhà văn Vũ Thị Thường: “Viết truyện dài như làm một căn nhà đồ sộ, còn bắt tay viết truyện ngắn là nhận lấy việc chạm trổ một cái khay, một tấm tranh khắc gỗ. Ở truyện dài có thể có những chương “độn” nhưng ở truyện ngắn chỉ cần viết một nữa trang lỏng lẻo là truyện đổ liền. Những chi tiết hay đến mấy đi chăng nữa mà không phục vụ chủ đề, thì cũng trở nên vô ích” (Kinh nghiệm viết truyện ngắn - Vương Trí Nhàn - NXB Tác phẩm mới). Hoặc như ý kiến của cố nhà văn Nguyễn Công Hoan: “Truyện ngắn và truyện dài phải khác nhau ở tính chất. Truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ và bằng thái độ với cách đặt câu dùng tiếng có cân nhắc. Muốn truyện là truyện ngắn, chỉ nên lấy một ý chính làm chủ đề cho truyện. Những chi tiết trong truyện chỉ nên xoay quanh chủ đề ấy. Không có chi tiết thừa, rườm rà, miên man. Mỗi truyện cần có một ý, một ý thôi. Ý ấy là ý chính của chuyện nhưng thật ra đó là ý định của tác giả ... làm nổi được ý ấy cho độc giả hiểu thì truyện sẽ hay” (Kinh nghiệm viết truyện ngắn - Vương Trí Nhàn - NXB Tác phẩm mới). Một số nhà văn như Tô Hoài, Bùi Hiển, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Nguyễn Quang Sáng, Đỗ Chu, Ma Văn Kháng v.v.. cũng đã có rất nhiều ý kiến xoay quanh đặc điểm về chuyện “bếp núc” của truyện ngắn. Nói chung theo ý họ có thể có nhiều tác phẩm viết chưa hay, nhưng truyện ngắn phải khác truyện dài, khác tiểu thuyết. Có thể lấy thêm một ý 6 kiến nữa của nhà văn Ma Văn Kháng: “Theo tôi hiểu, một tác phẩm dưới mười ngàn chữ không nên ngổn ngang quá. Tôi thích những truyện tình, trọn vẹn ... Như người ta vẫn nói:toàn truyện phải là một cái vòng khép kín, không dài quá, không ngắn quá, không xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào. Khi đã vào truyện cái xà tích của một cô gái hay một chút ánh trăng thượng tuần cũng phải có ý nghĩa, cái nọ nương tựa cái kia, chi tiết này soi rọi cho chi tiết khác” (Kinh nghiệm viết truyện ngắn - Vương Trí Nhàn - NXB Tác phẩm mới) Nhiều nhà văn khác cũng đã có những nhận định tương tự như vậy. Nói chung, tất cả mọi người đều cho rằng truyện ngắn là một khối thống nhất, hoàn chỉnh, chặt chẽ từ nội dung, tư tưởng chủ đề đến hình thức diễn đạt, ở truyện ngắn không có một cái gì là thừa. Vì vậy, viết truyện ngắn là một điều vô cùng khó khăn. Nhà văn Nguyễn Ngọc đã từng so sánh việc viết truyện kí “Đất nước đứng lên” và truyện ngắn “ Rừng xà nu” của ông, ông tâm sự “Trước hết tôi nghĩ có lẽ ở thời “Đất nước đứng lên”, chắc tôi sẽ không thể viết được, viết nổi “Rừng xà nu”. Riêng tôi cảm thấy điều đó rất rõ”. (Nguyên Ngọc - Về một truyện ngắn - Rừng xà nu- Trích trong Để dạy tốt Văn học Việt Nam lớp 12 - NXB Giáo dục 1996) và ông đã giải thích lý do vì sao: Truyện ngắn tuy ngắn nhưng nhiều chi tiết, người viết phải biết rất nhiều, rất dài, phải có vốn sống, biết cách chọn tình huống, cách xử lý bố cục, cách dựng truyện, dựng người, cách nói, giọng nói, lời kể, lời văn v.v...Những khả năng đó thì thời viết “Đất nước đứng lên” ông chưa đủ độ chín. Như vậy, khác với truyện dài, truyện ngắn tuy nhỏ bé hơn nhiều về số lượng trang, chữ, về đối tượng phản ánh (cái chốc lát, cái khoảnh khắc của cuộc sống, một ý tưởng v.v...) nhưng lại đòi hỏi, yêu cầu rất cao về nghệ thuật diễn đạt. Ở truyện ngắn dĩ nhiên là truyện ngắn hay không có những yếu tố thừa. Cho nên khi phân tích truyện ngắn, chúng ta cần phải lựa chọn các chi tiết biểu hiện, là những chi tiết tiêu biểu quan trong để thể hiện đúng và đầy đủ giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm. Bỏ qua hoặc quên đi một số chi tiết dù chỉ nhỏ bé nhưng lại có ý nghĩa quan trọng và sẽ làm hạn chế giá trị biểu hiện của tác phẩm. 1.3 Đặc điểm và vai trò của chi tiết trong tác phẩm tự sự. 1. 3. 1 Tính tạo hình của chi tiết nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật cụ thể, gợi cảm, sống động nhờ các chi tiết về môi trường, phong cảnh chân dung, nội thất, cử chỉ, phản ứng nội tâm, hành vi lời nói.Trong tác phẩm tự sự chi tiết có khả năng gợi ra hình ảnh về sự vật, cảnh vật, con người… đặc biệt là vai trò khắc hoạ tính cách nhân vật. Nhà văn sử dụng rất nhiều chi tiết- những nét cụ thể để miêu tả ngoại hình, nội tâm, hành động của nhân vật, cũng như cảnh vật, sự kiện có liên quan đến nhân vật đó. Đan dệt hàng loạt các chi tiết với nhau mới có được một bức tranh bằng ngôn ngữ có thể tạo nên một ấn tượng tương đối xác định về nhân vật. Ví dụ:- Chi tiết đồ vật tàn trong “Hai đứa trẻ”- Thạch Lam hiện ra chân thực với chiếc chõng tre, cửa hàng tạp hoá “nhỏ xíu”, gánh hàng nước của mẹ con chị Tí, manh chiếu rách, chiếc thau sắt rúm ró, cây đàn bầu cũ kĩ…góp phần làm nên bức tranh phố huyện nghèo nàn héo hắt tiêu điều mà trong đó cuộc sống của con người cứ lay lắt héo mòn từng ngày. - Trong truyện ngắn “Chí Phèo”-Nam Cao, nhân vật Chí được hiện ra sinh động với các chi tiết về ngoại hình ngôn ngữ và nội tâm. +Sự tha hoá của Chi được khắc hoạ bằng những chi tiết về ngoại hình và ngôn ngữ, hành động của nhân vật. +Sự thức tỉnh với chi tiết miêu tả nội tâm của Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở. Không chỉ gợi ra hình ảnh về sự vật, khắc hoạ tính cách nhân vật mà chi tiết nghệ thuật còn có vai trò cá biệt hoá nhân vật. Nhờ những chi tiết đắt giá sắc nét được tạo nên bởi tài 7 năng của nhà văn mà các nhân vật văn học trở thành những gương mặt “quen mà lạ”, “con người này” không hề trộn lẫn mặc dù xuất hiện giữa đám đông cùng loại. Đều là những người nông dân nhưng Chí Phèo khác hẳn với Tràng. Bá Kiến cũng rất khác với Nghị Quế mặc dù đều là điển hình cho bọn cường hào ác bá. 1.3.2- Chi tiết gắn với quan niệm nghệ thuật về con người. Trong truyện cổ tích nhân vật được xây dựng theo kiểu chức năng theo hai tuyến thiện ác. Nhân vật không có tâm lí chỉ có chi tiết hành động thực hiện hai chức năng đó. Tấm với chi tiết diễn tả sự hoá thân liên tiếp( chim vàng anh, khung cửi, cây xoan đào, quả thị ) thể hiện sức sống dẻo dai mãnh liệt của cái thiện. Kết lại tác phẩm với hành động Tấm dội nước sôi vào Cám là sự trừng phạt đích đáng của cái thiện với cái ác qua đó thể hiện mơ ước của nhân dân về sự chiến thắng của cái thiện trong cuộc đấu tranh giành và giữ hạnh phúc. Con người văn học trung đại được quan niệm như con người siêu cá thể. Tư tưởng và hành động cũng như cách ứng xử của con người đều theo khuôn mẫu, quy ước chung bởi bị chi phối của thi pháp nặng về tính qui phạm , ước lệ và tính phi ngã. Con người được đặt trong những mối quan hệ cơ bản( tam cương), những đức tính chủ yếu trong hệ thống đạo đức của nho giáo ( ngũ thường) chi phối đời sống tình cảm của con người. Khi nội tâm có sự giống nhau thì không có bí ẩn để khám phá. Do vậy lựa chọn những chi tiết thể hiện tâm lí chủ yếu bằng những chi tiết ngoại hiện như ngôn ngữ, hành động. Điều đó lí giải vì sao Kiều cứ nhất định phải bằng hành động bán mình chuộc cha mới là có hiếu. Nhân vật Vũ Nương với những chi tiết hành động và ngôn ngữ thể hiện vẻ đẹp “công dung ngôn hạnh” của người phụ nữ trung đại. Nhân vật Tử Văn khẳng khái nóng nảy, thấy chuyện bất bằng không tha cũng được khắc hoạ với các chi tiết hành động và ngôn ngữ. Đặc biệt là chi tiết Tử Văn đốt đền tà của viên Bách hộ họ Thôi. Văn học hiện đại những năm 1930-1945: ở mỗi nhà văn có sự thức tỉnh về ý thức cá nhân, họ đã đi vào khám phá đời sống cá nhân mỗi con người, trong đó mỗi cá nhân là một tiểu vũ trụ chứa đầy bí mật có cử chỉ, ngôn ngữ, đời sống nội tâm riêng. Nam Cao thuộc lớp nhà văn ấy, ông đã hướng ngòi bút vào khai thác thế giới nội tâm- chỗ tinh vi huyến diệu nhất của con người…Nam Cao đã miêu tả tâm lí nhân vật bằng rất nhiều thủ pháp với những chi tiết vô cùng đặc sắc. Những trang văn miêu tả sự thức tỉnh khát khao lương thiện của Chí Phèo được xem là thành công nhất kết tinh cho biệt tài phân tích tâm lí đạt đến trình độ bậc thày ở Nam Cao là nhờ những chi tiết khơi sâu vào nội tâm nhân vật. Văn học giai đoạn 1945-1954: với quan niệm con người riêng –chung, con người nhỏ bé bất hạnh trong xã hội cũ được đổi đời trong xã hội mới. Hạnh phúc của họ tìm thấy trong hạnh phúc chung của dân tộc. Xuất phát từ quan niệm này nên số phận của nhân vật có khác so với nhân vật trong văn xuôi hiện thực phê phán 1930-1945 là do cách lựa chọn chi tiết kết thúc khác nhau. Kết thúc của Chí Phèo là bi kịch với chi tiết cái lò gạch cũ, còn Tràng trong “Vợ nhặt” chắc chắn sẽ có một tương lai tươi sáng được kết chi tiết lá cờ đỏ sao vàng bay trong gió. Văn học kháng chiến 1945-1975: với quan niệm con người mang tính sử thi, tạc dáng đứng hào hùng vào lịch sử do vậy việc lựa chọn chi tiết để xây dựng nhân vật cũng khác, nhà văn chọn những chi tiết để lí tưởng hoá nhân vật, nhân vật toả ánh hào quang, họ đẹp ở mọi phương diện trong chiến đấu và trong cả đời thường.Trong truyện “Rừng xà nu”, Tnú là một nhân vật anh hùng toàn diện. Tnú anh hùng từ nhỏ, lớn lên trở thành người chiến sĩ cách mạng kiên trung và còn là người chồng người cha giàu yêu thương. Việt, Chiến ở “Những 8 đứa con trong gia đình” cũng đẹp ở mọi phương diện và nhà văn cũng đã lựa chọn những chi tiết tiêu biểu để khắc hoạ vẻ đẹp lí tưởng ấy. Văn xuôi sau 1975 vận động đổi mới theo hướng dân chủ hoá và trên tinh thần nhân bản sâu sắc, văn học hướng tới hiện thực đa chiều, con người đa diện. Mọi mặt của đời sống con người được văn học quan tâm phản ánh: con người cá nhân, đời thường, con người với cả hạnh phúc và bi kịch, con người phi lí tưởng, nhân loại, tự nhiên bản năng…Do vậy việc lựa chọn chi tiết để khắc hoạ nhân vật cũng khác với văn học giai đoạn trước. Số phận của Mị trong “Vợ chồng A Phủ” có khác với người đàn bà hàng chài trong “Chiếc thuyền thuyền ngoài xa” bởi do xuất phát từ quan niệm nghệ thuật về con người có khác nhau nên cách chọn chi tiết kết thúc truyện cũng khác nhau. Mị được đổi đời trong xã hội mới với chi tiết Mị giải thoát cho APhủ và chạy theo APhủ tới Phiềng Sa và hai người được tham gia vào đội quân giải phóng quê hương. Người đàn bà hàng chài cuối cùng vẫn phải cam chịu chấp nhận số phận không dám rời bỏ người chồng vũ phu, chấp nhận cảnh đòn roi như cơm bữa “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” và con thuyền gia đình chị vẫn đang chao đảo trong con bão cấp 11. Gắn với quan niệm nghệ thuật về con người do vậy chi tiết nghệ thuật có vai trò quan trọng làm nên diện mạo nhân vật văn học của từng thời . Khi phân tích nhân vật cần phải đặt nó trong típ người của từng thời kì văn học và cần phải lựa chọn những chi tiết nghệ thuật tiêu biểu để thẩm bình, làm nổi bật đặc điểm của nhân vật. 1.3.3. Với bản chất sáng tạo, chi tiết có vai trò biểu lộ tư tưởng, chủ đề tác phẩm. Chi tiết nghệ thuật trong văn xuôi không chỉ có trị tạo hình mà nó còn có một đặc điểm vô cùng quan trọng nữa, đó là bản chất sáng tạo, khái quát, biểu hiện của nó, khả năng nói nhiều bản thân nó. Tuỳ theo sự thể hiện cụ thể, chi tiết nghệ thuật trở thành tiêu điểm, hội tụ tư tưởng của tác giả trong tác phẩm. Tuy ngắn gọn cô đúc, nhưng chi tiết nghệ thuật lại chứa đựng một chiều sâu ý nghĩa khôn cùng mà dường như ta khơi mãi cũng không thấy đáy “chi tiết nghệ thuật như một giọt nước mà qua đo ta thấy được cả đại dương”. Chi tiết nhỏ nhưng lại làm nên nhà văn lớn. Với bản chất sáng tạo chi tiết nghệ thuật có vai trò không nhỏ làm nên tiếng nói nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Chi tiết được tạo thành phải qua quá trình thai nghén của nhà văn. Để làm nên một chi tiết nhỏ đòi hỏi nhà văn phải có sự thăng hoa về cảm xúc và tài năng nghệ thuật chân chính. Chi tiết là điểm sáng nhất trong tác phẩm tự sự, nó giúp nhà văn thể hiện ý đồ nghệ thuật mà mình muốn biểu đạt, giúp bạn đọc thoả mãn sự khám phá mong muốn khám phá tận cùng ý nghĩa tác phẩm và nó cũng biểu hiện được phần hồn của tác phẩm, tạo nên những tầng sâu khai phá mãi mà không đến đáy. Nhưng muốn tạo được chiều sâu khôn cùng của tác phẩm tự sự, tức là “phần chìm”, ý nghĩa biểu chưng, nhà văn không chỉ biết tạo ra những chi tiết đắc địa mà còn phải có biệt tài trong lựa chọn giữa dòng đời xuôi ngược một khoảnh khắc thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa và nhiều áp lực buộc con người phải bộc lộ phần sâu kín nhất của tâm hồn mình. Chi tiết cô đúc ngắn gọn nhưng lại chứa đựng tầng sâu khôn cùng mà dường như khơi mãi cũng không hết ý nghĩa. Nghệ thuật là lĩnh vực đặc thù, tầm vóc của người nghệ sĩ có thể làm nên từ những điều nhỏ nhất. Nhà văn có khả năng sáng tạo ra những chi tiết nhỏ có giá trị góp phần đắc lực trong việc thể hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm. Do vậy để tạo nên những chi tiết đắc địa đòi hỏi nhà văn phải có đủ ba yếu tố: tài, tâm và tầm. Một chi tiết hay không phải chỉ hay ở xác chữ mà là cái “đẹp” trong hồn văn. Đó phải là sự trăn trở không ngừng của nhà văn trước cuộc đời, là sự thăng hoa trong cảm xúc đến cao và là sự dung nạp của một ngòi bút tài hoa. 9 Chi tiết có vai trò quan trọng đúng như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nói: “ở truyện ngắn, mỗi chi tiết có vị trí quan trọng như một chữ trong bài thơ tứ tuyệt, trong đó có những chi tiết đóng vai trò đặc biệt như những nhãn tự trong thơ vậy”. Với một tác phẩm văn xuôi tự sự, chi tiết có vai trò biểu lộ tư tưởng, chủ đề tác phẩm, tạo chiều sâu ý nghĩa khôn cùng. Với bạn đọc, chi tiết làm khơi dậy bản năng khám phá ở tầm khái quát hơn, giúp bạn đọc hiểu đúng và hay hơn về tác phẩm. Nhưng có lẽ vai trò lớn nhất của chi tiết nghệ thuật chính là việc thể hiện tài –tâm của tác giả. Chi tiết chỉ thể hiện tư tưởng mà còn in dấu ấn cá tính sáng tạo của nhà văn, bởi chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn. Không chỉ thế chi tiết còn giúp nhà văn khẳng định cái tầm của mình. Xây dựng chi tiết nhỏ không phải là điều dễ dàng, để chi tiết tồn tại theo thời gian còn là điều rất khó. Chắc chắn phải dụng công dụng tâm lắm nhà văn mới làm nên một đứa con tinh thần trường cửu với thời gian. Chi tiết nhỏ nhưng lại làm nên nhà văn lớn là vì thế. Chi tiết nghệ thuật góp phần làm nên phong cách nhà văn, in đậm dấu ấn tài năng sáng tạo của người nghệ sĩ. + Chi tiết bát cháo hành, giọt nước mắt… trong “Chí Phèo” là những chi tiết đắt giá làm nên tiếng nói nhân đạo sâu sắc trong sáng tác của Nam Cao khẳng định chính tình người đã cứu được tính người. + Chi tiết Phán mọc sừng màn hạ huyệt cứ oặt người đi mà khóc, khóc mãi không thôi“ Hứt!…Hứt !...Hứt!..” trong khi đó hắn lén dúi tờ giấy bạc năm đồng gấp tư vào tay Xuân như sự thanh toán sòng phằng cho cuộc doanh thương. Với chi tiết này Phán quả là một diễn viên siêu hạng qua đó tác giả đã bóc trần bản chất giả dối cao độ của xã hội thượng lưu tư sản đương thời. + Bát bánh đúc trong “Vợ nhặt” cũng là một chi tiết đặc sắc qua đó thấy được số phận thảm thương tội nghiệp của người được ăn-thị vợ nhặt và vẻ đẹp của tình người hào hiệp ở người cho ăn đó là Tràng. Chi tiết nhỏ nhưng lại có vai trò lớn để soi sáng chủ đề của tác phẩm: phản ánh số phận thảm thương tội nghiệp của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, đồng thời còn làm sáng lên vẻ đẹp trong tâm hồn của người lao động trước Cách mạng. Và nếu đem so sánh với bát cháo hành trong “Chí Phèo” thì bát bánh đúc cũng là chi tiết thể hiện tiếng nói nghệ thuật độc đáo của Kim Lân khi viết về người nông dân. 1.3.4. Chi tiết đóng vai trò làm tiền đề cho sự phát triển của cốt truyện. Mọi chi tiết trong tác phẩm tự sự không phải đều có vai trò, vị trí và giá trị như nhau. Có chi tiết đóng vai trò vật liệu xây dựng, làm tiền đề cho cốt truyện phát triển thuận lơi và hợp lí. Vì vậy khi phân tích tìm hiểu tác phẩm văn học, ta không thể không chú ý đến các chi tiết đó. Chi tiết bát cháo hành trong “Chí Phèo” có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy cốt truyện, nếu không có liều thuốc giải độc ấy Chí Phèo chưa chắc đã tỉnh để rồi có diễn biến câu chuyện như nó đã diễn ra trong tác phẩm. Và cũng chính nhờ chi tiết này mà bi kịch đau đớn khi bị cự tuyệt quyền làm người của một kẻ khát khao cháy bỏng lương được khơi sâu hơn, nhờ đó ý nghĩa truyện được nâng thêm một tầng cao mới. Chi tiết Mị cắt dây trói giải thoát cho A Phủ, rồi cùng APhủ trốn khỏi Hồng Ngài là những chi tiết có vai trò lớn trong việc thúc đẩy của cốt truyện. Nếu Mị không chạy theo APhủ chắc chắn Mị phải chết và như vậy câu chuyện sẽ không có phần sau. Điều này đồng nghĩa với ý đồ tư tưởng là ca ngợi công lao trời biển của Đảng mà Tô Hoài muốn giử gắm vào tác phẩm sẽ không thành. Như vậy chi tiết có vai trò quan träng cho sự phát triển của cốt truyện. 2. Thực trạng vấn đề: Khai thác chi tiết qua một số truyện ngắn tự sự trong chương trình Ngữ văn 12 10 Truyện ngắn nói riêng cũng như Văn học Việt Nam nói chung từ sau cách mạng tháng Tám - 1945 đến nay đã có sự thay đổi, phát triển hơn truyện ngắn trước 1945 về cả hình thức lẫn nội dung. Những tác phẩm được tuyển chọn để dạy ở chương trình Ngữ văn 12 có thể coi là tiêu biểu cho truyện ngắn, thể hiện đầy đủ các đặc điểm của truyện ngắn đã nói ở trên. Đó là những truyện như: Vợ nhặt (Kim Lân), Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi) và Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu). Mỗi tác phẩm đã phản ánh hiện thực cuộc sống, đặt ra những vấn đề của từng giai đoạn một cách sâu sắc bằng những hình thức nghệ thuật đặc sắc. Chính vì vậy, nên khi phân tích những truyện ngắn này để giảng dạy và phục vụ cho việc dạy và học của thầy và trò, các giáo viên, cán bộ giảng dạy cũng như các nhà nghiên cứu v.v... đã hết sức cố gắng để làm rõ được giá trị độc đáo, cái hay cái đẹp của chúng, giúp cho học sinh nhất là các em học sinh khá giỏi, cảm thụ hết vẻ đẹp của văn học. 2.1. Truyện “Vợ nhặt” (Kim Lân): 2.1.1. Các chi tiết tình huống truyện Bước một, cho học sinh xác định tình huống, gọi tên tình huống của truyện. (Đó là tình huống nhặt được vợ, lại nhặt nơi đầu đường xó chợ. Đây là một tình huống lạ, một tình huống có vấn đề). Bước hai cho học sinh tìm hiểu các chi tiết quan trọng tạo nên tình huống trên. Bước này học sinh chỉ cần căn cứ vào sách giáo khoa để tìm hiểu. Có thể chỉ ra những cụm từ, những câu, những đoạn cụ thể, hoặc có thể trả lời một cách khái quát nội dung chi tiết của vấn đề (Tên nhân vật chính (Tràng), bối cảnh trước khi Tràng nhặt vợ, câu hò của Tràng, thái độ của người đàn bà nhặt thóc rụng, bốn bát bánh đúc, cái nhíu mày của người vợ nhặt,…). Bước ba học sinh căn cứ vào các chi tiết đã tìm để đi sâu vào phân ý nghĩa và giá trị của các chi tiết ấy. Chẳng hạn như tên gọi của nhân vật (Tràng), đã gợi lên một loại dụng cụ dùng trong nghề mộc, nó nói lên sự vất vả cơ cực của một kiếp người (em gái của Tràng có tên là đục), như vậy tên gọi của nhân vật là theo ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Hoặc như bối cảnh của truyện: những dòng người “đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người…”. Đây quả là một khung cảnh thê lương, một không khí của đám ma, một không gian đầy mùi tử khí… Truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân đã xây dựng được một tình huống vô cùng độc đáo để thể hiện ý tưởng: Một nông dân nghèo rớt mồng tơi, tưởng chừng không bao giờ có vợ lại được có vợ bằng cách “nhặt”, mà chỉ cần bốn bát bánh đúc. Tuy nhiên nhà văn không chỉ dừng ở đó. Thông qua tình huống khác thường độc đáo này, Kim Lân “đã thể hiện một tình cảm nhân hậu với những người cùng khổ”, ý nghĩa của truyện: trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khó nào, người nông dân vẫn khát khao vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm, để mà vui, để mà hy vọng. 2.1.2. Các chi tiết về nhân vật Tương tự như trên, tôi cho học sinh tìm hiểu theo các bước: xác định và gọi tên nhân vật, tìm các chi tiết quan trọng biểu hiện nổi bật nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuât của vấn đề rồi đi sâu vào phân tích các chi tiết đó. Chẳng hạn về nhân vật Tràng, từ chi tiết ngoại hình (thô nháp, vập vạp), đến tính cách chậm chạp (tư duy bằng miệng) rồi hoàn cảnh éo le: dân ngụ cư, cha chết sớm, nhà nghèo (chỉ có một túp lều dúm dó mọc trên một mảnh đất lổn nhổn những cỏ), mẹ già cả… đều tập trung nhấn mạnh đến khả năng rất khó lấy vợ của Tràng. Việc anh có vợ nhà văn miêu tả bằng một loạt chi tiết hết sức tình tế. Hạnh phúc đến thật bất ngờ tưởng không bao giờ có được ở một thân phận thấp hèn xấu xí, cho nên Tràng từ ngỡ ngàng thành niềm vui cụ thể, Tràng cảm nhận và tận hưởng “Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng 11 thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn mang khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”. Vì vậy đến khi đã về đến nhà, đã có thị ở nhà rồi, mà “Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà rồi, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư”. Chi tiết Tràng đi ra đi vào phấp phỏng, sốt ruột chờ mẹ về và cái thở phào “ngực nhẹ hẳn đi” là chi tiết thể hiện sự quan sát và trải nghiệm sâu sắc của nhà văn. Rồi chi tiêt sáng hôm sau (của đêm tân hôn) thức dậy, Tràng vẫn còn cảm thấy: “Trong người êm ái lửng lờ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay vẫn còn ngỡ ngàng như không phải” .Tiếp theo là những cảm nhận về cuộc sống đầu tiên khi đã có gia đình: “Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái và bổng vừa chợt nhận ra xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ”. Đọc đến đây, ta có liên hệ đến hình ảnh Chí Phèo nhận ra sau những cơn say dài triền miên. Ở đây Kim Lân rất tài tình trong việc miêu tả tâm lý, tả những tâm trạng phức tạp ở nhân vật của mình. Tràng đã có sự thay đổi thật sự với những cảm nhận về trách nhiệm và tình cảm đối với gia đình, với cái nhà của mình. Tuy nhiên để hiểu được sâu sắc vấn đề, nên hướng dẫn học sinh đi sâu vào tìm hiểu thêm một số chi tiết khác trong tác phẩm. Như chi tiết đã bị tóm lược trong chương trình Tràng mua hai hào bạc dầu để thắp trong đêm tân hôn với một ý nghĩ rất hồn nhiên: Vợ mới, vợ miếc cũng phải sáng sủa một tí chứ. Rõ ràng người đàn ông khốn khổ và cơ cực ấy đã rất chi chút đến hạnh phúc của mình. Song có lẽ, chi tiết đắt nhất để tả sự thay đổi đó chính là việc: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà” Tác giả Nguyễn Quang Trung trong “Phân tích - Bình giảng tác phẩm văn học 12” (NXB Giáo dục - 1999) đã chọn chi tiết này và bình: “So với cái dáng” ngật ngưỡng” mở đầu tác phẩm, hành động “ xăm xăm” này của Tràng là một đột biến quan trọng, một một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: Từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Chẳng thế mà Kim Lân đã thấy đủ điều kiện đặt vào dòng suy nghĩ của một Tràng ý thức bổn phận sâu sắc: “Bây giờ hắn mới thấy nên người, hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này” Tràng đã thật sự “Phục sinh tâm hồn” đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc. Cô Kiều xưa: “ xăm xăm băng lối vườn khuya vường mình” thì táo bạo đấy mà vẫn cú chênh vênh, đơn độc thế nào. Cái xăm xăm của Tràng mới thực khỏe, tự tin như vậy”. Đúng là ở Tràng đã có sự chuyển biến, thay đổi lớn lao, là bước ngoặt quan trọng trong đời anh. Khác với sự đổi thay theo chiều hướng đi lên, thẳng đứng của Tràng, ở nhân vật bà cụ Tứ, tâm lý được miêu tả diễn biến phức tạp, theo hai bước: lúc mới gặp nàng dâu mới và sáng hôm tân hôn. Ở mỗi bước, nhà văn đã khéo léo lựa chọn nhiều chi tiết có ý nghĩa để miêu tả nhân vật nhất là tâm lý nhân vật, rối rắm đó: ngạc nhiên có, sững sờ có, vui mừng có, buồn tủi có, lo lắng có, tin tưởng có. Diễn biến tâm trạng của nhân vật có vẻ như nếp gấp như thế, nhưng điểm sáng ở bà cụ Tứ như có người đã nhận xét: Truyện gồm ba nhân vật, lại xuất hiện muộn mằn nhất và là một bà lão “gần đất xa trời” nhưng thật kỳ lạ, chính bà lão chứ không phải ai khác đã thắp sáng sự tin tưởng, niềm hy vọng cho người khác. Có thể thấy rõ điều đó qua một số chi tiết như: Khi Tràng đánh diêm đốt đèn, thắp sáng, bà cụ Tứ dã nói: “Có đèn ấy à ? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa ...” Một chút sáng nhỏ bé lần đầu xuất hiện trên cái tối tăm của cuộc sống nhưng nó là khát khao, ước mong cháy bỏng của bà. Chính vì vậy, trong đêm tâm hôn và sáng hôm sau bà đã nói với con và dâu bằng những lời lẽ tràn đầy niềm tin hy vọng: “Biết thế nào hả con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Có ra thì con cái chúng mình về sau” hay bàn chuyện sửa sang nhà cửa, chăn nuôi… Câu nói “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà” nghe có vẻ phấn khởi mà sao vẫn thấy thật tội nghiệp, người đọc dễ liên tưởng đến bài ca dao than thân “Mười quả trứng” của ông cha ta: “Tháng giêng, tháng hai/ Tháng ba, tháng bốn/ Tháng khốn tháng nạn/ Đi vay đi dạm/ Được một quan tiền/ 12 Ra chợ Cửa Diên/ Mua một con gà mái về nuôi”. Rồi chi tiết nồi “chè khoán” (mà thực chất là cháo cám) với nhận xét “Ngon đáo để” của bà chính là niềm tin về hạnh phúc cuộc sống. Cùng với những chi tiết miêu tả nhân vật, truyện ngắn “Vợ nhặt” còn có nhièu chi tiết về kết cấu, cốt truyện rất đặc sắc. Nhờ đó mà ý nghĩa của chủ đề của tác phẩm càng trở nên sâu sắc hơn. Đó là tiếng hờ khóc tỉ tê “của những nhà có người chết đói, tiếng trống thu thuế đầu đình, và cảm giác đắng chát và nghẹn bứ của Tràng khi ăn bát chè cám của mẹ vừa múc cho” . Ba chi tiết khác nhau nhưng cùng chung một ý nghĩa: hạnh phúc đang bị đe dọa. Niềm vui của bà cụ Tứ và hạnh phúc của Tràng đang phải đối mặt với một thực tế: nạn đói khủng khiếp đang hoành hành khắp nơi, sinh mạng người lúc này có thể bị mất đi rất dễ dàng. Trong ba chi tiết, có lẽ tiếng trống ngoài đình là đắt nhất. vì sao ? Chúng ta hãy đọc lại chi tiết mà Kim Lân đã miêu tả : “Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám vẩn trên nền trời như những đám mây đen”. Cách giải thích như tác giả trong “Tuyển tập các bài giảng văn học lớp 12” (NXB TP Hồ Chí Minh - 1992) ý là “Về phương diện biểu tượng, đàn quạ ấy che đen cả bầu trời như những đám mây đen làm cho ta nhận thức được cảnh sống bế tắc, tối tăm, chết chóc tưởng chừng như đang ụp xuống, đóng lại kín mít, tối bưng” . Về chi tiết cuối hình ảnh “đoàn người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” có người chú ý đến có người không, nhưng đây vẫn là một chi tiết rất đáng trân trọng về chủ đề tác phẩm và quan điểm nghệ thuật của tác giả. Bởi cùng với chi tiết mở đầu tác phẩm: một buổi chiều “chạng vạng mặt người” và kết thúc là một buổi sáng “mặt trời lên bằng con sào” chi tiết này đã làm cho “Vợ nhặt” không còn là tác phẩm của dòng Văn học Hiện thực phê phán trước 1945. 2.2. Truyện “Vợ chống A Phủ” (Tô Hoài): Chủ đề của truyện có hai ý: phản ánh thân phận đau khổ của người nông dân miền núi dưới ách thống trị áp bức của các thế lực phong kiến và thực dân, đồng thời là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do của con người miền núi, là hình ảnh con đường giải phóng và cuộc đời cách mạng của họ. Khi đọc hiểu tác phẩm này nên tập trung cho các em khai thác các chi tiết xoay quanh nhân vật Mỵ. Có thể thấy ở nhân vật này đầy ắp những chi tiết hay, chi tiết độc đáo. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể đi hết mọi chi tiết mà quan trọng nhất là biết lựa chọn những chi tiết có giá trị lớn nhất trong việc thể hiện ý đồ tư tưởng của tác phẩm và biết khai thác sâu ý nghĩa của mỗi chi tiết ấy. Mở đầu truyện ngay từ những dòng đầu tác giả đã rất khéo léo giới thiệu về Mỵ: “Ai ở xa về có việc vào nhà thống Lý Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vả, chẻ củi hai đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cuối mặt, mặt buồn rười rượi ... Cô ấy là vợ A Sử, con trai của Thống Lý Pá Tra”. Cách miêu tả, dẫn dắt như thế có sức gây ấn tượng về nhân vật mà nhà văn muốn giới thiệu. Tôi đã hướng dẫn học sinh, khi đọc hiểu đoạn giới thiệu này tập trung vào chi tiết: Lúc nào ... cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi, đặc biệt chi tiết Mỵ ngồi “bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Tác giả đã tỏ ra tất tinh tế và sâu sắc khi đặt nhân vật trong sự đối lập với khung cảnh xung quanh: giữa cảnh giàu sang của nhà Thống Lý Pá Tra “nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng” thì Mỵ đặt ngang với vật vô tri vô giác, vị trí thấp kém: tảng đá, tàu ngựa. Ẩn dụ này chính là thân phận thấp hèn, với địa vị nô lệ mặc dù, nghịch lý thay, tuy không phải là con gái nhưng lại là con dâu của Thống Lý Pá Tra. Nói về thân phận Mỵ ở nhà Pá Tra là phải nói đến chi tiết đó. Tìm hiểu nhân vật Mỵ, qua đoạn giới thiệu chúng ta thường đi sâu vào các khía cạnh: nỗi đau thể xác, nỗi đau tinh thần và sức sống kỳ diệu của nhân vật. Ở mỗi khía cạnh tôi hướng dẫn học sinh tập trung khai thác các chi tiết phục vụ cho các nội dung trên. Chẳng hạn ở nỗi đau thể xác có chi tiết “Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào 13 việc làm cả đêm cả ngày” đã nói lên sự hành hạ, bóc lột thậm tệ sức lao động của con người. Nội dung này càng được khẳng định qua chi tiết người chị dâu tuổi chưa cao nhưng lưng đã còng sát đất. Rồi chi tiết Mỵ bị trói đứng vào cột nhà trong suốt đêm, chi tiết A Sử đạp chân vào mặt Mỵ khi cô đang bóp chân cho hắn, chi tiết A Sử đi chơi đêm về thấy Mỵ ngồi sưởi đã đánh Mỵ ngã ngay xuống bếp… và các chi tiết ấy đều có ý nghĩa hết sức sâu sắc. Chỉ đơn cử chi tiết hằng đêm Mỵ thức dậy sưởi lửa, bị A Sử đánh gục xuống bếp nhưng đêm mai Mỵ vẫn thức dậy như không có truyện gì xảy ra đã mang rất nhiều lớp nghĩa. Học sinh khai thác để thấy được: đó là sự tố cáo tội ác của A Sử nói riêng, bọn quan lại nói chung; là việc thể hiện Mỵ chỉ còn là cái xác không hồn, nói đúng ra Mỵ giống như một chiếc máy đã được lập trình và mọi hành động đều xuất phát từ sự lập trình ấy; Tuy nhiên nhìn sâu hơn chi tiết này lại mang ý nghĩa Mỵ đang vô cùng lạnh lẽo, cô đơn và cái cô lạnh ấy bắt Mỵ phải tìm đến bếp lửa, sự thèm khát hơi ấm đã giúp Mỵ chiến thắng mọi sợ hãi. Như vậy bên trong sự băng giá vẫn đang tồn tại một cô Mỵ với một niềm khát sống mãnh liệt. Ngoài ra, chi tiết này còn là cơ sở cho hành động cứu A Phủ sau này. Ở khía cạnh nỗi đau tinh thần, cần hướng dẫn học sinh tìm để khai thác các chi tiết có ý nghĩa quan trọng nhất như chi tiết con dâu gạt nợ (chi tiết này không chỉ nói lên nỗi đau của Mỵ mà còn tố cáo sự độc ác thâm hiểm của chế độ lang đạo miền núi trước Cách mạng tháng Tám.), chi tiết “Cô Mỵ về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Từ năm nào, cô không nhớ”, chi tiết “Bây giờ thì Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, việc đi làm mà thôi”. Đây là những chi tiết thể hiện rõ nhất nỗi đau tinh thần của Mị, người con gái cực khổ ấy đã hoàn toàn đánh mất cảm giác về thời gian và không gian, cô không nhớ ngày tháng, không nhớ nơi mình đang ở mà chỉ “nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại”. Ngoài các chi tiết trên, còn có rất nhiều chi tiết khác nữa như chi tiết “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, chi tiết “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Chi tiết này góp thêm ý nghĩa vào việc miêu tả thân phận của Mỵ ở Hồng Ngài. Mỵ không chỉ là kẻ nô lệ thấp kém trong gia đình Pá Tra mà còn như là một người tù đang ở chính ngay trong nhà người chồng. Đặc biệt qua chi tiết căn buồng, nhà văn đã tạo dựng lên được một thứ ngục thất tinh thần, ở đó nó không chỉ giam hãm thân xác, mà còn giam hãm cả tuổi xuân và tình yêu của Mị. Khai thác khía cạnh sức sống kỳ diệu của nhân vật Mị, tôi cũng bắt đầu bằng việc cho học sinh tìm các chi tiết. Có thể thấy ở nội dung chi tiết cũng rất nhiều và đặc sắc. Từ chi tiết Mị vào rừng tìm lá ngón để tự tử nhưng không đành lòng chết vì thương bố, đến chi tiết Mị nổi loạn trong đêm tình mùa xuân và sau nữa là chi tiết Mị cởi trói cho A Phủ. Có thể nói, nhà văn đã rất thành công trong việc miêu tả tâm lý nhân vật Mỵ để nói lên sự trỗi dậy mãnh liệt của lòng ham sống và khát khao hạnh phúc ở nhân vật này. Chi tiết Mỵ cởi trói cho A Phủ đã được nhiều người phân tích rạch ròi, bởi vì nó là đỉnh cao của sự trỗi dậy ở Mỵ, là hành động tất yếu không thể khác hơn. Có điều nhà văn đã khéo léo trong việc dẫn dắt, miêu tả diễn biến phức tạp tâm trạng của nhân vật và chi tiết “tiếng sáo gọi bạn tình” chính là bước dẫn dắt đó. Đây là chi tiết được Tô Hoài miêu tả rất tinh tế để thể hiện sự trỗi dậy mãnh liệt trong tâm hồn của Mỵ. Thật vậy, đọc truyện chúng ta ai cũng biết, lúc đầu sống trong cảnh nô lệ ở nhà Thống Lý Pá Tra, Mỵ đã định tự tử bằng lá ngón, nhưng vì thuơng cha nên Mỵ đã không thực hiện. Dần dẫn Mỵ đã bị tê liệt sức phản kháng đó: “Ở lâu trong cái khổ, Mỵ quen khổ rồi. Bây giờ thì Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa... Mỗi ngày Mỵ càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” . Tuy nhiên đó chỉ là cái bên ngoài, ngòi bút của nhà văn đã đi sâu vào ngõ ngách tâm hồn của nhân vật để khám phá và khơi dậy cái sức sống 14 mãnh liệt ở Mỵ. Chi tiết “tiếng sáo gọi bạn mùa xuân” chính là sự biểu tượng của sự trỗi dậy đó. Phần sáng của truyện cũng bắt đầu bằng chi tiết này. Trong truyện tiếng sáo gọi bạn đã theo sát diễn biến tâm trạng của Mỵ. Lúc đầu, khi mùa xuân đến có tiếng ai thổi sáo gọi bạn đi chơi, nghe tiếng sáo Mỵ đã thiết tha, bồi hồi, nhẩm thầm lời bài hát, Mỵ uống rượu say và Mỵ quyết định đi chơi Tết như mọi thanh niên khác. Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lửng ngoài đường. Khi bị A Sử ngăn cản trói tàn bạo vào cột nhà thì Mỵ vẫn nghe tiếng sáo đưa Mỵ đi theo những cuộc chơi, những đám cưới mà ngày nào Mỵ từng được diện kiến. Quả thực, tiếng sáo đã làm Mị quên đi hiện tại mà nhớ về quá khứ, để thấy “trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Bốn lần tiếng sáo xuất hiện trong tâm hồn Mỵ dù nghe hay không nghe, tiếng sáo đã làm thay đổi lớn, đã thức dậy ở Mỵ lòng ham sống mãnh liệt, lòng khát khao hạnh phúc mà bấy lâu nay những tưởng Mỵ đã bị tê liệt quên lãng. 2.3. Truyện “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) Nhà văn Nguyên Ngọc đã từng so sánh truyện “Rừng xà nu” với “Đất nước đứng lên” và nhận xét rằng viết truyện ngắn “Rừng xà nu” khó hơn viết tiểu thuyết “Đất nước đứng lên”. Bởi vì tuy cả hai truyện cùng viết về một đề tài, thời gian, không gian câu chuyện cũng bằng nhau, nhưng viết “Rừng xà nu” khó hơn viết “Đất nước đứng lên” vì “Rừng xà nu” là truyện ngắn, “Đất nước đứng lên” là một truyện dài. Chuyện của một đời người chỉ kể trong một đêm vì vậy làm sao không khó: cho nên từng chi tiết của truyện phải có tính hàm súc cao độ. 2.3.1. Đọc hiểu hình tượng cây xà nu: Ở nội dung này, học sinh đi vào tìm và khai thác các chi tiết tạo dựng hình tượng cây xà nu với sự gắn bó mật tiết với cuộc sống và con người Tây Nguyên. Đó là hình ảnh những đồi xà nu xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, là chi tiết “lửa xà nu cháy giần giật” trong mỗi bếp, trong đống lửa ở nhà ưng; khói xà nu xông bảng nứa để Mai và Tnú học chữ… Để thấy được cây xà nu có mặt trong đời sống hàng ngày của người dân làng Xô Man như tự ngàn đời qua. Đó là những chi tiết thể hiện cây xà nu tham dự vào những sự kiện trọng đại của dân làng Xô Man như ngọn đuốc xà nu dẫn đường cho cụ Mết và dân làng vào rừng lấy vũ khí, soi cho Tnú đọc thư anh Quyết, soi rõ “xác mười tên giặc ngổn ngang”… Là những chi tiết thể hiện hình tượng cây xà nu gắn bó với cuộc sống người dân đến mức như thấm sâu vào nếp suy nghĩ và cảm xúc từng người: Tnú thấy cụ Mết như một cây xà nu đại thụ và ngực cụ “căng như một cây xà nu lớn”, còn cụ Mết cũng luôn tự hào “không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”… Để làm nổi bật hình tượng cây xà nu, còn có thể khai thác rất nhiều những chi tiết khác. Đó là chi tiết “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào là không bị thương”, “Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn” đã thể hiện sự cùng chung gian khổ, cùng chung số phận của cây xà nu với con người Tây Nguyên bất khuất. Những chi tiết “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy”, “Cũng có ít loài cây ham ánh sáng mặt trời đến thế” đã tượng trưng cho niềm khát khao tự do, lòng tin vào lý tưởng cách mạng của người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam trong cuộc kháng chống Đế quốc Mỹ xâm lược. Chi tiết “có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh thay thế những cây đã ngã” đã thể hiện sự tồn tại kì diệu của rừng xà nu qua những hành động huỷ diệt của kẻ thù, cũng đồng thời là biểu trưng cho sức sống bất diệt, sự bất khuất, kiên cường và sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến một mất một còn với bè lũ cướp nước và bán nước. 15 2.3.2. Đọc hiểu hình tượng nhân vật Tnú Tnú là nhân vật chính, nhân vật trung tâm của tác phẩm, đi sâu khai thác nhân vật này cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình đọc hiểu “Rừng xà nu”. Thông qua hướng dẫn học sinh khai thác các chi tiết cụ thể trong tác phẩm các em sẽ làm nổi bật hình tượng nhân vật cũng như chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Để giúp học sinh dễ tìm hiểu, có thể gọi ra những luận điểm chính làm cơ sở khai thác chi tiết. Chẳng hạn luận điểm: Tnú là người có tính cách gan góc, dũng cảm, mưu trí, học sinh sẽ đi vào khai thác các chi tiết Tnú cùng Mai xung phong vào rừng nuôi dấu cán bộ sau khi đã chứng kiến cái chết của anh Xút, của bà Nhan, chi tiết Tnú đập vỡ bảng, lấy đá đập vào đầu đến chảy máu vì học chữ thua Mai, chi tiết “xé rừng mà đi” “lựa chỗ thác mạnh vượt băng băng như con cá kình” mỗi khi đi liên lạc, chi tiết nuốt lá thư khi bị bắt và chỉ vào bụng dõng dạc nói “cộng sản ở đây này”. Ở luận điểm: Tnú là người có tính kỷ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng, học sinh khai thác các chi tiết Tnú về phép một đêm sau ba năm đi lực lượng, chi tiết Tnú bị đốt mười đầu ngón tay mà không kêu nửa lời. Ở luận điểm Tnú có một trái tim yêu thương và tấm lòng sục sôi căm giận kẻ thù, học sinh khai thác chi tiết “Anh (Tnú) đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay” diễn tả chân thật tâm trạng của Tnú trước cảnh vợ con bị giặc hành hạ dã man. Đây là sự giằng co giữa trách nhiệm của người chồng, người cha với trách nhiệm của người cán bộ cách mạng, là sự giằng có giữa tình riêng và nghĩa chung. Là người chồng, người cha Tnú phải xông vào tức khắc để cứu vợ con, không thể chần chừ một phút, một giây. Là cán bộ của Đảng, Tnú không thể xông vào cứu vợ không phải vì Tnú sợ chết mà trách nhiệm của Đảng, xông vào là rơi vào âm mưu của kẻ thù: “Bắt được cọp cái và cọp con, tất sẽ được cọp đực trở về” . Mà để chúng bắt được Tnú thì như lời cụ Mết đã nói: “Cán bộ của Đảng, Đảng còn, núi nước này còn” .Tnú đang là cán bộ của Đảng thay thế anh Quyết lãnh đạo dân làng Xô man chiến đấu kẻ thù. Trước đây, vì lý tưởng của Đảng dân làng Xô man đã không ngại khó khăn, nguy hiểm đã lấy tính mạng của mình như anh Xút, bà Nhan để bảo vệ người Đảng là anh Quyết, cho nên Tnú không thể ra được. Lý trí thì bảo như vậy, nhưng còn tình cảm thì sao? Vì vậy, chi tiết Tnú trong tay hàng chục trái vả lúc nào không hay là biểu hiện chân thật của sự giằng co, đầu tranh giữa lý trí vì tình cảm, giữa trách nhiệm của nguời cán bộ Đảng với trách nhiệm của người chồng, người cha. Chi tiết này làm ta có thể liên tưởng đến chàng trai Trần Quốc Toản trên bến Bình Than bóp nát trái cam vua ban cho lúc nào không hay. Cuối cùng, mặc dù cụ Mết hết sức ngăn cản “Không được Tnú! để Tau!” Tnú vẫn nhảy ra xông vào quân giặc để cứu vợ con. Tnú trước hết vẫn là một con người bình thường như mọi người. Một chi tiết khác trong truyện là lời xưng hô của Dít đối với Tnú lúc anh về thăm làng. Lúc đầu cô gọi anh là: “đồng chí” và giọng hơi lạnh lùng, đôi mắt nghiêm khắc. Sau đó khi đọc xong giấy phép của Tnú, cô mới cười và gọi Tnú là “anh” và xưng lại là “em”.Có người cho là Dít đã quá nguyên tắc khi xử sự như thế đối với anh rể của mình. Có thể là Dít hơi nguyên tắc, nhưng nếu để ý đến thái độ của mọi người “im lặng chờ đợi chung quanh” và khi Dít đã đọc xong tờ giấy phép có chữ ký của người chỉ huy thì “tiếng cười nói im đi một lúc bây giờ lại rộn lên, chật cả căn nhà nhỏ”, đồng thời có để ý đến cảnh làng Xô Man đổi thay, quy cũ và đang trong tư thế sẵn sàng chống lại mọi âm mưu của kẻ thù thì chúng ta mới thông cảm cho cách xử sự của cô đối với ông anh của mình. Bởi vì, sau đó Dít đã trở lại với hình ảnh của cô em gái với nụ cười trên môi và lời xưng hô “anh”, “em” ngọt ngào, đó chính là tình cảm thật của cô. Dít đã hành động như mọi người Xô Man, Dít tiêu biểu cho người làng Xô Man cảnh giác, đề phòng sẵn sàng chờ đón quân thù, nhưng sinh hoạt làng xóm thì vẫn hồ hởi, tự tin, vui vẻ. Đó chính là sức mạnh để tồn tại của người Xô Man truớc sự tàn bạo của quân thù… Do khuôn khổ cũng như mục đích của bài viết không tập trung vào việc khai thác các chi tiết cụ thể trong tất cả các tác phẩm truyện ngắn tự sự của chương trình THPT, nên tôi chỉ đề 16 cập vào ba tác phẩm và mỗi tác phẩm cũng chỉ đề cập đến một số vấn đề có ý nghĩa như những minh chứng trong việc hướng dẫn học sinh 12 khai thác các chi tiết trong quá trình đọc hiểu các truyện ngắn tự sự. 3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: Cách cảm nhận chi tiết trong tác phẩm tự sự. 3. 1 Các bước cảm nhận chi tiết: Bước 1: Trước hết phải đọc kĩ văn bản để nắm cốt truyện, ý đồ sáng tạo của nhà văn cùng với tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Bước 2: Tìm những chi tiết đắt giá có vai trò: thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện; thể hiện số phận, phẩm chất, số phận của nhân vật; thể hiện tư tưởng, chủ đề của tác phẩm… Nếu trong giảng văn người giáo viên không biết hướng dẫn học sinh lựa chọn khai thác chi tiết tiêu biểu, quan trọng chắc chắn bài giảng sẽ không có độ sâu. Bài viết văn của học sinh cũng vậy sẽ không thực sự thuyết phục và để lại ấn tượng cho người đọc nếu như không chọn, bình những chi tiết đặc sắc. Bước 3: Phân tích cảm thụ, bình giá chi tiết về nội dung tư tưởng và nghệ thuật. 3. 2 Cách làm bài văn cảm nhận chi tiết. * Dạng câu hỏi nhận diện đặc điểm và nêu ngắn gọn ý nghĩa của chi tiết nghệ thuật. - Đây là dạng câu hỏi 2 điểm mà đề thi tốt nghiệp và đại học những năm gần đây hay ra. - Cách làm: + Bước1: nêu đặc điểm chi tiết. + Bước 2: tìm ý nghĩa của chi tiết. Ví dụ-đề bài: Sau khi viết chữ tặng viên quản ngục, Huấn Cao khuyên viên quản ngục điều gì ? Ý nghĩa của lời khuyên ấy với việc thể hiện vẻ đẹp Huấn Cao và chủ đề tác phẩm ? -Đáp án: - Đặc điểm chi tiết: Huấn cao khuyên viên quản ngục “nên tìm về quê mà ở”, “hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi.” - Ý nghĩa của chi tiết: + Góp phần hoàn thiện vẻ đẹp lí tưởng ở nhân vật Huấn Cao: đẹp không chỉ ở tài hoa và khí phách mà còn bởi thiên lương trong sáng đến vô ngần. Huấn Cao rất trách nhiệm với đời qua lời di huấn đầy tâm huyết ấy. + Thể hiện quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp: cái đẹp toàn mĩ, đẹp gắn với cái thiện, đẹp không ở chung với cái ác, muốn đến với cái đẹp phải tránh xa cái ác. * Dạng đề viết một bài văn nghị luận phân tích, cảm nhận một chi tiết nghệ thuật trong tác tự sự. Các bước: a- Mở bài - Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm. - Giới thiệu chi tiết đặc sắc cần phân tích. 17 b- Thân bài - Hoàn cảnh dẫn đến sự xuất hiện của chi tiết và vị trí của chi tiết trong tác phẩm. - Đặc điểm và tần số xuất hiện của chi tiết. - Ý nghĩa của chi tiết: +Thể hiện số phận, tích cách, phẩm chất nhân vật. + Giá trị tư tưởng: giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm, tư tưởng yêu nước… + Nghệ thuật: ngôn ngữ giọng điệu khi kể về chi tiết. Chi tiết thúc đẩy cốt truyện, thể hiện tính cách nhân vật, làm nên tiếng nói nghệ thuật độc đáo của nhà văn ra sao? c- Kết bài - Khẳng định vai trò của chi tiết: chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn. - Khẳng định sức sống của chi tiết. * Dạng đề cảm nhận hai chi tiết trong thế đối sánh. a- Mở bài - Giới thiệu khái quát về vị trí và phong cách hai tác giả, tác phẩm. - Giới thiệu hai chi tiết đặc sắc của hai tác phẩm. b- Thân bài * Cảm nhận chi tiết 1 theo các bước: - Hoàn cảnh dẫn đến sự xuất hiện của chi tiết và vị trí của chi tiết trong tác phẩm. - Đặc điểm và tần số xuất hiện của chi tiết. - Ý nghĩa của chi tiết: + Thể hiện số phận, tích cách, phẩm chất nhân vật. + Giá trị tư tưởng: giá trị hiện thực và nhân đạo, tư tưởng yêu nước của tác phẩm… + Nghệ thuật: ngôn ngữ giọng điệu khi kể về chi tiết. Chi tiết thúc đẩy cốt truyện, thể hiện tính cách nhân vật, làm nên tiếng nói nghệ thuật đọc đáo của nhà văn như thế nào ? * Cảm nhận chi tiết 2 theo các bước nêu trên. * So sánh hai chi tiết - Điểm tương đồng + Nội dung + Nghệ thuật - Điểm khác biệt + Nội dung + Nghệ thuật *Lí giải nguyên nhân c- Kết bài - Khẳng định vai trò hai chi tiết. - Sức sống của hai chi tiết. 3.3. Hướng dẫn luyện tập một số đề văn 3.3. 1 Dạng đề cảm nhận một chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn xuôi. Đề bài: Cảm nhận của anh/ chị về chi tiết bát bánh đúc trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. 1- Đặt vấn đề - Vị trí tác giả, tác phẩm : Kim Lân là một cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. “Vợ nhặt” là truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân. - Bát bánh đúc chi tiết đắt giá góp phần làm nên giá trị cho tác phẩm. 2- Giải quyết vấn đề 2.2.Giới thiệu về xuất xứ và chủ đề, tình huống truyện 18 2.3.Hoàn cảnh và vị trí của chi tiết - Lần thứ hai gặp gỡ Tràng. - Đoạn hai của truyện. 2.4. Đặc điểm chi tiết - Món quà quê dân giã nhưng rất quí với người nông dân xưa. - Sau khi được mời người vợ nhặt ăn một chặp bốn bát bánh đúc, ăn xong thị còn theo không Tràng về làm vợ. 2.5. Ý nghĩa *Thể hiện số phận, phẩm chất của nhân vật: - Số phận thảm thương tội nghiệp của người ăn; giá trị rẻ mạt của con người trong nạn đói khủng khiếp 1945. + Đói khát đến cùng đường khi gợi ý để được ăn “ăn gì chứ chả ăn giàu” + Thị đã đánh mất hết vẻ đẹp nữ tính bởi cái đói khi sà xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc. + Thị theo không Tràng về làm vợ cũng là để chạy trốn cái đói. - Niềm ham sống, vì sự sinh tồn nên thị ăn một chặp bốn bát liền, ăn để sống. Và bám vào câu nói đùa “rích bố cu” “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”, rồi thị đã theo không Tràng làm vợ. +Bánh đúc nên duyện vợ chồng, sau này thị thay đổi trở nên hiền thục, nữ tính sau khi làm vợ Tràng. -Thể hiện vẻ đẹp của tình người hào hiệp ở người cho ăn- Tràng người nghèo xấu trai nhưng lại có tấm lòng nhân hậu, biết cưu mang đồng loại. + Không dư dật gì, trong buổi đói khát miếng ăn là cả vấn đề sinh mệnh Tràng cho thị ăn là hành động nghĩa cử cao đẹp. + Tràng đã cứu sống thị - Bánh đúc nên duyên vợ chồng, Tràng có được hạnh phúc bất ngờ, sung sướng khi có vợ. Sau này tâm tính Tràng thay đổi, thấy mình nên người gắn bó và có trách nhiệm với gia đình. 2.6. Tư tưởng: +Phán ánh hiện thực về nạn đói trong đó con người bị coi như cỏ rác, giá trị rẻ mạt hết đỗi của con người qua chi tiết bốn bát bánh đúc này. +Giá trị nhhân đạo sâu sắc: cảm thông với nỗi khổ, lên án tố cáo, ca ngợi vẻ đẹp tình người ở người lao động. 2.7.Nghệ thuật: - Là chi tiết quan trọng góp phần quan trọng làm nên và thúc đẩy cốt truyện, khắc hoạ số phận, phẩm chất, tính cách nhân vật. - Miêu tả tâm lí bằng chi tiết ngoại hiện- sự đói khát cùng đường với chi tiết trên, đã thể hiện tài năng của Kim Lân. - Là chi tiết làm nên tư tưởng lớn- tư tưởng nhân đạo sâu sắc và ở tầm cao mới so với văn học hiện thực phê phán trước đó. - Tiếng nói nghệ thuật độc đáo của Kim Lân khi viết về nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu được thể hiện qua chi tiết độc đáo này. 3- Kết thúc vấn đề - Chi tiết đắt giá, góp phần làm nên ý nghĩa lớn lao cho truyện ngắn. - Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn, chi tiết có sức ám ảnh với người đọc. 3.3.2 Dạng đề cảm nhận về hai chi tiết tương phản trong hai tác phẩm. 19 Đề bài: Cảm nhận của anh/ chị về hình ảnh Đám ma-Đám cưới kì lạ trong “Vợ nhặt”Kim Lân và chương “Hạnh phúc của một tang gia” (Số đỏ)-Vũ Trọng Phụng. 1- Đặt vấn đề. - Vũ Trọng Phụng là một nhà văn hiện thực xuất sắc, một ngòi bút trào phúng bậc thày tên tuổi của ông bất hủ với kiệt tác “Số đỏ”. Kim Lân là một cây bút truyện ngắn tài năng của văn xuôi Việt Nam hiện đại. “Vợ nhặt” là truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân. - Hai tác phẩm đã khắc hoạ một đám ma kì lạ và một đám cưới kì lạ- Một đám ma trong gia đình danh giá hà thành mà tưng bừng náo nhiệt khác chi đám rước của ngày hội và một đám cưới đơn sơ giữa không khí nặng nề, chết chóc của xã hội. Đó chính là đám tang cụ cố tổ và đám cưới của anh cu Tràng. 2- Giải quyết vấn đề LĐ 1: Hai nhà văn đã khắc hoạ thành công một đám ma và một đám cưới kì lạ. a- Chi tiết đám ma cụ cố tổ- một đám ma lạ lùng mà chẳng như đám tang theo lẽ thường: - Bầy con cháu “chí hiếu” ấy đã rất mong mỏi cụ cố tổ chết để được chia nhau cái gia tài kếch xù kia. Mỗi người không chỉ có hạnh phúc chung mà còn có niềm hạnh phúc riêng thành thử trong tang gia ai cũng vui vẻ cả. - Buồn thương bối rối chỉ là cái vỏ bề ngoài che đậy bản chất đáng khinh bỉ. Những kẻ bịp bợm rởm đời đang cố đắp lên mình cái mác hiếu nghĩa để thiên hạ phải trầm trồ ngợi khen. b- Đám cưới của Tràng-một đám cưới kì lạ không dạm hỏi cưới xin theo lẽ thường: - Tràng xấu, nghèo, dân ngụ cư, ế vợ bỗng dưng có vợ mà vợ lại theo không. - Chỉ bằng có mấy câu nói đùa tầm phơ tầm phào và bốn bát bánh đúc mà Tràng có vợ khiến cho xóm ngụ cư, bà cụ Tứ, và chính Tràng phải ngỡ ngàng. - Lấy vợ trong cơn đói khát, lúc nuôi thân chẳng nổi. - Đám cưới của Tràng trong một đám ma khổng lồ. LĐ 2: Tình người là điều thiếu thốn trong cái đám ma danh giá “to tát” đủ đầy kia nhưng là điều dư thừa của đám cưới giản đơn thiếu đủ đường.  Đám ma cụ cố tổ - To tát, hoành tráng: + Nghi thức theo cả lối Ta, Tàu, Tây. + Không khí huyên náo như hội chợ. + Cách cử hành trùng trình bình tĩnh như một đám rước. + Con người đi đưa: từ người trong gia đình đến người ngoài ai cũng hạnh phúc hả hê sung sướng, mãn nguyện. - Thiếu điều quan trọng để trở thành một đám tang bình thương đó sự xót thương với người đã khuất. + Vẻ mặt bên ngoài thì buồn rầu, đau khổ. + Ai đến dự cũng với mục đích để tìm thú vui, tìm hạnh phúc. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan