Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy và học môn Lịch sử ở trường THCS.
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIAO THỦY
TRƢỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ GIAO TIẾN
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
MỘT SỐ KINH NGHIỆM SỬ DỤNG PHƢƠNG PHÁP
GÂY HỨNG THÚ TRONG DẠY HỌC MÔN LỊCH SỬ
Ở TRƢỜNG THCS
Tác giả
: CAO THỊ THU HƢƠNG
Trình độ chuyên môn : Đại học Sƣ phạm
Chức vụ
: Giáo viên
Đơn vị công tác
: Trƣờng THCS Giao Tiến
Huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định
Giao Thủy, ngày 20 tháng 5 năm 2015
T¸c gi¶: Cao ThÞ Thu H-¬ng
1
Trường THCS Giao TiÕn
Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy và học môn Lịch sử ở trường THCS.
1. Tên sáng kiến:
- Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy học
môn Lịch sử ở trường THCS.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
- Môn lịch sử THCS.
3. Thời gian áp dụng sáng kiến:
- Từ ngày 05 tháng 9 năm 2014 đến ngày 15 tháng 03 năm 2015.
4. Tác giả:
Họ và tên: Cao Thị Thu Hương
Năm sinh: 1969
Nơi thường trú: Xã Giao Tiến, Huyện Giao Thủy, Tỉnh Nam Định
Trình độ chuyên môn: Đại học s- ph¹m
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường trung học cơ sở Giao Tiến
Điện thoại: 01252873356
Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100 %
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường trung học cơ sở Giao Tiến.
Địa chỉ: Xã Giao Tiến, Huyện Giao Thủy, Tỉnh Nam Định
Điện thoại: 03503895800
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
T¸c gi¶: Cao ThÞ Thu H-¬ng
2
Trường THCS Giao TiÕn
Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy và học môn Lịch sử ở trường THCS.
I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:
Trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy
học đối với môn học lịch sử ở trường THCS nói riêng đều có ý nghĩa quan
trọng vừa là cơ sở lý luận, vừa là cơ sở phương pháp luận cho định hướng đổi
mới phương pháp dạy học, tiếp cận hoạt động nhân cách và là sự vận dụng lí
luận hoạt động giữa thầy và trò, thầy tác động vào nhân cách học sinh, hoạt
động của học sinh là hoạt động chủ đạo. Người giáo viên không còn là người
truyền đạt tri thức một chiều mà là người tổ chức điều khiển hướng dẫn, cố vấn
cho học sinh học tập. Học sinh không chỉ là đối tượng tiếp nhận thông tin thụ
động mà chủ động tiếp nhận chiếm lĩnh tri thức một cách tích cực chủ động, học
sinh không chỉ làm việc tích cực riêng lẻ mà phải biết hợp tác tích cực với nhau
trong quá trình học tập.
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, cuộc cách mạng khoa học công
nghệ như một luồng gió mới thổi vào và làm lay động nhiều lĩnh vực trong cuộc
sống. Hơn bao giờ hết con người đang đứng trước những diễn biến thay đổi to
lớn, phức tạp về lịch sử xã hội và khoa học- kỹ thuật. Nhiều mối quan hệ mâu
thuẫn của thời đại cần được giải quyết trong đó có mâu thuẫn yêu cầu ngành
GD- ĐT nói chung và người thầy chúng ta nói riêng phải giải quyết ngay, đó là
khối lượng tri thức ngày càng tăng và sự tiếp nhận của con người có giới hạn,
bởi vì sự nhận thức của con người nói chung là tuyệt đối và không có giới hạn
song sự thu nhận, hiểu biết kiến thức của mỗi con người đều hữu hạn và tương
đối. Hiện nay đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Từng bước hội nhập
quốc tế để đưa nước ta trở thành nước công nghiệp, sánh vai cùng với các nước
trong khu vực và trên thế giới, thực hiện mục tiêu “xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam chủ nghĩa xã hội”. Học
sinh khi ra trường phải là người vừa có tài, có đức “ vừa hồng, vừa chuyên”.
T¸c gi¶: Cao ThÞ Thu H-¬ng
3
Trường THCS Giao TiÕn
Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy và học môn Lịch sử ở trường THCS.
Như chúng ta đã biết, môn lịch sử có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với việc
giáo dục thế hệ trẻ. Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ truyền
thống dân tộc, tự hào với thành tựu dựng nước và giữ nước của tổ tiên và từ đó
xác định nhiệm vụ trong hiện tại có thái độ đúng đối với sự phát triển hợp quy
luật của tương lai. Đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và đổi mới đất nước theo hướng tích cực, chủ động hội nhập thế giới.
Vừa giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, vừa chủ động hội nhập quốc tế, tiếp thu có
chọn lọc nền văn hóa thế giới. Lịch sử là một một môn học đặc thù với những
chuỗi sự kiện, diễn biến đã diễn ra trong quá khứ. Vì vậy, nhiệm vụ của dạy học
lịch sử là khôi phục lại bức tranh quá khứ để từ đó rút ra bài học từ quá khứ, vận
dụng nó vào trong cuộc sống hiện tại và tương lai. Đây là môn học yêu cầu
người học là phải “Biết sự kiện - Hiểu sự kiện – Nhớ sự kiện”, từ đó có sự phân
tích, tư duy lôgic, khái quát, và đánh giá sự kiện.
Bên cạnh việc tạo cho học sinh chủ động nắm bắt sự kiện lịch sử từ sách
báo, tư liệu, các phương tiện thông tin đại chúng … Giáo viên có thể lôi cuốn
học sinh, gây hứng thú cho học sinh trong tiết học, như ứng dụng công nghệ
thông tin vào việc giảng dạy. Với giáo án điện tử giáo viên thể hiện toàn bộ nội
dung như những trận đánh sinh động hoặc nhân vật lịch sử, các khái niệm …
đây là cách tiếp cận nhanh nhất để hình thành kiến thức, kỹ năng cho học sinh
và khắc sâu vào tâm trí học sinh lâu nhất. Bên cạnh đó việc vận dụng thơ ca
trong dạy học lịch sử cũng góp phần quan trọng nhằm phát huy tích tích cực chủ
động nắm bắt tri thức lịch sử như địa danh, tinh thần ý thức độc lập dân tộc, tinh
thần lao động, chiến đấu bất khuất của cha ông, góp phần bồi dưỡng học sinh
lòng tự hào về dân tộc.
Nhiệm vụ trên đây đã đặt ra cho người giáo viên bên cạnh việc bồi dưỡng kiến
thức chuyên môn thì phải cải tiến phương pháp dạy học nâng cao chất lượng
giáo dục để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Đây là cơ sở để học sinh vận
dụng vào thực tiễn. Từ căn cứ đó, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “phương pháp
gây hứng thú trong dạy và học lịch sử ở trường THCS”, nhằm nâng cao hiệu
quả dạy học bộ môn Lịch sử trong nhà trường.
T¸c gi¶: Cao ThÞ Thu H-¬ng
4
Trường THCS Giao TiÕn
Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy và học môn Lịch sử ở trường THCS.
II. Mô tả giải pháp:
1. Mô tả giải pháp trƣớc khi tạo ra sáng kiến.
Qua nắm bắt tình hình và trao đổi với đồng nghiệp về việc giảng dạy bộ
môn Lịch sử ở trường THCS trong huyện, bản thân tôi nhận thấy:
a. Thuận lợi.
*Về đội ngũ giáo viên: Trường Trung học cơ sở Giao Tiến có đủ giáo viên
dạy lịch sử, được đào tạo chính quy. Giáo viên có ý thức tự học, tự rèn, nhiệt
tình trong công tác giảng dạy. Được trang bị đầy đủ, đặc biệt có lắp đặt máy vi
tính và máy chiếu...
*Về học sinh: Học sinh được trang bị đầy đủ sách giáo khoa, đồ dùng học
tập, phần lớn có ý thức học tập.
b. Khó khăn:
Do đặc điểm của bộ môn Lịch sử là học sinh phải tìm hiểu những gì đã diễn
ra trong quá khứ; lịch sử lại gắn liền với thời gian; các kiến thức lịch sử ít khi
lặp lại như kiến thức của các môn Toán, Lý, Hóa,...vì vậy học sinh không được
củng cố thường xuyên nên rất khó ghi nhớ. Từ đặc điểm của bộ môn dẫn đến
tâm lí các em ngại học lịch sử, không hứng thú khi phải tiếp xúc với các kiến
thức lịch sử, kể cả những học sinh chăm học, có ý thức tốt.
Mặt khác, do yêu cầu thực tế của cuộc sống, nhiều phụ huynh muốn hướng
các em vào việc học tốt các môn khoa học tự nhiên và Anh văn, để làm cơ sở thi
đại học và tìm kiếm việc làm sau này. Tất cả những yếu tố trên đã làm cho các
em không có hứng thú học lịch sử.
Năng lực ứng dụng công nghệ thông tin của giáo viên vào dạy học lịch sử
còn có những hạn chế nhất định.
c. Thành công và hạn chế.
*.Thành công:
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học lịch sử đáp ứng được yêu
cầu cung cấp hình ảnh đẹp, sinh động, giúp các em nắm bắt kiến thức dễ dàng và
nhớ lâu.
- Việc sử dụng các phương pháp như miêu tả, tường thuật (kể chuyện), thơ
ca và âm nhạc cũng phù hợp với tâm lí lứa tuổi học sinh. Ở lứa tuổi đó, các em
tiếp thu tương đối đầy đủ về sự kiện, hiện tượng được miêu tả, tường thuật và
T¸c gi¶: Cao ThÞ Thu H-¬ng
5
Trường THCS Giao TiÕn
Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy và học môn Lịch sử ở trường THCS.
cảm thụ được tương đối tốt về thơ ca và âm nhạc, nên có tác động tích cực đến
tư tưởng, tình cảm của các em.
*. Hạn chế:
- Nếu giáo viên không biết chọn lọc những thông tin cần thiết mà tham lam,
ôm đồm, đưa quá nhiều hình ảnh; sử dụng quá nhiều tài liệu tham khảo; miêu tả,
tường thuật dài dòng ...dễ dẫn đến tình trạng không đảm bảo thời gian cho giờ dạy.
- Trong những năm gần đây, do có nhiều hoạt động vui chơi giải trí ngoài
trường học, ngoài giờ học như: phim ảnh, trò chơi điện tử nên các em bị chi phối
mất nhiều thời gian và sức lực. Ngoài ra còn do cha mẹ lo làm ăn không quan
tâm đến việc học của con em mình và còn do nhận thức chưa đúng về ý nghĩa,
tầm quan trọng của môn Lịch sử.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: (trọng tâm)
1. Mục tiêu của các giải pháp.
Mục tiêu của các giải pháp, mà tôi đưa ra nhằm cải thiện thái độ học tập
của học sinh đối với môn Lịch sử, giúp các em yêu thích môn Lịch sử và có
hứng thú học tập, từ đó nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử.
2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.
* Phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin:
Theo số liệu khoa học mà tổ chức UNESCO đã công bố: Học sinh chỉ nhớ
15% thông tin khi nghe, 25% thông tin khi nhìn nhưng nếu được kết hợp giữa nghe
và nhìn thì thông tin thu nhận được đạt tới 65%. Như vậy khi ứng dụng công nghệ
thông tin với kênh hình, kênh chữ và các ứng dụng khác sẽ giúp học sinh học tập
chú ý hơn, tạo được cảm xúc, tìm tòi, nhận thức và khái quát hóa sự kiện, hiện
tượng.
Qua thực tế và kinh nghiệm giảng dạy của tôi, có thể khẳng định rằng: việc
ứng dụng công nghệ thông tin vào hỗ trợ dạy học là phương pháp đem lại hiệu
quả cao.Ứng dụng công nghệ thông tin vào hình thành kiến thức cho học sinh
trong dạy học lịch sử sẽ làm cho giờ học trở nên sinh động không bị khô khan, tẻ
nhạt, lôi cuốn được học sinh tham gia học tập tích cực, chủ động, tạo cho các em
động cơ và không khí học tập thoải mái. Đây là nền tảng cho việc tiếp thu kiến
thức khoa học lịch sử một cách hiệu quả, qua đó giáo dục và phát triển toàn diện
T¸c gi¶: Cao ThÞ Thu H-¬ng
6
Trường THCS Giao TiÕn
Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy và học môn Lịch sử ở trường THCS.
học sinh và nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Công nghệ thông tin làm
nhiệm vụ hỗ trợ cho các phương pháp dạy học khác, cho nên giáo viên có thể
ứng dụng nó để hỗ trợ cho việc tường thuật, hoặc miêu tả các sự kiện, hiện
tượng lịch sử...kết hợp với lời trình bày sinh động của giáo viên. Giáo viên cũng
có thể chiếu một đoạn phim tài liệu hoặc tư liệu tham khảo để các em đọc và tìm
hiểu. Sau đây là một số phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin.
- Ứng dụng công nghệ thông tin để tường thuật diễn biến một sự kiện lịch sử.
Ví dụ 1. Bài 25 - Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp (1946 - 1950) ( Lịch sử 9), khi dạy về chiến dịch Việt Bắc Thu Đông năm 1947, tôi sử dụng lược đồ chiến dịch Việt Bắc có kí hiệu, hình ảnh với
hiệu ứng sinh động thể hiện hướng tiến công của quân bộ, quân thủy và quân dù
của Pháp; hướng tiến công của ta và nơi ta bao vây, tiêu diệt địch... Dựa vào lược
đồ, chiếu đến đâu, tôi tường thuật diễn biến của chiến dịch đến đó, tôi thấy học
sinh rất chú ý theo dõi.
Ngày 7/ 10/1947, từ sáng sớm một binh đoàn dù đổ quân xuống chiếm thị
xã Bắc Cạn và chiếm thị trấn Chợ Mới, Chợ Đồn. Cùng ngày hôm đó, một binh
đoàn lính bộ từ Lạng Sơn đánh lên Cao Bằng, rồi từ Cao Bằng, một cánh quân
khác đánh xuống Bắc Cạn, tạo thành gọng kìm bao vây phía đông và phía bắc
Căn cứ địa Việt Bắc.
Ngày 9/ 10/ 1947, một binh đoàn hỗn hợp lính bộ và lính thủy đánh bộ
ngược sông Hồng, sông Lô và sông Gâm lên thị xã Tuyên Quang, Chiêm Hóa,
Đài Thị (Tuyên Quang) bao vây phía tây Căn cứ địa Việt Bắc.
Đèo
Bông Lau
Đài Thị
30-10-1947
Khe lau
Chợ Mới
24-10-1947
Nơi quân Pháp nhảy
dù
Mũi tấn công của quân
Pháp
Quân Pháp rút lui
Ta phản công
T¸c gi¶: Cao ThÞ Thu H-¬ng
VIỆT BẮC THU ĐÔNG1947
Ta bao vây
7
Trường THCS Giao TiÕn
Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy và học môn Lịch sử ở trường THCS.
Tại Bắc Cạn, ngay từ đầu, quân ta đã chủ động, kịp thời phản công và tiến công
địch, tiến hành bao vây, chia cắt, cô lập chúng, tổ chức tập kích vào những nơi
địch chiếm đóng, phục kích trên đường từ Bắc cạn đi Chợ Mới, Chợ Đồn. Vừa
chặn đánh địch, ta vừa bí mật, khẩn trương di chuyển các cơ quan Trung ương,
Chính phủ, công xưởng, kho tàng đến nơi an toàn. Ở hướng Đông, quân ta phục
kích chặn đánh địch trên đường số 4, cản bước tiến của chúng, tiêu biểu là trận
đánh Bản Sao- đèo Bông Lau ngày 30/10/ 1947. Ở hướng Tây, quân ta phục
kích chặn đánh nhiều trận trên sông Lô. Cuối tháng 10 - 1947, 5 tàu chiến địch
có máy bay hộ tống từ Tuyên Quang đi Đoan Hùng lọt vào trận địa phục kích
của ta tại Đoan Hùng. Đầu tháng 11 - 1947, 2 tàu chiến và 1 ca nô địch đã lọt
vào trận địa phục kích của ta tại Khe Lau.
Dạy bài 27: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc
(Lịch sử 9), khi tường thật diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi thực hiện như
sau: Chiếu lược đồ Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954).
T¸c gi¶: Cao ThÞ Thu H-¬ng
8
Trường THCS Giao TiÕn
Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy và học môn Lịch sử ở trường THCS.
Trước khi tường thuật diễn biến đợt 1, tôi yêu cầu các em nhìn lên lược đồ
trên màn hình xem chú thích. Sau đó tôi bắt đầu tường thuật, kết hợp nêu câu
hỏi.
Giáo viên nêu câu hỏi: Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu từ bao giờ và
chia làm mấy đợt
Học sinh trả lời: Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu từ 13-3-1954 đến hết 73-1954 và được chia làm 3 đợt.
Giáo viên chiếu các địa điểm tiến công đợt 1 của ta và nêu câu hỏi: Dựa
vào lược đồ em cho biết đợt 1, ta tiến công địch ở đâu ?
- Học sinh trả lời ngắn gọn, sau đó giáo viên tường thuật: Đợt 1, từ ngày
13/3 quân ta bắt đầu tiến công địch ở đồi Độc Lập, Bản Kéo và đồi Him Lam
thuộc phân khu Bắc.
- Giáo viên nêu câu hỏi: Kết quả ra sao? - Học sinh trả lời, giáo viên thông
báo thêm: Trong hai ngày ta đã tiêu diệt nhanh gọn hai cứ điểm Him Lam và
Độc Lập. Ngày 17 - 3, địch ở Bản Kéo phải đầu hàng. Đợt tiến công thứ nhất chỉ
diễn ra 5 ngày, ta đã diệt hơn 2000 tên địch, hạ 12 máy bay, bao vây phân khu
Trung tâm và uy hiếp trực tiếp sân bay Mường Thanh. Tên Pi-rốt chỉ huy pháo
binh địch ở Điên Biên Phủ choáng váng dùng lựu đạn tự tử.- Giáo viên chiếu
tiếp các địa điểm tiến công đợt 2 của ta và nêu câu hỏi: Dựa vào lược đồ em cho
biết đợt 2, ta tiến công địch ở đâu- Học sinh trả lời ngắn gọn, sau đó giáo viên
tường thuật: Đợt 2, từ chiều ngày 30 - 3 ta tiến công tiêu diệt các căn cứ phía
đông phân khu Trung tâm. Cuộc đánh chiếm đồi A1 và C1 diễn ra suốt 4 ngày
đêm, hai bên giành giật nhau từng thước đất. Cuối cùng mỗi bên chiếm giữ một
nửa điểm cao. Sự tổn thất của hai bên đều nặng nề. Ở trận địa cánh đồng Mường
Thanh, việc tiến quân của ta rất khó khăn vì hỏa lực của địch rất mạnh. Ta chủ
trương xây dựng một hệ thống hầm hào, mới tiến công được. Các đơn vị bộ đội
sôi nổi thi đua xây dựng trận địa. Hào trục, hào nhánh đan nhau ngang dọc dài
tới hàng trăm km, dính liền với hàng vạn chiếc hầm. Với hệ thống chiến hào
ngang dọc đã giúp ta đỡ thương vong, cắt lìa phân khu Nam với phân khu trung
tâm, cắt đôi sân bay Mường Thanh. Cuối tháng 4, ta đã bao vây ép chặt trận địa
địch, mỗi chiều chỉ còn hơn 1km. Giáo viên chiếu tiếp các địa điểm tiến công
đợt 3 của ta và nêu câu hỏi: Dựa vào lược đồ em cho biết đợt 3, ta tiến công địch
ở đâu ? - Học sinh trả lời ngắn gọn, sau đó giáo viên tường thuật: Đợt 3, từ 1 T¸c gi¶: Cao ThÞ Thu H-¬ng
9
Trường THCS Giao TiÕn
Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy và học môn Lịch sử ở trường THCS.
5, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm còn lại ở Phân khu trung tâm và phân
khu Nam. Tối 6 - 5, đường ngầm của ta đã đào vào tận đỉnh đồi A1, ta dùng một
tấn thuốc nổ mới phá tan được cao điểm cuối cùng này. Sau đó quân ta tổng
công kích trên toàn mặt trận. Chiều 7-5, quân ta đánh vào sở chỉ huy địch ở phân
khu Trung tâm. 17 giờ 30 phút cùng ngày, tướng Đờ Ca-xtơ-ri cùng toàn bộ ban
tham mưu của địch ra đầu hàng.- Giáo viên chiếu hình ảnh tướng Đờ Ca-xtơ-ri
cùng toàn bộ ban tham mưu của địch ra đầu hàng, lá cờ "quyết chiến quyết
thắng" tung bay trên nóc hầm Đờ Ca-xtơ-ri.
¦
Lá cờ chiến thắng bay trên nắp hầm tướng Đờ Ca-xtơ-ri
Lưu ý: Là một câu chuyện, cho nên khi tường thuật, lời nói của giáo viên
không chỉ lưu loát rõ ràng, mà còn phải thể hiện tình cảm của mình theo kịch
tính của câu chuyện. Mở đầu bài tường thuật, giáo viên có thể trình bày với nhịp
độ vừa phải, nói diễn cảm để thu hút học sinh vào ngay câu chuyện, làm cho các
em chú ý và hứng thú theo dõi câu chuyện.
Trình bày tình tiết các sự biến thông qua từ ngữ gợi cảm, gợi tả thể hiện âm
thanh, màu sắc, cử chỉ, động tác của con người cụ thể, với ngữ điệu nói cao dần,
giáo viên tạo cho học sinh xúc động sâu sắc về những gì mà các em hình dung
T¸c gi¶: Cao ThÞ Thu H-¬ng
10
Trường THCS Giao TiÕn
Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy và học môn Lịch sử ở trường THCS.
được, tạo cho các em cảm giác dường như đang sống, tham dự, chứng kiến sự
kiện đang xảy ra.
Đến chỗ tình tiết phát triển cao thì lời nói của giáo viên phải hơi lên giọng,
nhịp điệu vừa phải nhưng cần thiết nhấn mạnh những từ ngữ có hình ảnh để
khắc sâu như: ... làm cho học sinh hồi hộp theo dõi câu chuyện.
Khi tình tiết giảm đi thì nhịp điệu nói của giáo viên phải hơi nhanh, hơi hạ
giọng. Kết thúc bài giảng giáo viên phải nói với nhịp độ vừa phải, hạ giọng và
nhấn mạnh khi trình bày về kết quả tốt đẹp của trận chiến đấu, gây ấn tượng sâu
sắc cho học sinh.
Như vậy các em sẽ được theo dõi diễn biến của sự kiện lịch sử trên màn
hình, giống như đang được xem một bộ phim với hình ảnh sinh động nên các em
sẽ dễ nhớ, dễ hiểu và hứng thú học tập.
- Ứng dụng công nghệ thông tin để miêu tả một sự vật lịch sử.
Ví dụ, khi dạy bài 26 - Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn
quốc chống thực dân Pháp (1950 - 1953) (Lịch sử lớp 9), tôi miêu tả Đông Khê
như sau: "Đứng trên núi cao nhìn xuống đồn Đông Khê như một tuần dương
hạm khổng lồ giữa biển rừng xanh biên giới. Đông Khê nằm giữa đường số 4
cách Cao Bằng 45 km, cách Thất Khê 24 km, xung quanh có 7 vị trí kiên cố
đóng trên núi cao như một bức tường vững chắc bao bọc. Đồn Đông Khê có
hàng chục lô cốt thấp sát mặt đất, nắp dày trên 1m, có hầm ngầm, tường cao,
dây thép gai xung quanh.
Khi dạy bài 27 - Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm
lược kết thúc ( Lịch sử 9), tôi chiếu hình ảnh cách đồng Điện Biên Phủ, sau đó
miêu tả khái quát có phân tích về vị trí tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ như sau:
Điện Biên Phủ là một cánh đồng rộng lớn, nằm dọc theo sông Nậm Rốm, ở giữa
vùng rừng núi Tây Bắc, dài chừng 18 km, rộng từ 6 - 8 km. Phía Bắc Điện Biên
Phủ giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Lào. Với vị trí như vậy, Pháp, Mĩ coi Điện
biên Phủ là một địa bàn hết sức quan trọng. Chúng xây dựng ở đây 49 cứ điểm
chia thành ba phân khu, phân khu Trung tâm, phân khu Bắc. Phân khu trung tâm
Mường Thanh tập trung hai phần ba lực lượng địch, có cơ quan chỉ huy, trận địa
pháo, sân bay, kho hậu cần và hệ thống cứ điểm trên cao. Phân khu Bắc gồm có
cứ điểm Độc Lập, Bản Kéo cùng với cụm cứ điểm Him Lam. Phân khu Nam là
một cụm cứ điểm có trận địa pháo và sân bay Hồng Cúm. Mỗi cụm cứ điểm là
T¸c gi¶: Cao ThÞ Thu H-¬ng
11
Trường THCS Giao TiÕn
Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy và học môn Lịch sử ở trường THCS.
một hệ thống hỏa lực nhiều tầng có chiến hào ngang dọc, có hàng rào dây thép
gai dày từ 20m đến 50m, có bãi mìn dày đặc, có lưới dây điện sát mặt đất. Một
số cứ điểm còn có hầm ngầm cố thủ. Lực lượng địch ở đây lúc cao nhất là 16200
quân. Với lực lượng và cách bố trí công sự như vậy nên Pháp và Mĩ coi Điện
Biên Phủ là "pháo đài bất khả xâm phạm".
Khi miêu tả giáo viên phải diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, thể hiện thái độ, tình
cảm của mình đối với sự vật miêu tả. Khi miêu tả những sự vật phức tạp, ngữ
điệu của giáo viên phải chậm hơn lúc tường thuật, có những chỗ ngắt giọng
ngắn, thỉnh thoảng giáo viên đặt câu hỏi: "tại sao ? ..." để học sinh suy nghĩ
(song không nhất thiết yêu cầu các em phải trả lời). Ví dụ, khi trình bày xong
vấn đề "Pháp - Mĩ coi Điện Biên Phủ là một pháo đài bất khả xâm phạm" giáo
viên nên ngắt giọng, nêu câu hỏi "Chúng đã bố trí công sự và lực lượng như thế
nào mà dám nói là pháo đài bất khả xâm phạm ?". Học sinh suy nghĩ vấn đề đặt
ra song không trả lời câu hỏi, mà giáo viên tiếp tục trình bày về cách bố trí các
công sự, lực lượng của địch ở Điện Biên Phủ để cuối cùng rút ra kết luận và giải
đáp câu hỏi đã đặt ra. Khi kết luận, giáo viên nên nói chậm, nhấn mạnh, hơi
xuống giọng những từ cuối để khắc sâu trí nhớ của học sinh.
Cách giảng như vậy không đơn điệu, buồn tẻ mà khơi gợi sự tò mò, hiểu
biết của học sinh. Các em theo dõi một cách hứng thú, phát huy tính tích cực
trong tư duy và tiếp thu sự kiện một cách dễ dàng.
- Ứng dụng công nghệ thông tin để tìm hiểu tài liệu tham khảo.
Trong dạy học, ngoài sách giáo khoa và sách giáo viên còn phải sử dụng
các tài liệu tham khảo. Tài liệu tham khảo có tác dụng bổ sung cho bài học, làm
phong phú thêm vốn kiến thức cho học sinh. Có nhiều cách sử dụng tài liệu
tham khảo, trong phạm vi đề tài này, tôi chỉ đề cập đến việc ứng dụng công nghệ
thông tin để tìm hiểu tài liệu tham khảo.
- Ứng dụng công nghệ thông tin để tìm hiểu một văn bản.
Ví dụ 1. Khi dạy bài 23 - Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự
thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Lịch sử 9), mục I - Lệnh Tổng
khởi nghĩa được ban bố, tôi thực hiện như sau:
Chiếu văn bản Hiệu triệu của Tổng bộ Việt Minh:
T¸c gi¶: Cao ThÞ Thu H-¬ng
12
Trường THCS Giao TiÕn
Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy và học môn Lịch sử ở trường THCS.
Hỡi quốc dân đồng bào.
Hỡi các đoàn thể cứu quốc.
Phát xít Nhật đã gục đầu hàng phục Anh - Mĩ - Nga - Tàu. Quân Đồng
minh sắp tràn vào Đông Dương. Giờ Tổng khởi nghĩa đã đến ! Dân tộc ta đã
đến lúc vùng dậy cướp lại chính quyền độc lập của mình !
Trước cơ hội có một không hai này, toàn thể dân tộc ta phải đem hết lực
lượng, dùng hết can đảm, bao quanh đạo quân giải phóng Việt Nam, tung xương
máu ra đánh đuổi giặc Nhật, đổi lấy tự do hạnh phúc cho nhân dân !
Ngày vinh quang ấy đương đòi hỏi những hi sinh quyết liệt, những dũng
cảm phi thường của con em trong nước. Thắng lợi nhất định về ta !
Dấy lên !
Ngày 14 tháng 8 năm 1945
TỔNG BỘ VIỆT MINH
- Sau đó tôi nêu câu hỏi: Em hiểu Hiệu triệu là gì ?
- Học sinh trả lời, giáo viên kết luận. Tiếp theo, tôi đề nghị: Em nào có khả
năng thể hiện tốt lời Hiệu triệu của Tổng bộ Việt Minh, hãy đọc cho cả lớp cùng
nghe !
Phần lớn học sinh đã tập đọc diễn cảm và xung phong đọc. Tôi gọi khoảng
hai em đọc, so sánh, nhận xét khả năng thể hiện của từng em và khích lệ các em.
Tiếp đến, tôi nêu câu hỏi: Hãy nêu nội dung của lời Hiệu triệu ? (kêu gọi
toàn dân đứng lên khởi nghĩa, khẳng định khởi nghĩa sẽ thắng lợi)
Với phương pháp trên, tôi nhận thấy hầu hết học sinh đều nhìn lên màn
hình, cố gắng đọc diễn cảm, chứng tỏ các em đang bị lôi cuốn vào bài học.
Ví dụ: Khi dạy bài 23 - Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành
lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Lịch sử 9), dạy đến sự kiện Chủ tịch Hồ
Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập (2 - 9 - 1945), tôi cho học sinh xem một
đoạn video về sự kiện này và yêu cầu các em chú ý nghe để nêu nội dung của
Tuyên ngôn.
Sau khi đoạn phim kết thúc, tôi nêu câu hỏi: Hãy nêu nội dung của Tuyên
ngôn ? Học sinh trả lời, giáo viên bổ sung như sau:
T¸c gi¶: Cao ThÞ Thu H-¬ng
13
Trường THCS Giao TiÕn
Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy và học môn Lịch sử ở trường THCS.
- Tuyên ngôn khẳng định quyền bình đẳng tự do và sống sung sướng của
mọi dân tộc.
- Lên án thực dân Pháp chà đạp lên quyền sống của nhân dân ta và hai lần
bán nước ta cho Nhật.
- Nêu bật tinh thần dũng cảm chiến đấu của nhân dân ta chống Nhật - Pháp
và vì vậy khi Pháp bỏ chạy, nhân dân ta dân ta đã giành được độc lập từ tay
Nhật.
- Khẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập với chủ quyền dân tộc vừa giành lại
được.
Như vậy các em vừa được nhìn thấy hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh trên
lễ đài trong giờ phút thiêng liêng, vừa được nghe được giọng của Người đọc
Tuyên ngôn Độc lập. Hình ảnh ấy, giọng nói ấy tác động mạnh mẽ đến tình cảm
của các em và lưu giữ lại trong trí nhớ của các em lâu hơn.
- Ứng dụng công nghệ thông tin để tìm hiểu hình ảnh lịch sử.
Ví dụ: Mục V, bài 28 - Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh
chống đế quốc Mĩ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam (1954 - 1965). Khi
trình bày về cuộc đấu tranh trên mặt trận chính trị của quân và dân ta trong chiến
đấu chống chiến lược "chiến tranh đặc biệt". Phong trào đã thu hút đông đảo các
tầng lớp tham gia. tôi chiếu hình ảnh sau đây và hỏi: Các em cho biết, đây là ai
và đang làm gì ? (Hòa thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu để phản đối chính
quyền Diệm)
Hòa thượng
Thích Quảng Đức tự thiêu
T¸c gi¶: Cao ThÞ Thu H-¬ng
14
Trường THCS Giao TiÕn
Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy và học môn Lịch sử ở trường THCS.
? Bức ảnh nói lên điều gì (lòng dũng cảm, tinh thần kiên quyết đấu tranh
chống chính quyền Diệm của nhân dân ta...). Như vậy, bức ảnh đã khiến các em
rất tò mò, xúc động và mong muốn khám phá nội dung của nó.
* Phương pháp thảo luận nhóm.
Thảo luận nhóm là hoạt động diễn ra thường xuyên trong các giờ học,
nhưng giờ nào giáo viên cũng có hình thức tổ chức thảo luận như nhau sẽ dẫn
đến sự nhàm chán, không kích thích được hứng thú làm việc của học sinh. Vì
vậy, tôi đã thay đổi hình thức thảo luận như sau:
Đối với những câu hỏi dễ, bắt buộc các nhóm phải trả lời theo chỉ định của
giáo viên, hoặc giáo viên gọi trả lời trên tinh thần xung phong, nhưng không ghi
điểm.
Đối với những câu hỏi khó, tôi tổ chức thi giữa các nhóm và tiến hành như sau:
Trước hết, tôi nêu câu hỏi, sau đó đưa ra thể lệ cuộc thi:
"Để xin trả lời, một đại diện nhóm phải giơ tay, nhóm nào có tín hiệu sớm
nhất sẽ giành được quyền trả lời. Nếu người đại diện trả lời đúng câu hỏi, cả
nhóm sẽ được ghi điểm vào kiểm tra miệng, nhưng số điểm không đều nhau mà
giảm hoặc tăng dần theo mức độ đóng góp của từng thành viên, trong đó người
làm nhiệm vụ trả lời sẽ được điểm cao nhất. Nếu nhóm trước trả lời không đúng,
cơ hội sẽ giành cho nhóm tiếp theo. Tuy vậy, dù nhóm này có trả lời đúng vẫn bị
trừ đều mỗi thành viên một điểm, vì chưa có câu trả lời nhanh nhất". Tôi đã áp
dụng một số câu hỏi để thảo luận thi giữa các nhóm, ví dụ như:
? Mục đích các chính sách chính trị, văn hoá giáo dục của thực dân Pháp ở
Việt Nam (phục vụ công cuộc khai thác, bóc lột và củng cố bộ máy cai trị ở
thuộc địa), (Tiết 16 - Bài 14 - Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ nhất)
? Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc có gì mới và khác lớp người
đi trước (các nhà yêu nước như: Phan Bội Châu tìm sang các nước phương
Đông như Nhật Bản, Trung Quốc gặp gỡ các chính khách của nước đó, xin họ
giúp Việt Nam đánh Pháp và chọn phương pháp đấu tranh bạo động. Phan Chu
Trinh chủ trương ôn hòa. Nguyễn Ái Quốc chủ trương sang phương Tây, nơi có
tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, có khoa học kĩ thuật phát triển. Trong quá
trình đó, Người bắt gặp chân lí cứu nước của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và xác
định con đường cứu nước theo Cách mạng tháng Mười Nga, con đường duy
nhất đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại), (Tiết 19 - Bài 16 Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài trong những năm 1919 - 1925)
T¸c gi¶: Cao ThÞ Thu H-¬ng
15
Trường THCS Giao TiÕn
Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy và học môn Lịch sử ở trường THCS.
? Thành quả của Cách mạng tháng Tám 1945 là gì (giành được
quyền), (Tiết 28 - Bài 23 - Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự
lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)
? Thành quả của chiến dịch Hồ Chí Minh là gì (giải phóng miền
thống nhất đất nước), (Tiết 46 - Bài 30 - Hoàn thành giải phóng miền
thống nhất đất nước (1973 - 1975)) ...
chính
thành
Nam,
Nam,
Lưu ý:
Đối với những câu hỏi khó cần được khuyến khích, giáo viên không nên
cho điểm dưới 5. Nếu những em điểm 5; 6; 7 muốn chờ cơ hội khác lấy điểm
cao hơn, thì giáo viên cũng không ghi điểm vào sổ.
Trong một bài, giáo viên chỉ nên tổ chức thi một câu để tránh mất nhiều
thời gian.
* Sử dụng yếu tố văn thơ trong dạy học lịch sử.
Rất nhiều môn học có thể hỗ trợ cho việc dạy và học lịch sử. Trong đề tài
này, tôi chỉ nêu lên một số kinh nghiệm về việc sử dụng yếu tố văn thơ và âm
nhạc để tạo hứng thú cho học sinh trong môn học Lịch sử.
Trong thực tế, khi tôi sử dụng thơ để hỗ trợ cho bài giảng, tôi thấy các em
chăm chú lắng nghe, có khi tôi đọc đã xong các em còn yêu cầu đọc tiếp. Điều
đó chứng tỏ sử dụng thơ vào giờ học lịch sử đã tạo được hứng thú cho học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài 27 - Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp
xâm lược kết thúc (Lịch sử 9), sau khi dạy xong, tôi đọc bài thơ Hoan hô chiến
sĩ Điện Biên, để củng cố nhận thức của học với những câu thơ như sau:
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng, đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm
Mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai, ào ào vũ bão
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt còn ôm
T¸c gi¶: Cao ThÞ Thu H-¬ng
16
Trường THCS Giao TiÕn
Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy và học môn Lịch sử ở trường THCS.
Những bàn tay xẻ núi, lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta ra chiến trường tiếp viện
Và những chị, những anh, ngày đêm ra tiền tuyến
Mấy tầng mây, gió lớn, mưa to
Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát
Dù bom đạn xương tan thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh...
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên - Tố Hữu)
Tôi vừa đọc, vừa dừng lại nêu câu hỏi hoặc phân tích một số ý quan trọng.
Ví dụ, khi đọc xong câu: "Những đồng chí thân chôn làm giá súng", tôi nêu câu
hỏi: " Em có biết, trong chiến dịch Điện Biên Phủ ai là người đã lấy thân mình
làm giá súng ?". Khi đọc xong câu "Đầu bịt lỗ châu mai", tôi lại hỏi:" Ai là
người đã xông lên bịt lỗ châu mai để chặn đứng hỏa lực địch?" Khi đọc xong
câu "Những đồng chí chèn lưng cứu pháo. Nát thân, nhắm mắt còn ôm", tôi lại
hỏi:" Ai là người chèn lưng cứu pháo ?" ... Các em sẽ khắc sâu được hình ảnh hi
sinh dũng cảm của các chiến sĩ và xúc động, tự hào về truyền thống dân tộc.
Dạy bài 29 - Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ cứu nước (1965 - 1968)
(Lịch sử 9), khi nói về đường Trường Sơn - tuyến đường vận chuyển chiến lược
Bắc - Nam, tôi đọc cho học sinh nghe một đoạn thơ sau:
Trường Sơn xẻ dọc, rọc ngang
Xẻng tay mà viết nên trang sử hồng
Trường Sơn vượt núi, băng sông
Xe đi trăm ngả, chiến công bốn mùa
Trường Sơn, đông nắng, tây mưa
Ai chưa đến đó, như chưa rõ mình
(Nước non ngàn dặm - Tố Hữu)
Sau khi đọc xong, tôi nêu câu hỏi: "Qua đoạn thơ trên, em có suy nghĩ gì về
tuyến đường Trường Sơn trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta ?".
Học sinh có thể không hiểu đầy đủ nội dung của đoạn thơ, song giáo viên cần
phải bổ sung cho các em. Tuy nhiên, với giọng đọc truyền cảm, có lúc hùng hồn,
có lúc thiết tha của giáo viên sẽ khiến các em xúc động trước một con đường
T¸c gi¶: Cao ThÞ Thu H-¬ng
17
Trường THCS Giao TiÕn
Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy và học môn Lịch sử ở trường THCS.
huyền thoại. Như vậy, giáo viên đã tạo được hứng thú cho các em trong giờ học
lịch sử. Sự tiếp nhận kiến thức như vậy sẽ làm cho các em nhớ lâu hơn, ấn tượng
hơn.
Để làm được điều này, giáo viên phải biết sưu tầm các bài thơ hay, các câu
thơ hay có liên quan đến các sự kiện lịch sử và biết sử dụng một cách hợp lí, có
hiệu quả. Khi sử dụng thơ vào dạy học lịch sử cần chú ý, phải chọn lọc những
đoạn, những câu phù hợp với bài học, phù hợp với khả năng hiểu biết của các
em, không nên đọc hết một bài thơ quá dài vừa làm mất nhiều thời gian của giờ
học, vừa làm cho các em cảm thấy nhàm chán. Giáo viên không nên tham lam,
sử dụng quá Giáo viên cần chú ý đọc diễn cảm, thể hiện ngữ điệu phù hợp với
từng câu thơ. nhiều thơ vào dạy học lịch sử và cũng tránh phân tích quá sâu làm
sai mục đích của việc sử dụng kiến thức liên môn. Giáo viên phải rèn luyện cách
đọc thơ, nếu đọc không hay cũng không thể tạo hứng thú cho học sinh.
* Sử dụng yếu tố âm nhạc trong dạy học lịch sử.
Từ xa xưa, nhân dân ta đã biết sử dụng thơ ca để truyền đạt thông tin, vì
thông tin qua hình thức đó làm cho người nghe, người đọc dễ thuộc, dễ nhớ, dễ
đi vào lòng người.
Trong thực tế, âm nhạc đã từng làm nên những điều kì diệu, âm nhạc có thể
làm thay đổi cảm xúc của con người. Con người thường dùng âm nhạc để ca
ngợi cái đẹp và hướng tới cái đẹp, vì vậy đã có rất nhiều ca khúc, ca ngợi các
anh hùng dân tộc, ca ngợi những chiến công, ca ngợi tinh thần vượt qua khó
khăn gian khổ, sự hi sinh anh dũng của quân và dân ta trong lịch sử chống ngoại
xâm. Một bài hát với lời ca rộn ràng, hùng tráng phù hợp với nội dung bài học,
được dạo lên trước một giờ học mới sẽ làm vơi đi sự mệt mỏi, tạo sự sảng khoái
để bước vào một giờ học hiệu quả hơn, đồng thời còn có tác dụng giáo dục lòng
yêu nước, niềm tự hào dân tộc. Vì vậy, tôi đã sử dụng yếu tố âm nhạc vào dạy
học lịch sử.
Ví dụ, khi dạy bài khi dạy bài 27 - Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực
dân Pháp xâm lược kết thúc ( Lịch sử 9), sau khi kiểm tra bài cũ, tôi cho các em
nghe một đoạn ngắn bài hát "Giải phóng Điện Biên" (Đỗ Nhuận) rồi giới thiệu
bài mới. Bài hát mang âm hưởng làn điệu dân ca Tây Bắc dặt dìu và làn điệu
chèo mượt mà của đồng bằng Bắc Bộ, với tiếng kèn thắng trận hùng tráng. Nhịp
T¸c gi¶: Cao ThÞ Thu H-¬ng
18
Trường THCS Giao TiÕn
Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy và học môn Lịch sử ở trường THCS.
điệu âm nhạc tropng bài hát là nhịp chân điệu múa xòe hoa của các cô gái Thái,
xen lẫn nhịp bước hành quân của các chiến sĩ Điện Biên. Bài hát sẽ tạo một tâm
trạng sôi nổi háo hức, để các em đi vào bài học một cách hứng thú hơn.
Khi dạy bài 30 - Hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
(1973 - 1975) ( Lịch sử lớp 9) sau khi kiểm tra bài cũ, tôi cho các em nghe một
đoạn ngắn bài hát "Giải phóng miền Nam" (Lưu Hữu Phước) rồi giới thiệu bài
mới. Nội dung bài hát là lời thôi thúc, cổ vũ, hiệu triệu toàn quân, toàn dân ta
tiến lên tiêu diệt kẻ thù. Như vậy, ngay từ đầu đã tạo được không khí phấn khởi
cho các em. Khi dạy xong bài 30 - Hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước (1973 - 1975) (Lịch sử lớp 9), tôi cho các em nghe bài hát "Như có Bác
trong ngày đại thắng" (Phạm Tuyên) hoặc bắt nhịp cho cả lớp cùng hát. Nội
dung bài hát thể hiện niềm tự hào, niềm vui chiến thắng nên các em sẽ cảm thấy
vui và phấn chấn hơn sau một giờ học. Điều đó sẽ giúp các em hứng thú trong
học tập, thêm yêu cuộc sống, yêu quê hương, đất nước.
Lưu ý: Khi sử dụng yếu tố âm nhạc vào dạy học lịch sử phải lựa chọn
những bài hát phù hợp với nội dung bài học, phải theo quan điểm của Đảng, phù
hợp với khả năng cảm thụ âm nhạc của lứa tuổi học sinh, không lạm dụng yếu tố
âm nhạc vào dạy học lịch sử.
Một số điều cần lưu ý khi dạy học nói chung và dạy lịch sử nói riêng, đó là:
Giáo viên phải diễn đạt rõ ràng, dễ hiểu, cần tránh lối nói mập mờ, khó hiểu,
tránh giải thích vấn đề một cách trừu tượng, rắc rối. Sức mạnh của lời nói là ở
chỗ ngắn gọn, ít từ mà xúc tích. Tuy nhiên, ngắn gọn không có nghĩa là không
được nói dài, mà là không nói thừa. Nói như vậy bài trình bày của giáo viên vừa
chặt chẽ, dễ hiểu, vừa tiết kiệm được thời gian. Để trình bày ngắn gọn, điều
quan trọng đầu tiên là giáo viên không nên bắt đầu bằng những lời lan man, lạc
đề, mà phải bám sát vào yêu cầu của bài giảng. Đặc biệt giáo viên nên tránh nói
dài, nói dai, lặp đi lặp lại những điều đã trình bày. Trình bày ngắn gọn nhưng
câu nói phải đủ ý và dễ hiểu, nếu cô đọng quá, vắn tắt quá sẽ làm học sinh khó
hiểu.
Diễn đạt tốt là phải thu hút người nghe vào bài giảng của mình, khắc sâu
vào trí nhớ của họ những vấn đề cần thiết. Cho nên điều quan trọng trong diễn
đạt là lời nói phải sinh động, có hình ảnh. Muốn đạt được điều này, giáo viên
phải biết sử dụng ngôn ngữ.
T¸c gi¶: Cao ThÞ Thu H-¬ng
19
Trường THCS Giao TiÕn
Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy và học môn Lịch sử ở trường THCS.
Để cuốn hút học sinh vào bài giảng, giáo viên còn phải chú ý đến ngữ điệu.
Ngữ điệu có tác dụng rất lớn tới chất lượng bài giảng. Lời nói đều đều khi giảng
một bài lịch sử sẽ làm cho học sinh dễ buồn ngủ. Đây là một nguyên nhân làm
cho bài học trở nên nhạt nhẽo, khô khan, không hấp dẫn. Lời nói của giáo viên
trong mỗi bài lịch sử cần thể hiện tình cảm của mình thông qua ngữ điệu diễn
đạt thích hợp với nội dung bài. Ngữ điệu phong phú của giáo viên để truyền đạt
hết các sắc thái tình cảm thông qua từng nội dung kiến thức có sức hấp dẫn lôi
cuốn, khiến cho học sinh say sưa quên thời gian, hết tiết học các em còn cảm
thấy luyến tiếc, chứng tỏ các em đang hứng thú học tập.
Nhịp độ nói của giáo viên cũng có ý nghĩa quan trọng trong bài giảng. Nhịp
độ nói của thầy phải ăn khớp với nhịp độ tư duy của học sinh. Thầy phải thường
xuyên theo dõi biểu hiện trên nét mặt của học sinh để biết được các em có theo
kịp bài giảng hay không. Khi trình bày những phần khó, giáo viên cần nói với
nhịp độ chậm. Đặc biệt khi trình bày một kết luận, định nghĩa, nguyên lí...nhất
thiết phải nói chậm. Không phải chỉ nói chậm là quan trọng mà cả việc sắp xếp
trọng âm, lên giọng, xuống giọng, dừng lại để nhấn mạnh ý nghĩa của toàn bộ sự
khái quát cũng như từng phần riêng rẽ của nó.
3. Điều kiện thực hiện giải pháp.
Để thực hiện tốt những phương pháp trên, yêu cầu phải có các điều kiện sau đây:
- Phải có máy vi tính nối mạng Internet và màn hình trình chiếu
- Giáo viên nhiệt tình, tâm huyết với nghề, không ngừng học tập nâng cao trình
độ chuyên môn, biết ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, có kĩ năng
diễn đạt lưu loát, ngữ điệu phong phú.
4. Mối quan hệ giữa các giải pháp.
Trong một bài giảng các phương pháp, phương tiện dạy học thường hỗ trợ
cho nhau, có mối quan hệ với nhau. Cụ thể trong đề tài này, công nghệ thông tin
đã hỗ trợ hình ảnh trực quan về sự vật, sự kiện lịch sử cho miêu tả, tường thuật
nên học sinh dễ hình dung, nhận biết. Ngược lại việc miêu tả, tường thuật của
giáo viên sẽ làm rõ bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử qua hình ảnh trực
quan mà công nghệ thông tin đem lại.
Công nghệ thông tin cũng hỗ trợ cho phương pháp liên môn như: Qua
mạng Internet có thể tìm kiếm các hình ảnh, tư liệu về thành tựu của các ngành
khoa học như khoa học vũ trụ, y học, nông nghiệp, giao thông vận tải và thông
tin liên lạc...mà môn Lịch sử đề cập đến.
T¸c gi¶: Cao ThÞ Thu H-¬ng
20
Trường THCS Giao TiÕn
- Xem thêm -