Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sáng kiến kinh nghiệm một số kinh nghiệm khi sử dụng phương pháp trực quan trong...

Tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm một số kinh nghiệm khi sử dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy môn gdcd ở trường thpt

.PDF
25
180
137

Mô tả:

S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên s Một số kinh nghiệm khi sử dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy môn GDCD ở trường THPT áng kiến: “Một số kinh nghiệm khi sử dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy môn GDCD ở trường THPT” 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giảng dạy môn GDCD ở trường THPT 3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ ngày 15 tháng 08 năm 2014 đến ngày 23 tháng 5 năm 2015. 4. Tác giả: Họ và tên: Nguyễn Tiến Phương Năm sinh: 31/10/1978 Nơi thường trú: Xóm 3, Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam Định Trình độ chuyên môn: Cử nhân Giáo dục Chính trị Chức vụ công tác: Chi ủy viên - Bí thư Đoàn trường Nơi làm việc: Trường THPT Xuân Trường Địa chỉ liên hệ: Trường THPT Xuân Trường, Xã Xuân Hồng , Huyện Xuân Trường, Tỉnh Nam Định Điện thoại: 0915.304.404 Tỉ lệ đóng góp: 100% 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: Trường THPT Xuân Trường 1 T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph-¬ng S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi Địa chỉ: Xã Xuân Hồng , Huyện Xuân Trường, Tỉnh Nam Định Điện thoại: 0350.3886.167 I. ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Như chúng ta đã biết, môn Giáo dục công dân là một môn khoa học xã hội trong trường THPT. Cùng với các môn khoa học khác, nó góp phần đào tạo những người lao động mới vừa có tri thức khoa học, vừa có đạo đức, vừa có năng lực hoạt động thực tiễn, vừa có phẩm chất chính trị, tư tưởng, vừa có ý thức trách nhiệm đối với cộng đồng, đối với gia đình và đối với chính bản thân mình. Không thể đào tạo những con người lao động mới, phát triển toàn diện khi chỉ chú ý tới việc giáo dục trí dục, bỏ qua hoặc coi thường các mặt khác. Hơn nữa, môn GDCD không chỉ cung cấp cho những công dân tương lai những tri thức vừa khái quát hóa, mà còn thông qua môn học, giúp cho người học hình thành và phát triển phương pháp suy nghĩ và hành động phù hợp với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội. 2 T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph-¬ng S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi Tuy nhiên, hiện nay trong các nhà trường THPT, môn GDCD theo quan niệm truyền thống của một số người, trong đó có cả giáo viên, học sinh và các nhà quản lý giáo dục thì coi nó là môn phụ. Chính điều này, đã dẫn đến tình trạng, giáo viên bộ môn GDCD mặc cảm, không tâm huyết với môn dạy, còn học sinh thì xem nhẹ, con thường, không chú ý học bộ môn. Hơn nữa, bắt đầu từ năm nay, chúng ta bỏ kỳ thi tốt nghiệp THPT chỉ còn mỗi kỳ thi THPT quốc gia, ngoài những môn thi bắt buộc ra như (Văn, Toán, Ngoại ngữ) thì học sinh được thi một môn tự chọn. Như vậy, sẽ còn có một số môn học khác nữa cũng giống như môn GDCD, học sinh sẽ thờ ơ không tập trung chú ý học, mà chỉ tập trung vào những môn mà mình thi sau này. Thực trạng trên, đã gây ra không ít khó khăn đối với giáo viên khi dạy các bộ môn mà học sinh không thi ở trên lớp chứ không riêng gì môn GDCD. Xuất phát từ lý do trên, để đảm bảo được mục tiêu giáo dục toàn diện và nhiệm vụ của bộ môn, thì đòi hỏi các giáo viên dạy bộ môn phải thường xuyên nắm bắt tâm lý, tư tưởng của học sinh, sử dụng hiệu quả nhiều phương pháp, hình thức dạy học để tạo hứng thú cho học sinh khi học bài. Làm sao để các em mỗi khi đến giờ học môn mình dạy, các em cảm thầy hào hứng chứ không tỏ ra chán nản. Chính vì vậy, bằng thực tiễn trải qua nhiều năm giảng dạy về bộ môn, tôi xin mạnh dạn chia sẻ những kinh nghiệm của mình qua đề tài: “Một số kinh nghiệm khi sử dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy môn GDCD ở trường THPT”. II. THỰC TRẠNG 3 T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph-¬ng S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi 1. Thực trạng (trước khi tạo ra sáng kiến) Là một môn khoa học xã hội, môn GDCD trong trường THPT cùng với tất cả các môn khoa học khác, góp phần hình thành và phát triển dần dần nhân cách, năng lực, phẩm chất cho học sinh. Nhưng khác với các môn khoa học khác, môn GDCD hình thành phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức gắn liền với đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giáo dục phẩm chất chính trị, tư tưởng và đạo đức cho học sinh do tất cả các môn học, các hình thức giáo dục của nhà trường thực hiện. Song môn GDCD có nhiệm vụ hết sức quan trọng trong việc giáo dục đó. Nó có thể trực tiếp giáo dục cho học sinh những tri thức về thế giới quan một cách tương đối có hệ thống, toàn diện, giúp cho học sinh hiểu đúng quy luật phát triển tất yếu của tự nhiên, xã hội và của tư duy, giúp cho học sinh nhận thức đúng đắn cuộc sống của cá nhân và cộng đồng phải phù hợp với quy luật khách quan của sự phát triển lịch sử xã hội, giúp các em biết sống trong điều kiện cụ thể của bản thân, gia đình và xã hội luôn có ý thức vươn tới những cái cao đẹp. Tuy nhiên, hiện nay bộ môn GDCD trong các nhà trường phổ thông lại không được coi trọng để thực hiện đúng nhiệm vụ của nó. Các phương tiện, đồ dùng dạy học liên quan đến bộ môn hầu như không được trang bị. Hàng năm, các môn học khác được các cấp, các ngành giáo dục đầu tư, cung cấp các trang thiết bị, phương tiện, đồ dùng để phục vụ cho công tác dạy và học cũng như đổi mới phương pháp giảng dạy. Nhưng môn GDCD dân thì không được đầu tư gì cả. Về phía học sinh, thì từ xưa đến nay, vẫn coi đây là môn học phụ chỉ thuần 4 T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph-¬ng S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi túy giáo dục về đạo đức, tư tưởng...Các nhà quản lý giáo dục cũng xem nhẹ bộ môn, trong các đợt hội giảng chào mừng các ngày lễ lớn trong năm, ở các nhà trường, thường hay tập trung vào các môn mũi nhọn như Văn, Toán, Lý, Hóa, Ngoại Ngữ... còn môn GDCD thì họa may trong năm mới được dạy hội giảng có một lần. Ngoài ra, các môn học khác, như ở các năm trước đều có cơ hội được dạy thêm để tăng thu nhập như môn Tin học, Công nghệ được dạy nghề, môn Thể dục được dạy đội tuyển để thi học sinh Giỏi TDTT hàng năm và có phụ cấp ngoài trời, còn môn GDCD thì chỉ thuần túy dạy theo phân phối chương trình các giờ chính khóa, không có cơ hội để dạy thêm để tăng thêm thu nhập. Cho nên, việc đầu tư cho bộ môn của một số giáo viên dạy là rất ít, họ chủ yếu lên lớp để dạy cho hết giờ dẫn đến tình trạng bình thường học sinh đã rất chán học bộ môn, nay lại càng chán hơn khi thấy một số thầy cô cũng không thực sự tâm huyết với môn mình dạy. Mặt khác, các nội dung tri thức trong môn GDCD đa số mang tính trừu tượng, khái quát hóa, phổ biến cao và gắn chặt với đời sống hàng ngày, tác động thường xuyên tới suy nghĩ và hành động của học sinh. Xuất phát từ thực trạng trên, để khôi phục lại vị trí của môn GDCD trong các nhà trường phổ thông cũng như tạo hứng thú cho các em học sinh khi được học bộ môn này, thì đòi hỏi các giáo viên phải có sự đầu tư trong phương pháp giảng dạy, cụ thể như sử dụng có hiệu quả các hình thức trực quan kết hợp với các phương pháp khác khi giảng dạy bộ môn của mình. 5 T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph-¬ng S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi 2. Các giải pháp (Sau khi có sáng kiến) 2.1 Quan niệm về phương pháp trực quan - Trực quan là phương pháp giảng dạy, trong đó giáo viên sử dụng các phương tiện dạy học tác động trực tiếp đến cơ quan cảm giác của học sinh để đạt được chất lượng giảng dạy cao. Phương pháp trực quan được sử dụng rộng rãi trong tất cả các môn học ở trường THPT. Bất kỳ giáo viên bộ môn nào cũng sử dụng nó vào giảng dạy nhằm truyền thụ kiến thức và giúp học sinh lĩnh hội kiến thức tốt. Nhưng tùy theo nội dung kiến thức, đặc điểm của từng môn học, đối tượng, kinh nghiệm giảng dạy và những điều kiện cụ thể, mỗi giáo viên có cách vận dụng riêng phương pháp này. Là môn học trang bị cho học sinh một cách tương đối có hệ thống những kiến thức phổ thông, cơ bản, thiết thực về triết học, đạo đức, pháp luật, những vấn đề của thời đại, lí luận về nhà nước và pháp quyền, những vấn đề về xây dựng và phát triển đất nước của Đảng trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, môn GDCD trực tiếp hình thành thế giới quan khoa học, quan điểm sống nhân đạo...ở học sinh. Thông qua khối lượng kiến thức cần trang bị cho học sinh không nhỏ, tác động thường xuyên tới suy nghĩ và hành động của các em để thực hiện nhiệm vụ đó là việc làm không dễ dàng. Vì thế, phương tiện trực quan được sử dụng ở bộ môn này có những điểm khác với phương tiện trực quan ở các môn học khác về cả hình thức lẫn tính chất. Trong giảng dạy bộ môn, giáo viên có thể sử dụng các phương tiện trực quan hoặc tổng hợp các phương tiện trực quan của 6 T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph-¬ng S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi các môn học khác và cũng có thể sử dụng những tri thức học sinh tiếp thu được trong cuộc sống làm phương tiện trực quan. Mặt khác, thông qua giảng dạy, giáo viên còn giúp học sinh biến kiến thức thành niềm tin có cơ sở khoa học, thành lẽ sống và hành động thực tế trong cuộc sống hiện tại và tương lai của các em. Một điểm không kém phần quan trọng là, trong khi sử dụng phương pháp trực quan giáo viên hướng dẫn học sinh biết cách tổng hợp, khái quát những tư liệu thực tế thành lí luận, tức là hình thành và phát triển tư duy, nhận thức khoa học cho học sinh. Truyền thụ và lĩnh hội tri thức bằng phương tiện trực quan của giáo viên và học sinh bắt nguồn từ lí luận nhận thức của triết học duy vật biện chứng. Điểm xuất phát của quá trình nhận thức - nhận thức thông thường và nhận thức khoa học - đều là thực tiễn. Đồng thời thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức, kiểm tra chân lí. Vì thế quá trình nhận thức có thể biểu diễn qua sơ đồ sau: Thực tiễn nhận thức thực tiễn, quá trình này diễn ra liên tục không ngừng trong cuộc sống của con người. Nhưng con đường nhận thức biện chứng lại trải qua hai giai đoạn: Nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính. Trong nhận thức cảm tính, càng có nhiều cơ quan thụ cảm tham gia vào quá trình phản ánh các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan càng làm cho hiểu biết của con người đầy đủ, toàn diện, chính xác hơn, tạo ra cơ sở vững chắc cho nhận thức lí tính. Đối với tri thức khoa học phổ biến và trừu tượng như tri thức của môn GDCD, khi năng lực nhận thức của học sinh còn bị hạn chế lớn thì việc sử dụng phương tiện dạy học trực quan lại càng cần thiết. Phương tiện trực quan càng 7 T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph-¬ng S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi gần gũi với cuộc sống của học sinh, càng gắn bó với kiến thức đã thu nhận được của các em sẽ càng tăng thêm tác dụng tích cực của các phương tiện đó. Mặt khác, một trong những nhiệm vụ của nhận thức khoa học là khái quát cái chung, cái bản chất, tất yếu của các sự vật, hiện tượng, quá trình cụ thể, làm cho con người mở rộng, đào sâu sự hiểu biết của mình. Muốn vậy, con người phải từng bước tích lũy tri thức, phải nhận biết từng cái cụ thể để đi đến tổng hợp thành cái trừu tượng và cái cụ thể trong tư duy. Chính phương tiện dạy học trực quan sẽ giúp đắc lực cho học sinh năng lực nhận thức khoa học. Như vậy, sử dụng tốt phương pháp trực quan trong giảng dạy môn GDCD là hình thành, củng cố con đường nhận thức biện chứng cho học sinh, giúp cho các em phát triển tư duy logic, tư duy khoa học, phương pháp nhận thức khoa học và cải tạo thực tiễn phục vụ lợi ích của chính các em và của xã hội. Nhưng cần lưu ý rằng, trong giáo dục cần hình thành ở học sinh phương pháp nhận thức, tư duy biện chứng, sự kết hợp biện chứng giai đoạn cảm tính và giai đoạn lí tính trong nhận thức, chứ không nên để học sinh hiểu lầm rằng, nhận thức bao giờ cũng bắt đầu từ cảm tính. Ngày nay, với trình độ phát triển cao của khoa học và công nghệ, của nhận thức và tư duy con người, điều này càng quan trọng. Nếu không làm được như vậy, vô hình chung, giáo viên môn GDCD sẽ góp phần hạn chế đáng kể vào sự phát triển tư duy độc lập, sáng tạo của các em học sinh. 2.2 Một số hình thức trực quan trong giảng dạy môn GDCD 2.2.1 Sơ đồ, bản đồ, tranh ảnh, số liệu thống kê: 8 T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph-¬ng S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi - Sơ đồ: Sơ đồ hay lược đồ khoa học có tác dụng rất lớn trong việc hình thành, phát triển, củng cố tri thức và tư duy của học sinh. Mặc dù kiến thức của bộ môn nhất là kiến thức về triết học mang tính khái quát, trừu tượng cao, lý luận có phần đậm nét. Nhưng nếu giáo viên chịu khó tìm tòi, suy nghĩ vẫn có thể xây dựng các sơ đồ nêu lên logic khách quan, mối quan hệ giữa các tri thức, giúp học sinh nắm được tri thức cơ bản nhất, khái quát nhất. Ví dụ: Ngay ở bài mở đầu - Chương trình GDCD lớp 10, tùy theo khả năng lĩnh hội kiến thức bài học của học sinh, sau khi giảng bài xong giáo viên có thể nêu lên sơ đồ sau: Vấn đề cơ bản của triết học: Quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tư duy và tồn tại Mặt thứ 1: Vật chất có trước hay ý thức có trước. Vật chất QĐ ý thức và ngược lại Ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức QĐ vật chất Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất QĐ ý thức Mặt thứ 2: Con người có thể nhận thức được thế giới không ? Con người nhận thức được thế giới Thế giới quan duy tâm Con người không nhận thức được thế giới Thế giới quan duy vật 9 T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph-¬ng S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi Sơ đồ, lược đồ khoa học giáo viên có thể chuẩn bị trước, có thể giảng bài đến đâu, lập đến đó hoặc có thể đưa ra sau khi học sinh đã học xong một bài, một phần, một chương...Khi sử dụng sơ đồ biểu thị quan hệ giữa các phạm trù, khái niệm cần lưu ý tới cách mô hình hóa, không chú ý điều này dễ dàng phạm sai lầm, ảnh hưởng tới quá trình tiếp thu bài giảng của học sinh. - Bản đồ: Thường thường, trong giảng dạy môn GDCD bản đồ chính trị thế giới được sử dụng nhiều nhất. Nếu sử dụng tốt, bản đồ có tác dụng không nhỏ trong việc thu nhận tri thức của học sinh. Việc so sánh sự thay đổi của bản đồ chính trị thế giới trong sự phát triển lịch sử hiện đại của nhân loại sẽ làm cho học sinh thấy rõ sự phát triển của lực lượng cách mạng thế giới, của phong trào giải phóng dân tộc...thấy rõ xu hướng phát triển của lịch sử nhân loại. Ngay bản đồ Việt Nam, nếu biết khai thác sử dụng cũng có tác dụng không nhỏ tới việc truyền thụ tri thức cho học sinh. Trong khi sử dụng bản đồ cần phân biệt từng loại bản đồ (hình thể, chính trị, kinh tế....) và tìm ra được những khía cạnh cần sử dụng, phù hợp với bài giảng. - Tranh ảnh: Là những hình ảnh trực quan gây ấn tượng sâu sắc, tạo ra sự tiếp thu tri thức nhẹ nhàng, xây dựng tình cảm tốt đẹp đối với con người và đất nước cho học sinh. Tranh ảnh rất đa dạng, có nhiều loại khác nhau và có rất nhiều trên mạng Internet, giáo viên chỉ cần mất vài phút vào Google có thể tìm kiếm được rất nhiều loại ảnh cần minh họa cho bài dạy của mình. Song điều cần thiết là phải lựa chọn sao cho phù hợp với nội dung môn học, nội dung bài giảng, biết đưa ra đúng lúc, đúng chỗ trong khi giảng bài. Đây là một nghệ thuật 10 T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph-¬ng S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi khi giảng dạy. Nếu không sử dụng hợp lý sẽ làm hạn chế việc tiếp thu kiến thức bài giảng của học sinh, có khi học sinh chỉ chú ý tới tranh ảnh mà không chú ý tới nội dung bài giảng của thầy. Ngoài việc sử dụng giáo án điện tử ra, thì phương tiện để giáo viên sử dụng tranh ảnh để minh họa cho học sinh có thể thông qua máy chiếu, đây là hình thức dạy học trực quan đang được sử dụng rộng rãi và phổ biến trong các nhà trường. Ví dụ khi dạy bài “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” - Bài 6 GCCD lớp 12. Giáo viên có thể chiếu các hình ảnh thể hiện sự so sánh về quá trình phát triển và thành tựu của Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như sau: Lao động cơ giới Lao động thủ công 11 T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph-¬ng S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi Những thành tựu của sự nghiệp hiện đại hóa đất nước Cao tốc Bắc - Nam Hầm đường bộ qua đèo Hải Vân Có thể nói, sử dụng tốt tranh, ảnh trong giảng dạy bộ môn GDCD vừa đảm bảo cho học sinh tiếp thu tốt tri thức bài học vừa giáo dục thẩm mĩ cho học sinh. Thông qua thẩm mĩ để truyền thụ tri thức là điều hết sức cần thiết. Trong điều kiện hiện nay, chúng ta chưa có bộ sưu tập tranh, ảnh riêng cho bộ môn, chúng ta có thể kết hợp sử dụng các tranh ảnh của các môn học khác như Lí, Hóa, Sinh học, Lịch sử, Địa lí...để minh họa cho bài giảng. Ví dụ như ở bài 15 - GDCD 11: Giáo viên đưa ra một số hình ảnh thể hiện việc tàn phá môi trường của con người: 12 T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph-¬ng S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi Đưa ra một số hình ảnh thể hiện hậu quả của nó đối với sức khỏe con người: 13 T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph-¬ng S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi - Số liệu thống kê: Tuy số liệu thống kê chỉ là những con số, song trong giảng dạy bộ môn GDCD không thể thiếu chúng được. Đó chính là một trong những cơ sở, đôi khi là cơ sở duy nhất để rút ra những kết luận khoa học về sự vận động phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Và cũng vì vậy, khi nêu lên các số liệu thống kê, giáo viên cần rút ra các tri thức kết luận cần thiết phục vụ bài giảng. Ví dụ khi dạy bài 15 - Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại - GDCD lớp 11. Đây là bài có kiến thức mà giáo viên cần phải đưa ra những con số thống kê để so sánh cho học sinh thấy được rõ tính cấp thiết của nó như về vấn đề bùng nổ dân số thế giới, giáo viên có thể đưa ra số liệu thống kê như: Từ giữa thế kỳ XX, dân số thế giới tăng với nhịp độ chưa từng thấy: Năm 1950, dân số thế giới là 2,5 tỉ người, đến năm 1980 là 4,4 tỉ người, đến năm 1987 là 5 tỉ người và hiện nay con số này đã tăng lên hơn 7 tỉ người. Và cứ theo tốc độ gia tăng đó thì đến giữa thế kỷ XXI dân số thế giới sẽ đạt tới con số 9 tỉ người. Từ 14 T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph-¬ng S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi tốc độ gia tăng dân số như trên giáo viên có thể đưa ra những con số thể hiện hậu quả của nó như về tỉ lệ thất nghiệp, nghèo đói cũng gia tăng như có khoảng 25 đến 30% số lao động ở các nước đang phát triển không có việc làm, cả thế giới vẫn còn hơn 1 tỉ người mù chữ... Hoặc khi giáo viên giảng đến vấn đề dịch bệnh hiểm nghèo có thể đưa ra các con số thống kê như: Năm 1980 phát hiện ra người đầu tiên nhiễm HIV, thì đến cuối năm 2000 đã có gần 40 triệu người trên thế giới bị nhiễm...Ở Việt Nam tính đến nay có khoảng 216.254 trường hợp, số bệnh nhân AIDS là 66.533, đã có 68.977 trường hợp tử vong. Tỷ lệ nhiễm HIV toàn quốc theo báo cáo giám sát là 248/100.000 dân. Điện Biên vẫn là tỉnh có tỷ lệ nhiễm HIV trên 100.000 dân cao nhất cả nước (1029), tiếp đến là Thành phố Hồ Chí Minh (682), thứ 3 là Thái Nguyên (632). So sánh tỷ lệ nhiễm HIV/100.000 dân theo khu vực thấy tỷ lệ tại miền Đông Nam Bộ cao nhất cả nước (408/100.000), tiếp đến là khu vực miền núi phía Bắc: 357/100.000 dân... Các số liệu thống kê không thiếu trong các sách báo, tạp chí, mạng Internet...ở đây, đòi hỏi giáo viên cần lưu tâm sưu tập chúng để sử dụng phù hợp trong các bài giảng. 2.2.2 Phim ảnh: Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà phim ảnh chưa được sử dụng trong môn GDCD nhất là các trường ở khu vực nông thôn. Nhưng khi điều kiện cho phép, giáo viên nên triệt để sử dụng phim ảnh (kể cả phim đèn chiếu) để truyền 15 T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph-¬ng S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi thụ kiến thức cho học sinh. Các phim khoa học đều có liên quan chặt chẽ đến tri thức của bộ môn nhất là chương trình lớp 10 và lớp 11. Các phim khác được chiếu rộng rãi đều có liên quan mặt này hay mặt khác của nội dung kiến thức trong môn GDCD. Nguồn các phim liên quan đền bộ môn hiện nay cũng rất sẵn trên mạng Internet, giáo viên có thể tải trong Youtube rất nhiều những đoạn video có liên quan phục vụ cho bài dạy. Đặc biệt là khi giáo viên sử dụng giáo án điện tử thì việc sử dụng các đoạn vi deo để minh họa cho bài giảng là rất cần thiết, thuận lợi và có hiệu quả. Ví dụ như những đoạn video nói về mối quan hệ giữa bạn bè cùng giới, khác giới rất thích hợp khi giáo viên dạy bài Tình bạn, Tình yêu trong chương trình GDCD lớp 10. Tuy nhiên, khi sử dụng phim ảnh, giáo viên cần hướng dẫn học sinh biết cách suy nghĩ, phân tích, tiếp thu nội dung của phim. Điều này, không chỉ làm cho tri thức khoa học của học sinh phong phú, mà còn giúp cho tư duy của học sinh phát triển, nâng cao nhận thức tiếp cận tri thức khoa học hiện đại, mở ra khả năng phát triển trí tuệ của học sinh. Trong khi sử dụng phim, có thể sử dụng toàn bộ cuốn phim hay trích đoạn cuốn phim để phục vụ cho từng vấn đề của bài giảng. Đáng tiếc là hiện nay, chúng ta chưa có phim giáo khoa phục vụ riêng cho môn GDCD. Nhưng kinh nghiệm của các nước tiên tiến cho thấy phim giáo khoa có hỗ trợ rất lớn đối với giáo viên trong giảng dạy và giúp học sinh hiểu được vấn đề sâu hơn, rộng hơn. Đồng thời, phim giáo khoa được sử dụng tốt sẽ 16 T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph-¬ng S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi định hướng, tập trung suy nghĩ, gây hứng thú, kích thích tiềm năng trí tuệ của học sinh. 2.2.3 Sử dụng máy vi tính (giáo án điện tử) trong giảng dạy. Như chúng ta đã biết, hiện nay, máy vi tính đã được sử dụng trong mọi ngành khoa học, trong hoạt động kinh tế, trong quản lí và điều hành hoạt động xã hội, trong các hoạt động của con người. Đặc biệt là khi môn Tin học đã được đưa vào trong chương trình giáo dục phổ thông thì máy tính đã được các nhà trường phổ thông sử dụng làm phương tiện và công cụ giảng dạy của giáo viên. Tuy nhiên, để có được một giáo án điện tử cho một tiết dạy, đòi hỏi giáo viên phải đầu tư về mặt thời gian, trí tuệ để soạn giảng thông qua phần mềm Powerpont. Đồng thời, bản thân giáo viên phải biết sử dụng máy tính có kiến thức về tin học mới có thể đưa các dữ liệu liên quan đến tiết dạy vào phần mềm để soạn thành giáo án. Có thể nói, giáo án điện tử, nó giúp giáo viên sử dụng được tất cả các hình thức trực quan từ việc vẽ sơ đồ, lược đồ, tranh ảnh, đến các đoạn phim...liên quan đến nội dung bài giảng thông qua việc kết nối máy tính với máy chiếu. Tuy nhiên, khi sử dụng giáo án điện tử, giáo viên không nên phụ thuộc hoàn toàn vào nó, mà phải kết hợp với bảng viết để tổng hợp, củng cố kiến thức cho học sinh. Bởi vì, nhiều khi học sinh chỉ chú ý tới các hình ảnh, dữ liệu trên màn chiếu mà không chú ý tới nội dung, kiến thức bài giảng, như vậy sẽ ảnh hưởng tới chất lượng của tiết học cũng như việc tiếp thu tri thức của học sinh. 17 T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph-¬ng S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi Mặt khác, để sử dụng được giáo án điện tử còn phụ thuộc vào điều kiện, cơ sở vật chất của mỗi nhà trường. Điều đó có nghĩa là, các nhà trường phải có các phòng nghe nhìn được trang bị đầy đủ máy móc thiết bị (máy tính, máy chiếu, màn chiếu...), giáo viên nên phòng chỉ việc cắm USB vào là có thể sử dụng được giáo án điện tử. Không riêng gì đối với bộ môn GDCD, mà cả những bộ môn khác nữa, nếu như giáo viên sử dụng tối đa giáo án điện tử vào giảng dạy thì chắc chắn học sinh sẽ rất hứng thú khi học bài và tiết học sẽ đạt hiệu quả cao. Đối với bộ môn GDCD, trong tình hình hiện nay, thì việc thường xuyên sử dụng giáo án điện tử là rất cần thiết, hầu như bài nào chúng ta cũng có thể soạn giảng bằng giáo án điện tử. Tuy nhiên, như trên đã nói, việc soạn giảng giáo án điện tử đòi hỏi giáo viên phải đầu tư về mặt thời gian để soạn cũng như tìm kiếm các dữ liệu như tranh, ảnh, video...liên quan đến bài giảng để đưa vào soạn giảng. Riêng về vấn đề này cũng không có gì là khó khăn, giáo viên có thể lên mạng vào thư viện bài giảng điện tử tải các bài giảng của bộ môn xuống để tham khảo. Giáo viên vừa có thể tham khảo được kiến thức của bài giảng vừa học luôn cách tạo các hiệu ứng trong phần mềm Powerpont, để từ đó có thể chủ động soạn giảng một giáo án điện tử của riêng mình phục vụ cho công tác giảng dạy. Tóm lại, việc sử dụng giáo án điện tử trong giảng dạy môn GDCD có thể thay thế các phương tiện và công cụ dạy học khác. Giáo án điện tử giúp cho giáo viên bộ môn GDCD chuẩn bị trước những hình thức trực quan cần sử dụng trong bài giảng, từ những tư liệu đơn giản đến những tư liệu hết sức phức tạp. 18 T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph-¬ng S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi Nó có thể giúp cho học sinh thấy rõ sự phát triển của tự nhiên, xã hội, những hệ thống cấu trúc vĩ mô và vi mô, những mô hình quản lí kinh tế và quản lí xã hội ở nước ta và các nước khác....chỉ một động tác ấn nút bàn phím (hoặc kích chuột) đơn giản và nhanh chóng toàn bộ những kiến thức trực quan giáo viên cần trình bày đã hiện ra trước mắt học sinh trên màn chiếu máy tính. Như vậy, giáo viên có thể tận dụng được tối đa thời gian để giảng bài. 2.2.4 Tham quan thực tế Có thể nói, ngoài các hình thức trực quan nêu trên, thì tham quan thực tế cũng là một trong các hình thức trực quan rất có hiệu quả trong giảng dạy bộ môn GDCD. Tham quan có nhiều loại hình khác nhau. Đối với học sinh có thể tổ chức tham quan các cơ sở nghiên cứu khoa học, các di tích lịch sử văn hóa, các viện bảo tàng, các điển hình tiên tiến về mọi mặt của đời sống xã hội, các danh lam, thắng cảnh.... Theo phân phối chương trình của bộ môn, thì mỗi học kỳ đều có 1 đến 2 tiết giành cho thực hành, ngoại khóa. Giáo viên có thể thực hiện theo phân phối chương trình của bộ môn hoặc tổ chức vào các thời gian thích hợp của trường có thể vào dịp các ngày lễ như: 20/11, 22/12, 8/3... Chúng ta cũng không nên nghĩ rằng, việc tổ chức tham quan là rất phức tạp, khó khăn và tốn kém. Tham quan thực tế là phải tổ chức cho học sinh đến một địa danh nào đó ở xa thì mới gọi là tham quan, nếu như vậy thì chúng ta sẽ không bao giờ thực hiện được. Chúng ta có thể tổ chức cho học sinh đi tham quan thực tế các địa danh ở ngay địa phương mình ví dụ như ở trường THPT Xuân Trường có thể tổ chức cho học sinh vào thăm khu lưu niệm nhà Bác 19 T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph-¬ng S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi Trường Chinh chỉ cách trường có mấy trăm mét, hoặc thăm viếng nghĩa trang liệt sỹ ở địa phương vào dịp 27/7 hàng năm để giáo dục truyền thống, giáo dục lý tưởng, truyền thống yêu quê hương đất nước cho học sinh. Hoặc giáo viên có thể tổ chức cho học sinh đi tham quan nhà thờ Phú Nhai, nhà thờ Bùi Chu liên quan đến bài học: Công dân với các vấn đề dân tộc và tôn giáo ở chương trình lớp 12... Có thể nói, trong điều kiện hiện nay, khi cơ sở vật chất cho giảng dạy bộ môn hầu như không có thì việc tổ chức tham quan nhằm nâng cao nhận thức về bộ môn, củng cố tri thức cho học sinh, phát triển năng lực tư duy, khả năng vận dụng tri thức, giáo dục tính tính cực xã hội, đạo đức, tình cảm, thẩm mĩ cho học sinh là rất cần thiết và có thể thực hiện được. Tùy theo điều kiện và khả năng của từng trường, có thể tổ chức những buổi tham quan theo chủ đề nhất định, hoặc kết hợp nhiều chủ đề trong một buổi tham quan. Tuy nhiên, để buổi tham quan đạt kết quả tốt, giáo viên cần phải có sự chuẩn bị chu đáo. Trước khi tổ chức cho học sinh tham quan cần vạch ra kế hoạch chuẩn bị và tiến hành, trong đó nêu lên thời gian, địa điểm, mục đích yêu cầu, nội dung kế hoạch tiến hành...Trong khi chuẩn bị cần nêu rõ những việc phải làm trước, trong và sau khi tham quan. Giáo viên phải hướng dẫn học sinh những nội dung cần ghi nhớ, ghi chép. Tốt nhất sau khi tham quan nên tổ chức cho học sinh thảo luận, viết bài thu hoạch để đánh giá kết quả thu nhận được, những tài liệu, tri thức học sinh lĩnh hội được, kể cả việc rút kinh nghiệm về tổ 20 T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph-¬ng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan