VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TĂNG THỊ THU TRANG
QUYỀN TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TĂNG THỊ THU TRANG
QUYỀN TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số
: 62 38 01 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS Tường Duy Kiên
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi. Nội
dung cũng như các số liệu trình bày trong luận án hoàn toàn trung thực. Những kết
luận khoa học của luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Tăng Thị Thu Trang
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..................................5
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................................5
1.2. Cơ sở lý luận và giả thuyết nghiên cứu ...................................................................18
1.3. Hướng tiếp cận của đề tài ........................................................................................21
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TRẺ EM CÓ
HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ......................23
2.1. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ..................................................................................23
2.2. Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ........................................................................34
2.3. Pháp luật Quốc gia về quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ....................................40
2.4. Pháp luật quốc tế về quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. ......................................44
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TRẺ EM CÓ HOÀN
CẢNH ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ...................................55
3.1. Thực trạng tình hình trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay ...............55
3.2. Thực trạng qui định và thực hiện pháp luật về quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt ở Việt Nam hiện nay. ......................................................................................57
3.3. Đánh giá thực trạng qui định và thực hiện pháp luật về quyền trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay ..................................................................... 105
CHƯƠNG 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN TRẺ EM
CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........... 113
4.1. Quan điểm bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay .... 113
4.2. Giải pháp bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay.... 115
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 140
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 142
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Số liệu trẻ em có HCĐB theo từng năm, giai đoạn 2012-2014 ....................55
Bảng 3.2: Số liệu trẻ em có HCĐB theo vùng, giai đoạn 2012-2014 ........................... 56
Bảng 3.3: Mẫu Báo cáo thống kê số liệu đăng ký khai sinh .........................................61
Bảng 3.4: Trẻ em và trẻ em có HCĐB ..........................................................................62
Bảng 3.5: Trẻ em có HCĐB đã được ............................................................................62
Bảng 3.6: Thống kê các tội xâm hại tình dục trẻ em giai đoạn .....................................82
Bảng 3.7: Bảng so sánh tình hình tội phạm hiếp dâm trẻ em ........................................83
Bảng 3.8: Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ em dưới 5 tuổi phân .......................88
Bảng 3.9: Số lượng trường học, lớp học trong phạm vi cả nước ................................108
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Viết đầy đủ
CRC
:
Công ước quyền trẻ em
DESP
:
Cục Phòng Chống tệ nạn xã hội
ĐKKS
:
Đăng ký khai sinh
HCĐB
:
Hoàn cảnh đặc biệt
ILO
:
Tổ chức Lao động quốc tế
NCS
:
Nghiên cứu sinh
NGOs
:
Tổ chức phi chính phủ
Plan
:
Tổ chức Phát triển cộng đồng lấy trẻ em là trung tâm
UNESCO
:
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá
UNFPA
:
Quỹ Dân số
UNICEF
:
Quĩ Nhi đồng Liên Hợp Quốc
VANH
:
Tổ chức giúp đỡ người tàn tật/khuyết tật
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu về luận án
Hiện nay có nhiều công trình khoa học nói về vấn đề quyền trẻ em và trẻ
em có HCĐB, nhưng để phân tích một cách sâu sắc, toàn diện các vấn đề lý luận
và đánh giá thực trạng qui định, thực hiện pháp luật về quyền trẻ em có HCĐB ở
Việt Nam hiện nay lại là một vấn đề khá mới mẻ. Luận án tập hợp hóa và phân
tích, làm sáng tỏ hơn các vấn đề lý luận về quyền trẻ em, trẻ em có HCĐB như
khái niệm về trẻ em, trẻ em có HCĐB; Phân loại các nhóm quyền trẻ em có
HCĐB theo Công ước Quyền trẻ em và pháp luật Việt Nam; Phân loại và phân
tích cụ thể về từng nhóm trẻ em có HCĐB; đưa ra hệ thống các điều kiện và yếu
tố tác động đến việc bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay. Trên
cơ sở đó, phân tích và đề xuất cách nhìn mới, quan điểm mới về quyền trẻ em có
HCĐB ở Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó, luận án khái quát, đánh giá, đưa ra bức tranh tổng thể về thực trạng
trẻ em có HCĐB, về các qui định của pháp luật và thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật
về quyền trẻ em có HCĐB. Đánh giá các ưu điểm, hạn chế, yếu kém và nguyên nhân.
Từ đó, xác định các quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB. Trên cơ
sở phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền trẻ em có
HCĐB, Luận án đã đưa ra các giải pháp đồng bộ, toàn diện nhằm nâng cao nhận
thức, hoàn thiện pháp luật về quyền trẻ em có HCĐB, tăng cường vai trò của cơ quan
nhà nước, các thiết chế xã hội. Đặc biệt, đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp mang
tính đột phá, như: công tác xã hội hóa bảo vệ quyền trẻ em có HCĐB cũng như tăng
cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này.
2. Lý do chọn đề tài
Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng chính là việc bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em có HCĐB, vấn đề này được coi là yêu cầu có ý nghĩa trong chiến
lược của Đảng, Nhà nước ta và của mỗi gia đình cũng như của cộng đồng xã hội, nó đã
và đang thu hút được sự quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia trên thế giới.
Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có HCĐB ở các nước trên thế
giới cũng như ở Việt Nam được tiến hành bằng nhiều phương tiện, cách thức,
hình thức khác nhau như có thể được sử dụng bằng các qui phạm đạo đức, tập
quán, tín điều tôn giáo, các qui định, nội qui, qui chế trong các tổ chức, trường
học, cộng đồng... đặc biệt có một công cụ được coi là hữu hiệu nhất nhằm ràng
1
buộc quyền và trách nhiệm của các chủ thể khi tham gia các mối quan hệ với trẻ
em có HCĐB đó là pháp luật, nghĩa là việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
có HCĐB không chỉ đơn thuần bằng các qui định, qui tắc thông thường mà đã
được trở thành các qui phạm pháp luật mang tính bắt buộc chung. Vì lẽ đó, Liên
Hợp quốc đã thông qua Tuyên ngôn về Quyền trẻ em năm 1959, tiếp đó Đại Hội
đồng Liên hợp quốc cũng đã thông qua Công ước về Quyền trẻ em vào ngày 20
tháng 11 năm 1989 và Công ước bắt đầu có hiệu lực như Luật quốc tế vào ngày 2
tháng 9 năm 1990. Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và là nước thứ hai trên
thế giới đã phê chuẩn công ước này vào ngày 20 tháng 2 năm 1990. Điều đó thể
hiện sự cam kết mạnh mẽ của Việt Nam với cộng đồng quốc tế về việc bảo đảm
quyền trẻ em có HCĐB trên thực tế.
Ngay sau đó, ngày 12 tháng 8 năm 1991, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa IX,
Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Bảo vệ,
Chăm sóc và Giáo dục trẻ em và Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 16 tháng 8
năm 1991 và được sửa đổi, bổ sung năm 2004. Bên cạnh Luật Bảo vệ, Chăm sóc và
Giáo dục trẻ em, Nhà nước ta còn ban hành và chỉnh sửa hàng loạt các qui định trong
các văn bản pháp luật khác về quyền của trẻ em và trẻ em có HCĐB như Luật hình
sự, Luật Lao động, Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Giáo dục, Luật
Quốc tịch, Luật người khuyết tật, luật phòng chống HIV/AIDS, Luật Phòng, Chống
bạo lực gia đình...
Như vậy, việc bảo đảm quyền của trẻ em và trẻ em có HCĐB ở Việt Nam
hiện nay không chỉ bằng những qui định của pháp luật mà còn thông qua vai trò
trách nhiệm của nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức đoàn thể, các
thiết chế xã hội và các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài… Tuy nhiên
trên thực tế, quyền trẻ em có HCĐB vẫn bị xâm hại nghiêm trọng, việc bảo đảm
quyền của các em còn mờ nhạt, chưa đầu tư và quan tâm thích đáng, do vậy, vẫn
còn tình trạng trẻ em bị xâm hại, lạm dụng, tình trạng lao động trẻ em vẫn còn
diễn ra, nhiều trẻ em phải lang thang kiếm sống hoặc phạm pháp, khuyết tật…
Có thể thấy, tình hình trẻ em có HCĐB ngày càng gia tăng theo các nhóm điển
hình và diễn biến phức tạp với phạm vi rộng. Vì lẽ đó, việc nghiên cứu một cách
toàn diện, sâu sắc vấn đề “Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện
nay” trên cả phương diện lý luận và thực tiễn mang tính cấp thiết và còn là đòi
hỏi thực tiễn hiện nay.
2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
quyền trẻ em có HCĐB và thực tiễn pháp luật ghi nhận, bảo đảm thực hiện các
quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam. Từ đó đề xuất, kiến nghị các giải pháp
nhằm bảo đảm quyền của các em.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án sẽ tập trung làm sáng tỏ 03 nhiệm vụ cơ bản sau:
- Phân tích một cách có hệ thống cơ sở lý luận về quyền trẻ em có HCĐB ở
Việt Nam.
- Thực trạng qui định và thực hiện pháp luật về quyền trẻ em có HCĐB ở
Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam trong
điều kiện hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Phạm vi nội dung
Luận án được nghiên cứu dưới góc độ lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp
luật, trên cơ sở đó tập trung nghiên cứu về một số quyền của một số nhóm trẻ em có
HCĐB ở Việt Nam hiện nay.
4.2.2. Phạm vi không gian và thời gian
Luận án nghiên cứu các số liệu trong phạm vi cả nước, thời gian 5 năm gần
đây (2009-2014).
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
Trên cơ sở tham khảo, kế thừa các nguồn tài liệu khoa học, thực tiễn, xác định
mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể của đề tài. Điểm mới chủ yếu của đề tài là
nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về quyền của trẻ em và trẻ em có HCĐB;
phân tích mối quan hệ biện chứng và sự cần thiết khách quan của việc bảo đảm quyền
trẻ em có HCĐB ở nước ta hiện nay. Đề xuất các giải pháp và biện pháp cụ thể trong
đó nhấn mạnh đến vai trò của nhà nước, các tổ chức xã hội, thiết chế xã hội (gia đình,
trường học…) trong việc bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB.
3
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học: luận án là công trình nghiên cứu trực tiếp và toàn diện
về quyền trẻ em có HCĐB, góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo vệ
quyền trẻ em có HCĐB trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Sau khi hoàn thành, luận án sẽ là công trình khoa học có giá trị
tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập về quyền trẻ em có HCĐB.
Ý nghĩa thực tiễn: luận án là nguồn tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu lý luận và thực tiễn về quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB ở nước ta
hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận án là nguồn tài liệu tham khảo trong công tác
giảng dạy, nghiên cứu, hướng dẫn học tập các môn học về quyền trẻ em, trẻ em có
HCĐB trong các nhà trường và cộng đồng. Đồng thời luận án cũng là nguồn tài liệu
tham khảo đối với công tác kết hợp giữa các cấp, các ngành, đặc biệt là giữa gia
đình, nhà trường và xã hội trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và trẻ em
có HCĐB ở nước ta hiện nay.
Kết quả luận án có ý nghĩa tham khảo cho việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế
bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án có kết
cấu 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và phương pháp
nghiên cứu
Chương 2. Những vấn đề lý luận về quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở
Việt Nam hiện nay.
Chương 3. Thực trạng bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam
hiện nay.
Chương 4. Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt ở Việt Nam hiện nay.
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ
LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Vấn đề quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay đã được nhiều học giả
trong nước và nước ngoài quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ/khía cạnh hay
ngành khoa học khác nhau như tâm lý học, xã hội học, công tác xã hội, hành chính
học, luật học… Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào mang tính toàn
diện, có hệ thống về quyền trẻ em có HCĐB dưới góc độ chuyên ngành lý luận và
lịch sử nhà nước và pháp luật.
Để đạt được mục tiêu đề ra trong luận án là nghiên cứu toàn diện, sâu sắc
về quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam dưới góc độ chuyên ngành lý luận và lịch sử
nhà nước và pháp luật, đề tài được kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu của
các công trình khoa học khác nhau và tiếp tục làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và
thực tiễn về quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở nghiên cứu và tổng hợp của NCS, đã có khá nhiều công trình
nghiên cứu ở cấp độ Tiến sỹ, Thạc sỹ, các công trình khoa học thuộc nhiều cấp khác
nhau đã được in thành sách, giáo trình cũng như các bài viết khoa học, các bản tin
được đăng trên các tạp chí chuyên ngành đề cập nội dung có liên quan đến quyền
trẻ em có HCĐB của các học giả trong và ngoài nước (cập nhật
đến tháng 6/2015) NCS tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
theo các nhóm vấn đề tương ứng với các chương trong nội dung luận án.
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu của đề tài ở Việt Nam
- Nhóm nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền trẻ em có HCĐB như các
khái niệm trẻ em, trẻ em có HCĐB, quyền trẻ em và các khái niệm liên quan, phân
loại các nhóm quyền trẻ em, phân loại các nhóm trẻ em có HCĐB.
Khái niệm về trẻ em, trẻ em có HCĐB, quyền trẻ em và các nhóm quyền của
trẻ em, các nhóm trẻ em có HCĐB… không phải là một vấn đề mới, được mổ xẻ,
được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau như dưới góc độ tâm lý học, triết học,
xã hội học, hành chính học hoặc luật học,… và có thể được đề cập trong các giáo
trình, tài liệu, bản tin, bài báo hay các luận văn, luận án… tuy nhiên, ở góc độ này
hay góc độ khác vấn đề trên còn nhiều tranh cãi, nhiều cách hiểu hay nhiều bình
luận khác nhau, mỗi nhà nghiên cứu có thể dựa vào đặc điểm tâm lý, độ tuổi hay
dựa vào mối quan hệ của trẻ em để xem xét, đây chính là cơ sở để luận án có thể
5
tìm hiểu và phân tích các khái niệm được chặt chẽ hơn, từ đó phát triển và bổ sung
thêm theo hướng nghiên cứu và hoàn thiện dưới góc độ luật học.
Theo góc độ luật học khái niệm trẻ em chủ yếu dựa vào độ tuổi để xác định
như các công trình Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004, NXB Chính
trị Quốc gia; Trung tâm nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, (2009), Giáo trình Quyền trẻ em; GS.TS Võ Khánh Vinh, (2011), Quyền
con người, NXB Khoa học Xã hội. Hoặc ở một số tài liệu khác lại phân tích khái niệm
trẻ em dựa vào từng ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam để luận giải, chẳng
hạn dựa vào luật hình sự, dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình, luật hành
chính… Những nghiên cứu trên đã khẳng định độ tuổi nêu trong khái niệm “trẻ em”
hiện nay được qui định trong pháp luật vẫn còn khác nhau, thậm chí chồng chéo nhau,
vì thế, không dễ để mọi người trong xã hội hiểu chính xác về độ tuổi trẻ em mà pháp
luật quy định. Từ đó có thể dẫn đến những hậu quả pháp lý khó lường.
Ở những nghiên cứu trên, NCS đã kế thừa khái niệm trẻ em theo các góc
độ và các ngành luật để phân tích và đưa vào luận án. Từ đó, NCS có thể xây
dựng một khái niệm theo quan điểm của riêng mình về trẻ em đó là: trẻ em là công
dân Việt Nam dưới 18 tuổi, còn non nớt về khả năng nhận thức và điều khiển hành
vi, có đầy đủ các quyền của con người về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn
hóa, đồng thời các em cũng có những quyền đặc thù theo lứa tuổi của mình.
Khái niệm trẻ em có HCĐB được đề cập ở một số công trình nghiên cứu có
thể kể đến như Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004, NXB Chính
trị Quốc gia; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, (2007), Chính sách và dịch vụ
xã hội đối với các nhóm yếu thế, NXB Lao động-Xã hội, Hà Nội; Khoa Phụ nữ học,
Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh (2010), Trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn tập I, II, Ban Xuất bản Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh… hầu hết dựa vào
hoàn cảnh, môi trường sống của các em. NCS đồng quan điểm với cách định nghĩa
này và kế thừa nó bằng các luận giải cụ thể trong luận án của mình.
Khái niệm quyền trẻ em, vì trẻ em là một thành viên của xã hội, là công dân
đặc biệt của một quốc gia… nên trẻ em cũng được hưởng các quyền giống con
người bao gồm các quyền dân sự, chính trị, quyền kinh tế, xã hội và văn hóa… tuy
nhiên, do trẻ em còn non nớt về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình
nên trẻ em có những quyền đặc biệt phù hợp với lứa tuổi của mình, điều này được đề
cập rất rõ trong các giáo trình, sách tham khảo như: Trung tâm nghiên cứu Quyền con
người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, (2009), Giáo trình Quyền trẻ em;
Nguyễn Anh Đức (2012), Pháp luật bảo đảm quyền tham gia của trẻ em ở Việt Nam,
6
Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội... Đây được coi là cơ sở lý luận
quan trọng để luận án được kế thừa từ đó sẽ phân tích làm sáng tỏ hơn về quyền trẻ em
có HCĐB. Trẻ em có HCĐB cũng được hưởng các quyền giống như con người và
giống như trẻ em nói chung, chẳng qua các em chỉ là những đứa trẻ có hoàn cảnh thiệt
thòi hơn những trẻ em bình thường khác nên để được hưởng các quyền giống như trẻ
em, các em cũng cần phải có sự hỗ trợ nhất định [82, tr.9].
Phân loại các nhóm quyền trẻ em, “Quyền trẻ em bao gồm quyền sống còn,
quyền bảo vệ, quyền phát triển, quyền tham gia hoặc quyền trẻ em bao gồm quyền
bảo vệ, quyền chăm sóc, quyền giáo dục, quyền giải trí, quyền học tập… cách phân
loại về các quyền của trẻ em nói trên được khẳng định và phân tích dựa trên cơ sở
của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam với nghiên cứu của các tác giả ở các
công trình nghiên cứu khác nhau như: Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ
em (1997), NXB Chính trị Quốc gia; Luật bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em,
(2004), NXB Chính trị Quốc gia; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung
tâm nghiên cứu quyền con người (2008), Các văn kiện quốc tế về quyền con người,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội;... Bên cạnh đó, có một số nghiên cứu đi sâu vào
phân tích, đánh giá một quyền nào đó của trẻ em như chỉ nói đến quyền chăm
sóc trẻ em, được đề cập ở tài liệu Unicef Việt Nam, (2004), Phân tích tình hình
chăm sóc trẻ em tại trung tâm và các chương trình chăm sóc thay thế ở Việt
Nam chỉ nói đến quyền bảo vệ trẻ em như luận án tiến sĩ của Lê Thị Phương Nga,
(2007), Pháp luật bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam hiện nay... hoặc chỉ nói đến quyền
tham gia của trẻ em, ở luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Anh Đức, (2012), Pháp
luật bảo đảm quyền tham gia của trẻ em ở Việt Nam..., thậm chí có những nghiên
cứu lại chỉ nói đến quyền của trẻ em trong một lĩnh vực pháp luật cụ thể như pháp
luật quốc tịch, pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, luật lao động, luật bảo hiểm y tế,
luật giáo dục, luật dân sự…, Chưa có nghiên cứu nào để chỉ ra một cách toàn diện
về các quyền của trẻ em dưới góc độ luật học chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà
nước và pháp luật. Luận án kế thừa hai cách phân loại trên để từ đó phân tích cụ thể
các qui định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam có những điểm tương
đồng trong việc phân loại và các cách phân loại trên không mang tính rạch ròi mà
giữa các quyền luôn có sự giao thoa với nhau dựa trên cơ sở các điều luật được qui
định trong Công ước Quốc tế Quyền trẻ em cũng như trong Luật Bảo vệ, Chăm sóc
và Giáo dục trẻ em. Hay Luận án sẽ kế thừa các cách tiếp cận về quyền trẻ em dựa
trên các lĩnh vực pháp luật hoặc các văn bản pháp luật để từ đó tổng hợp lại các
7
quyền của trẻ em liên quan đến quyền được lao động, quyền được chăm sóc y tế,
quyền được học tập, quyền được thừa kế tài sản…
Các nhóm trẻ em có HCĐB được phân loại ở nhiều nghiên cứu trong đó có
các tài liệu như Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004, NXB Chính
trị Quốc gia; Bộ Lao động; Trung tâm nghiên cứu Quyền con người, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, (2009), Giáo trình Quyền trẻ em; Khoa Phụ nữ
học, Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh (2010), Trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn tập I, II, Ban Xuất bản Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh… có đưa ra
cách phân loại dựa vào hoàn cảnh, môi trường sống của các em, “trẻ em
có HCĐB bao gồm 10 nhóm: trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi;
trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học; trẻ em nhiễm
HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại;
trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ
em nghiện ma túy; trẻ em vi phạm pháp luật”. Hoặc các tài liệu cũng phân tích rằng
việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em không những chỉ đối với trẻ em nói chung
mà còn bao gồm cả các nhóm trẻ em có HCĐB và nêu lên các nhóm trẻ em
có HCĐB được qui định trong Công ước quốc tế Quyền trẻ em năm 1989 bao
gồm: trẻ em tị nạn; trẻ em tàn tật; trẻ em bị ảnh hưởng của xung đột vũ trang; trẻ
em bị bỏ mặc, bị bóc lột hay lạm dụng. Như vậy, các nhóm trẻ em có HCĐB được
qui định trong chương IV Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004
cũng phần nào đã có sự phù hợp với Công ước quốc tế Quyền trẻ em năm 1989, đặc
thù hơn về chính trị, văn hóa Việt Nam thì không có nhóm trẻ em tị nạn và trẻ em bị
ảnh hưởng của xung đột vũ trang. Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay cũng như
trong quá trình nghiên cứu các tài liệu trên tác giả thấy tên gọi của các nhóm trẻ em
này chưa có sự đồng nhất trong các văn bản luật cũng như việc phân loại còn thiếu
so với thực tế. Vì hiện nay theo nhiều nghiên cứu nói về các nhóm trẻ em
có HCĐB phải là trên 10 nhóm. Luận án sẽ kế thừa sự phân loại trên và sẽ bổ sung
thêm các nhóm trẻ em có HCĐB, hơn nữa sẽ đề xuất tên gọi của các nhóm trẻ em
trên cho phù hợp với thực tiễn và phù hợp với các qui định của luật pháp quốc tế.
Chưa có nghiên cứu nào chỉ ra hay đánh giá về các nhóm trẻ em có HCĐB
được xuất hiện theo tiến trình lịch sử xã hội, bởi có nhiều nhóm trẻ em có HCĐB
chỉ xuất hiện trong thời gian gần đây mà trước kia chưa có. Do đó đòi hỏi cần phải
có sự nghiên cứu một cách tổng quát để thấy sự xuất hiện của nhóm trẻ em có
HCĐB càng ngày càng mở rộng, vì vậy, đòi hỏi các quyền của nhóm trẻ em này
cũng mở rộng theo. Với những nghiên cứu trên, NCS đưa ra quan điểm cá nhân của
8
mình về các nhóm trẻ em có HCĐB bao gồm: 10 nhóm trẻ em có HCĐB như trong
Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em và thêm một số nhóm nữa đó là: nhóm
trẻ em bị tai nạn thương tích, nhóm trẻ em bị buôn bán, nhóm trẻ em bị xâm hại/lạm
dụng, nhóm trẻ em lao động sớm…
Tóm lại, các nghiên cứu ở phần này được NCS sưu tầm, nghiên cứu trên các
tài liệu, giáo trình, bản tin, luận văn, luận án… giúp NCS có những hiểu biết sâu sắc
hơn và làm nền tảng lý luận cho luận án, từ đó NCS thấy rõ những yêu cầu trong
luận án của mình cần kế thừa, cần phát triển và cần phân tích sâu hơn, mang tính
thuyết phục hơn đối với các vấn đề lý luận trong chương đầu tiên của luận án làm
cơ sở cho việc nghiên cứu ở các chương tiếp theo.
- Nhóm nghiên cứu thực trạng về quyền trẻ em có HCĐB
Quyền trẻ em có HCĐB cũng chính là quyền của trẻ em nói chung, chỉ khác
ở chỗ trẻ em có HCĐB có những thiệt thòi hơn so với trẻ em nói chung và việc tiếp
cận với các dịch vụ nhằm hưởng quyền có sự khó khăn hơn. Quyền trẻ em có
HCĐB được ghi nhận trong pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Pháp luật quốc
gia về quyền của trẻ em nói chung và trẻ em có HCĐB nói riêng có phạm vi điều
chỉnh rộng, liên quan đến nhiều nhóm quan hệ xã hội, đến nhiều ngành luật khác
nhau như Luật Hiến pháp, Luật Quốc tịch, Luật Hành chính, Luật lao động, Luật
Dân sự và Tố tụng Dân sự, Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự, Luật Hôn nhân và Gia
đình, Luật Giáo dục… mỗi ngành luật trên đều bảo vệ quyền trẻ em theo một đặc
thù riêng. Bất cứ một ngành luật nào cũng coi trẻ em là những chủ thể đặc biệt và có
những qui định riêng. Tất cả các qui định của pháp luật đều hướng tới bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của trẻ em, bảo đảm cho trẻ em phát triển bình thường trong sự
đầy đủ về tình cảm và vật chất, trong một môi trường trong sạch, lành mạnh.
Về nội dung này trong quá trình nghiên cứu NCS thấy chúng được đề cập
khá chi tiết ở nhiều nghiên cứu với các cấp độ và góc độ khác nhau, trên cơ sở đánh
giá thực trạng tình hình trẻ em có HCĐB, thực trạng các qui định của pháp luật và
thực hiện pháp luật đối với các quyền trẻ em có HCĐB. Chẳng hạn, trong các cuốn
sách, bản tin, tài liệu và luận văn, luận án Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm
2013, hướng tới bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân http://thuvienykhoa.vn; Bộ
Lao động, Thương binh và Xã hội, (2013), Phân tích, đánh giá chính sách, pháp
luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em có HCĐB, NXB Lao động-Xã hội, Hà Nội; Mai Thị
Kim Oanh, Đề tài thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, Trung tâm Tâm
lý
học
và
Giáo
dục
học,
Viện
Khoa
học
Giáo
dục
Việt
Nam,
http://vnies.edu.vn/detail-thread-view-1-25-272_thuc-trang-giao-duc-ky-nang-song-
9
cho-hoc-sinh-thcs.html; Unicef Việt Nam (2006), Báo cáo rà soát đánh giá chính
sách, pháp luật của Việt Nam về phòng chống lạm dụng, xâm hại trẻ em; Phan Thị
Lan Phương (2015), Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam - Những đảm bảo pháp lý, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học
Xã hội... đã phân tích rất rõ về tình hình trẻ em có HCĐB hiện nay so với những
năm trước đây theo xu hướng càng ngày càng tăng bởi nhiều nguyên nhân khác
nhau, hoặc đánh giá thực trạng trẻ em nói chung và trẻ em có HCĐB theo vùng
miền, chẳng hạn cuốn tài liệu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, (2013),
Phân tích, đánh giá chính sách, pháp luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em có HCĐB,
NXB Lao động-Xã hội, Hà Nội, đã đánh giá và đưa ra những số liệu cụ thể về
trẻ em có HCĐB theo các nhóm và số liệu được phân tích theo vùng. Hoặc ở các
nghiên cứu của Cục Bảo trợ Xã hội (2013), Định hướng chính sách và hệ thống văn
bản qui phạm pháp luật trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, NXB
Thông tin Truyền thông; Unicef Việt Nam (2004), Phân tích tình hình chăm sóc trẻ
em tại trung tâm và các chương trình chăm sóc thay thế ở Việt Nam, đánh giá tình
hình của trẻ em có HCĐB qua từng năm. Hay ở một số tài liệu có phân tích và đưa
ra số liệu về tình hình của từng nhóm trẻ em có HCĐB qua các năm như tài liệu của
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2014), Phân tích tình hình trẻ em khuyết tật ở
Việt Nam, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội; Bộ Lao động Thương binh và Xã hộiTổ chức Lao động Quốc tế, (2011), Tìm hiểu về lao động trẻ em, NXB Lao động Xã
hội; Trần Đức Châm, (2013), Công tác xã hội với trẻ em làm trái pháp luật; Võ
Trung Tâm, (2011), Thực trạng trẻ em lang thang đường phố tại thành phố Hồ Chí
Minh nhìn từ góc độ quản lý nhà nước, Luận văn thạc sĩ Quản lý nhà nước, Học
viện Hành chính Quốc gia; ... Như vậy, tất cả các nghiên cứu trên đã cung cấp các
số liệu mang tính tương đối đầy đủ về tình hình trẻ em có HCĐB qua các năm gần
đây và cũng phân tích các số liệu đó dựa trên cơ cấu vùng miền, dựa vào từng nhóm
trẻ em có HCĐB, tuy nhiên, ở các công trình nghiên cứu trên chỉ thống kê đơn
thuần các số liệu theo định lượng mà không phân tích, đưa ra những số liệu mang
tính tổng quát chung và số liệu theo cơ cấu vùng miền, theo giới tính, theo dân
tộc…về tình hình trẻ em có HCĐB. Do vậy, luận án sẽ phải tiếp tục phân tích, đánh
giá các số liệu theo mốc thời gian cụ thể như có thể tính theo mốc thời gian từ khi
Việt Nam tham gia Công ước Quốc tế Quyền trẻ em hoặc theo hiệu lực ban hành
của Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em cho đến nay và đưa ra những con số
chính xác về trẻ em nói chung, trẻ em có HCĐB theo từng nhóm, từ đó phân tích
các nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên và sẽ đi sâu phân tích nguyên nhân cơ bản
10
bởi các qui định trong hệ thống pháp luật Việt Nam trong việc bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em có HCĐB.
Về thực trạng các qui định của pháp luật và việc thực hiện pháp luật về
quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB cũng được nêu và phân tích ở các bộ luật hay một
số luận án, luận văn và các tài liệu khác như: Bộ luật Dân sự, Bộ Luật Hình sự, Luật
Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em; Luật Giáo dục;Luật Người khuyết tật; Luật
Phòng, Chống HIV/AIDS... hoặc tài liệu của Cục Bảo trợ Xã hội - Bộ Lao động
Thương binh Xã hội (2009), Định hướng chính sách và hệ thống văn bản pháp luật
bảo vệ quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, NXB Thông tin Truyền thông; Nguyễn
Hải Hữu (2012), Một số văn bản về Chăm sóc, Giáo dục và Bảo vệ trẻ em trong
tình hình mới, Cục Bảo vệ, Chăm sóc trẻ em; ...
Như vậy, có thể thấy rằng những đánh giá trong các tài liệu trên hoàn toàn
phù hợp với thực tiễn hiện nay về việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
có HCĐB, tuy nhiên, các tài liệu trên chưa đưa ra những đánh giá về tình trạng trẻ
em có HCĐB theo xu hướng càng ngày càng gia tăng đối với một số nhóm và một
số nhóm lại có xu hướng giảm, hơn nữa, chưa đánh giá về thực trạng ban hành, thực
thi những chính sách, pháp luật mới trong việc chăm sóc, trợ giúp trẻ em
có HCĐB. Cũng như chưa có một nghiên cứu nào đánh giá về thực trạng các quyền
trẻ em có HCĐB bị xâm hại mà chủ yếu được đề cập tản mạn ở các bản tin, bài viết.
Luận án được kế thừa phần nào về những đánh giá trên, từ đó phân tích sâu hơn,
mang tính thuyết phục hơn và làm rõ hơn về những chính sách, pháp luật trong giai
đoạn hiện nay có liên quan đến hoạt động chăm sóc và trợ giúp trẻ em
có HCĐB. Nhất là sẽ đánh giá về thực trạng chính sách hỗ trợ cho từng nhóm trẻ
em có HCĐB đang được chăm sóc tại cộng đồng. Giúp cho chúng ta có những cách
nhìn thấu đáo hơn về sự phù hợp của pháp luật với chủ trương,chính sách của Đảng
về quyền trẻ em có HCĐB, về thể chế bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB, về chủ thể
thực thi pháp luật bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB hay về cơ chế bảo đảm quyền trẻ
em có HCĐB. Đây cũng là nguồn thông tin có giá trị và có thể được sử dụng để
phân tích các yếu tố liên quan đến thực trạng ghi nhận và bảo đảm quyền trẻ em có
HCĐB ở Việt Nam hiện nay.
- Nhóm nghiên cứu về quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB.
Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB bao
gồm những nội dung như“cần thay đổi tên Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ
em thành Luật Quyền trẻ em, cần nâng độ tuổi trẻ em từ 16 lên 18 và cần có sự
thống nhất về độ tuổi ở các ngành luật: luật Lao động, luật Dân sự, luật Hình
11
sự”… được đề cập trong cuốn sách của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
(2013), Phân tích, đánh giá chính sách, pháp luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em có
HCĐB, NXB Lao động Xã hội, Hà Nội [8, tr.48] hay cuốn Chính sách và dịch vụ xã
hội đối với các nhóm yếu thế, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội [6, tr.73]…
Điểm qua các qui định pháp luật liên quan đến trẻ em và trẻ em có HCĐB,
chúng ta thấy rằng, có nhiều quy định về độ tuổi trẻ em và rồi từ đó nhiều người
không hiểu rõ, dẫn đến những hậu quả pháp lý khó lường. Điều này các nhà làm
luật cần cân nhắc, suy nghĩ.
Hoặc một số tài liệu Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, (2013), Phân
tích, đánh giá chính sách, pháp luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em có HCĐB, NXB
Lao động-Xã hội, Hà Nội; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2007), Chính sách
và dịch vụ xã hội đối với các nhóm yếu thế, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội... phân
tích các điểm cần thiết trong việc hoàn thiện Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ
em như: tăng độ tuổi của trẻ em nhằm phù hợp với luật pháp quốc tế, phân loại các
nhóm trẻ em có HCĐB cần phải mở rộng và cụ thể hơn, như cần bổ sung thêm
nhóm trẻ em bị tai nạn thương tích; trẻ em bị bạo hành gia đình; trẻ em là nạn nhân
của thảm họa, thiên tai… Riêng đối với nhóm trẻ có HIV/AIDS cần có những qui
định cụ thể về hành vi của những người không tiếp nhận trẻ có HIV/AIDS để chăm
sóc y tế và giáo dục hoặc về phía gia đình, các thành viên trong gia đình có hành vi
hành hạ, sỉ nhục, xúc phạm đến trẻ có HIV/AIDS cần có cơ chế giám sát và chế tài
cụ thể. Cần có văn bản pháp luật qui định rõ về các hành vi kỳ thị, phân biệt đối xử
với trẻ em có HIV/AIDS.
Các tài liệu khác như: cuốn sách của tác giả Nguyễn Đăng Dung, (2011),
Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội; Phạm Thị Hải Hà (2012), Qui định của nhà nước trong khám, chữa bệnh cho
trẻ em lý luận, thực trạng, giải pháp, Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công,
Học viện Hành chính Quốc gia; Nguyễn Thị Huyền (2012), Pháp luật quốc tế, pháp
luật nước ngoài về bảo vệ quyền trẻ em, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia
Hà Nội… cũng đề xuất về vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền trẻ em,
chẳng hạn, kiện toàn hệ thống thực thi quyền trẻ em. Bên cạnh việc hoàn thiện pháp
luật, cơ chế, chính sách các nghiên cứu trên còn phân tích về sự cần thiết trong việc
tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quyền trẻ em; kiện toàn hệ thống thực thi quyền
trẻ em trong đó quan tâm đến sự phối hợp liên ngành trong việc bảo đảm các quyền
của trẻ em, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động Thương Binh và Xã hội có trách nhiệm bảo
đảm quyền bảo vệ trẻ em, Bộ Y tế bảo đảm quyền chăm sóc trẻ em và Bộ Giáo dục
12
và Đào tạo bảo đảm quyền giáo dục trẻ em; Cần có sự phối hợp giữa gia đình, nhà
trường và xã hội trong việc giáo dục, chăm sóc và bảo vệ trẻ em; Nâng cao năng
lực chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, viên chức làm việc trong lĩnh vực trẻ
em. Ở luận văn thạc sĩ của tác giả Võ Trung Tâm [74, tr.98] nói đến các giải pháp
nhằm phòng ngừa và làm giảm thiểu tình trạng trẻ em lang lang tại địa phương với
nhiều giải pháp khác nhau.
Trong báo cáo của tổ chức Word Vision Việt Nam, Báo cáo tổng kết hỗ trợ
trẻ em được hưởng lợi nền giáo dục chất lượng [101, tr.48], và cuốn tài liệu của
Unicef, Xây dựng môi trường bảo vệ trẻ em Việt Nam [90, tr.63]; hoặc bài viết của
tiến sĩ Nguyễn Hải Hữu, Thấy gì từ hệ thống bảo vệ trẻ em trên thế giới [36, tr.12]
khẳng định về sự cần thiết phải có những qui định“về quyền giáo dục/học tập của
trẻ em có HCĐB và chỉ ra trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc
tiếp nhận trẻ em có HCĐB tham gia giáo dục hòa nhập”. Đây được coi là một
quyền quan trọng của trẻ em có HCĐB, tuy nhiên trong thực tế ở một số địa phương
ngay cả ở Thủ đô Hà Nội cũng đã có những cơ sở giáo dục không tiếp nhận trẻ em
có HCĐB vào môi trường giáo dục hòa nhập nhất là đối với nhóm trẻ em khuyết tật,
trẻ em có HIV/AIDS do nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó có nguyên nhân cơ
bản là từ sự phản ứng của phụ huynh học sinh. Có thể nói rằng sự cản trở trong việc
thực hiện quyền được giáo dục/học tập của trẻ em có HCĐB không phải từ chính
bản thân các em gây ra hoặc cũng không phải từ chính những trẻ em bình thường
khác mà nó là do chính người lớn trong đó có cả những người có chức trách, có
thẩm quyền trong các cơ sở giáo dục. Mặc dù Pháp luật Việt Nam hiện nay đã có
chế tài xử lý về hành chính đối với những cá nhân và cơ quan chuyên môn trong
việc không tiếp nhận trẻ em có HCĐB tham gia giáo dục hòa nhập, trên cơ sở đó
luận án sẽ kế thừa để có những phân tích và kiến nghị bổ sung thêm về vấn đề này
trên cơ sở chế tài hình sự nhằm phòng ngừa, răn đe và tiến tới xóa bỏ tình trạng cản
trở trẻ em có HCĐB thực hiện quyền học tập của mình.
Như vậy, ở các nghiên cứu trên đã đề ra hàng loạt các giải pháp khác nhau về
việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và trẻ em có HCĐB, trên cơ sở đó, luận án
sẽ kế thừa và tiếp tục đề xuất các giải pháp mà các nghiên cứu đưa ra trên cơ sở bổ
sung, phân tích và có những luận giải mang tính thuyết phục hơn nữa về các giải
pháp. Ngoài ra, luận án phân tích và đề xuất thêm các giải pháp đối với trẻ em
có HCĐB dựa trên cơ sở chính sách, pháp luật của nhà nước về việc bảo đảm các
quyền học tập, quyền tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc y tế, sức khỏe và các dịch
vụ xã hội khác như tư vấn học nghề, việc làm, hỗ trợ vay vốn… dành cho trẻ em
13
có HCĐB hoặc các biện pháp liên quan đến hoàn thiện cơ cấu tổ chức, nâng cao
năng lực đội ngũ cán bộ, viên chức làm việc với trẻ em có HCĐB, đặc biệt đề xuất
về cơ chế phối hợp giữa các ban ngành, các tổ chức xã hội, gia đình… trong
việc bảo đảm các quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB.
Ngoài những công trình được liệt kê ở cả ba nội dung trên thì còn nhiều công
trình nghiên cứu khác ở cả trong nước và quốc tế nghiên cứu trực tiếp hoặc có liên
quan đến vấn đề quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB theo quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành. NCS sẽ cố gắng đọc, tìm tòi, học hỏi, tiếp thu và đưa vào luận án
nhằm làm sâu sắc hơn những vấn đề nghiên cứu, phục vụ mục tiêu nghiên cứu,
NCS cũng sẽ tập trung và đi sâu vào ở góc nhìn của luật học theo chuyên ngành Lý
luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật trong mối quan hệ tổng thể với các ngành
luật khác cũng như trong mối quan hệ với các ngành khoa học khác nhằm phục vụ
mục tiêu nghiên cứu trong tình hình mới.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ở một số nước trên thế giới
- Nhóm các công trình nghiên cứu về trẻ em, quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB
Cuốn tài liệu Children’s Rights Under the law, tác giả Samuel Davis, dài 474
trang, 2011, cuốn tài liệu có nội dung nghiên cứu về quyền trẻ em theo luật, xem xét
cách thức qui định của pháp luật về các quyền của trẻ em trong cả hai lĩnh vực luật
Công và luật Tư gồm các quyền của trẻ em ở trường học, quyền về tài sản, lao động
trẻ em, kỷ luật nhà trường, giáo dục pháp luật... Đồng thời cũng nghiên cứu về các
quyết định của Tòa án tối cao liên quan đến mối quan hệ cha-con-nhà nước. Trong
nội dung cuốn sách còn mô tả các chế độ về y tế đối với trẻ em, các quyền tự do cá
nhân của trẻ em, các quyền lợi tài sản của trẻ em và giải quyết các vấn đề xã hội
liên quan đến trẻ em phát sinh trong môi trường giáo dục.
Tuyển tập công trình với tiêu đề “Bảo vệ gia đình, bảo vệ trẻ em-giữ gìn
tương lai của chúng ta” được xuất bản dưới sự bảo trợ của Quĩ “Quyền trẻ em”
Chủ biên S.Pronina, 2012. Trong công trình này, tác giả công bố rất nhiều nghiên
cứu liên quan đến bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và các quyền trẻ em, các nhóm
quyền trẻ em thường bị vi phạm và các giải pháp phòng ngừa.
Sách chuyên khảo của nhóm tác giả Ziurina A.I và Indeikina T.L “Removing
brutal treatment of children in the family-Loại bỏ đối xử tàn bạo với trẻ em trong
gia đình, 2009”, nhóm tác giả đã chỉ ra các loại bạo lực phổ biến trong gia đình
trong đó có hành vi sao nhãng-không đoái hoài đến trẻ được coi là một loại bạo lực.
The children's rights in the field of education-Các quyền trẻ em trong lĩnh
vực giáo dục, 2007, của tác giả Sinkareva E.Yu. Trong công trình này, tác giả đi sâu
14
- Xem thêm -