Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quyền con người và thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc mông ở các tỉnh...

Tài liệu Quyền con người và thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc mông ở các tỉnh tây bắc việt nam hiện nay

.PDF
167
609
130

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Trƣơng Văn Hòa QUYỀN CON NGƢỜI VÀ THỰC THI QUYỀN CON NGƢỜI Ở ĐỒNG BÀO DÂN TỘC MÔNG TẠI CÁC TỈNH TÂY BẮC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Chuyên ngành: CNDVBC &CNDVLS Mã số : 62 22 03 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHẠM VĂN ĐỨC HÀ NỘI- 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi. Các số liệu và tư liệu trong luận án đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Trƣơng Văn Hòa MỤC LỤC MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………… ..1 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI……………………………………………………………………………. . ..7 1.1. Tình hình nghiên cứu về quyền con người và thực thi quyền con người…………. ..7 1.2 . Tình hình nghiên cứu về dân tộc thiểu số và đồng bào dân tộc Mông .......................26 CHƢƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI VÀ THỰC THI QUYỀN CON NGƢỜI CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ …………………………………………………………………………………. ..35 2.1. Một số vấn đề lý luận về quyền con người ....................................................................35 2.2. Một số vấn đề lý luận thực thi quyền con người………………………………… ..44 2.3. Thực thi quyền con người của các dân tộc thiểu số và dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc……………………………………………………………………. . . 68 CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG THỰC THI QUYỀN CON NGƢỜI CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC MÔNG Ở CÁC TỈNH TÂY BẮC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY……………………….. .. 77 3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc ...........................................................................................................................................77 3.2. Thực trạng thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc Mông tại các tỉnh Tây Bắc trong giai đoạn hiện nay………………………………………………………… ...81 3.3. Một số thành tựu về thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc ....................................................................................................... 94 3. 4. Một số hạn chế trong quá trình thực thi quyền con người của đồng bào đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây BắcViệt Nam ...................................................... 102 3. 5. Những vấn đề đặt ra trong quá trình thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây BắcViệt Nam………………………………………………….. ..108 CHƢƠNG 4: PHƢƠNG HƢỚNG CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU, NHẰM THỰC THI TỐT HƠN QUYỀN CON NGƢỜI CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC MÔNG Ở CÁC TỈNH TÂY BẮC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY………………………………………………………………………… ..113 4.1. Phương hướng cơ bản đảm bảo thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam ......................................................................................113 4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy thực thi tốt hơn quyền con người cửa đồng bàodân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam .........................................................120 KẾT LUẬN…………………………………………………………………………..147 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ…………… ..151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………....152 NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN Chủ nghĩa Xã hội : CNXH Dân tộc thiểu số : DTTS Đảng và Nhà nước : Đ&NN Đồng bào dân tộc Mông : ĐBDTM Liên Hợp Quốc : LHQ Hệ thống pháp luật : HTPL Quần chúng nhân dân : QCND Quyền con người : QCN Quyền Dân sự, chính trị : QDSCT Quyền Kinh tế, xã hội và văn : QKTXHVH hóa Kinh tế, xã hội : KTXH Tây Bắc Việt Nam : TBVN Thực thi quyền con người : TTQCN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người là một trong những vấn đề cơ bản của loài người, là vấn đề được đặc biệt quan tâm của cộng đồng nhân loại. Mỗi bước phát triển của con người đều gắn liền với cuộc đấu tranh nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, xây dựng và hoàn thiện các mối quan hệ xã hội của con người. Chính vì vậy, bảo vệ và phát huy quyền con người luôn được coi là trọng tâm, là đích đến của mỗi cuộc cách mạng. “Sự không hiểu biết, sự lãng quên hay sự coi thường quyền con người là những nguyên nhân duy nhất của những nỗi bất hạnh công cộng, của tệ hủ bại của các chính phủ” (Lời nói đầu Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 của nước Pháp) [24, tr.13]. Quyền con người mặc dù đã có lịch sử phát triển lâu dài trong tư tưởng nhân loại, tuy nhiên, do tính chất phức tạp của nó, nên vẫn đang tồn tại những quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Mặc dù vậy, nhân loại tiến bộ đã đi đến những quan điểm chung về quyền con người, đó là: Quyền con người không thể tách rời giữa quyền cá nhân và quyền cộng đồng, giữa dân tộc và nhân loại, giữa quyền lợi và trách nhiệm, giữa quyền dân sự chính trị với quyền kinh tế văn hóa… Tất cả những điều đó tạo nên tính phổ biến và đặc thù của quyền con người. Việc vận dụng và giải quyết vấn đề quyền con người trong thực tiễn, đang trở thành yêu cầu đòi hỏi bức thiết, cần tránh xu hướng cực đoan tuyệt đối hóa theo một chiều nhất định. Điều đó một mặt đảm bảo tuân thủ các quyền cơ bản vốn có của con người đã được thừa nhận rộng dãi, mặt khác khi đề cập đến quyền con người, phải xem xét đến các yếu tố lịch sử, văn hóa, điều kiện kinh tế xã hội. Ở Việt Nam, vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người, đã được Đảng và Nhà nước khẳng định và bảo vệ bằng Hiến pháp và pháp luật. Do tính chất đa dạng về văn hóa và tộc người, sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế, xã hội trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, nên việc phát triển kinh tế, xã hội, phát huy quyền con người trong các tộc người thiểu số, mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng vẫn tồn tại hạn chế nhất định. 1 Đồng bào người Mông sinh sống ở Tây Bắc Việt Nam, một địa bàn có vị trí chiến lược về an ninh, quốc phòng; là tộc người có lịch sử, truyền thống, văn hóa nhiều biến động, dễ bị tác động từ bên ngoài, nguy cơ bị tổn thương về quyền con người cao; điều kiện mọi mặt về đời sống còn nhiều khó khăn.Việc giải quyết và gắn kết mối quan hệ giữa quyền con người và phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng trong đồng bào người Mông là mục tiêu lâu dài trong chính sách phát triển ở nước ta, đảm bảo tính bền vững, tạo cơ sở cho xã hội phát triển hài hòa. Nhận thức đúng đắn về vấn đề này có ý nghĩa quan trọng, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi sự nhạy cảm chính trị trong giải quyết vấn đề quyền con người, đang là lý do tạo ra xung đột giữa các nước phương Tây và các nước phương Đông, giữa các nước phát triển và các nước kém phát triển, giữa Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa tư bản. Trong khi ở các nước phương Tây, các thế lực thù địch đang lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để chống phá Chủ nghĩa xã hội với những học thuyết như: “Thuyết nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “Nhân quyền không biên giới”…Việc kích động mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo, đang đe dọa đến sự ổn định chính trị và an ninh quốc gia tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có đồng bào Mông ở các tỉnh Tây Bắc nước ta. Chính điều đó đang đặt ra những nhiệm vụ hết sức bức thiết trên cả lĩnh vực bảo vệ quyền con người và phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc - đa tộc người (khái niệm các dân tộc thiểu số ở Việt Nam được đề cập trong công trình nghiên cứu này được hiểu là các tộc người trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam),trình độ phát triển của các dân tộc không đồng nhất, có những nét văn hóa riêng biệt, tạo nên sự đa dạng và nét đặc sắc cho nền văn hóa chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đồng thời, chính điều đó cũng đòi hỏi trong nhận thức và hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước cần đứng trên quan điểm: Phát triển dựa trên quyền con người, nhằm phát huy những giá trị văn hóa, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc, đồng thời tạo ra điều kiện thuận lợi thực hiện quyền con người một cách tốt nhất. Đối với các dân tộc thiểu số, khi đề cập đến quyền con người, luôn được gắn với quyền bình đẳng, quyền phát triển. Quyền con người và quyền phát triển 2 có quan hệ biện chứng, thống nhất nhau. Quyền phát triển là điều kiện tiên quyết để quyền con người được thực hiện. Ngược lại, chỉ khi quyền con người được tôn trọng mới có quyền tự do phát triển. Khi quyền phát triển không được đảm bảo, là nguyên nhân phát sinh những mâu thuẫn, tạo ra các yếu tố mất ổn định chính trị, xã hội, vi phạm đến quyền con người. Xuất phát từ thực tế đó, thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta, một mặt lý luận quyền con người đã được quan tâm nghiên cứu; mặc khác, chúng ta đã tích cực chủ động trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng.Đồng thời, quan tâm đề ra các chủ trương, xây dựng các chính sách, nhằm không ngừng phát huy quyền con người một cách rộng rãi, đảm bảo cho nhân dân ta được hưởng những giá trị quyền con người một cách thực tiễn hơn, phát huy tính ưu việt thuộc về bản chất của xã hội Xã hội Chủ nghĩa mà nhân dân ta đang ra sức phấn đấu xây dựng. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội, với tính chất quá độ của nền kinh tế mới thoát thai từ một trình độ sản xuất thấp kém, điều kiện vật chất, tinh thần của nhân dân còn nhiều khó khăn, các chính sách của nhà nước, tính minh bạch về cơ chế chưa được đảm bảo, sự chênh lệch về khoảng cách phát triển giữa các vùng miền, các dân tộc…vẫn đang tồn tại. Chính điều đó đang bị các thế lực thù địch, phản động, lợi dụng, công kích chống phá Đảng Nhà nước ta trên lĩnh vực quyền con người với những diễn biến phức tạp, khó lường. Với những lý do đó, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài: “Quyền con người vàthực thi quyền con người của đồng bào dân tộc Môngở các tỉnh Tây Bắc Việt Namhiện nay” để nghiên cứu. 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án 2.1. Mục tiêu của luận án Nghiên cứu, làm rõ lý luận về quyền con người, lý luận thực thi quyền con người; trên cơ sở đó, đánh giá thực trạng thực thi quyền con người của đồng bào Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam. Đồng thời, đề ra phương hướng, giải pháp chủ yếu, nhằm thực thi tốt hơn quyền con người của họ trong giai đoạn hiện nay. 3 2.2. Nhiệm vụ của luận án Để thực hiện mục tiêu đã đề ra, luận án phải giải quyết ba nhiệm vụ cơ bản sau đây: + Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận chung về quyền con người và thực thi quyền con người. + Hai là, trình bày thực trạng thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc từ khi Đổi mới (1986) đến nay; làm rõ những vấn đề đặt ra trong quá trình thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc Mông. + Ba là, đề xuất một số phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm thực thi tốt hơn quyền con người của đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Về đối tượng: + Đề tài nghiên cứu một số lý luận về quyền con người, lý luận thực thi quyền con người (các điều kiện đảm bảo, cơ chế bảo vệ). Nghiên cứu thực tiễn thực thi quyền con người củađồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam hiện nay. + Tiếp cận nghiên cứu quyền con người của đồng bào Mông dưới góc độ triết học, luận án tập trung luận giải các điều kiện ảnh hưởng đến quá trìnhthực thi quyền con người của đồng bào dân tộc Môngở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam, từ đó là cơ sở để đưa ra các giải pháp nhằm đảm bảo thực thi tốt hơn quyền con người của đồng bào dân tộc Mông tại đây. - Phạm vi nghiên cứu: + Địa bàn nghiên cứu: Đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam. + Thời gian nghiên cứu: Từ khi Đổi mới (năm 1986) đến nay. + Thuật ngữ Đ đồng bào dân tộc Mông trong luận án được hiểu và thống nhất sử dụng để chỉ tộc người Mông, nhằm phân biệt thuật ngữ dân tộc với nghĩa rộng dân tộc – quốc gia. 4 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án đựa trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Duy vật biện chứng và Chủ nghĩa Duy vật lịch sử, lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin về quyền con người. Đặc biệt, luận án dựa trên quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính sách pháp luật của Việt Nam về quyền con người và thực tiễn thực thi quyền con người trong đời sống hiện nay ở nước ta. 4. 2. Phương pháp nghiên cứu - Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận Duy vật biện chứng, Duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong quá trình nghiên cứu, thí sinh sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, trao đổi, tọa đàm, và phương pháp chuyên gia. - Đặc biệt, trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành khoa học xã hội như: triết học, luật học, chính trị, tôn giáo…, nhằm luận giải các nội dung cần quan tâm của quyền con người. Từ đó phân tích mối quan hệ giữa quyền con người và các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, truyền thống lịch sử, luật pháp....khi áp dụng vào nghiên cứu ở một đối tượng, phạm vi cụ thể. 5. Đóng góp mới của luận án - Về mặt lý luận, luận án đã hệ thống hóa những tư tưởng cơ bản nhất, đang được thừa nhận phổ biến hiện nay về quyền con ngườivà thực thi quyền con người. - Đã nghiên cứu những quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề quyền con người, quyền của dân tộc thiểu số. Trên cơ sở đó, luận án luận giải các quyền con người của đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam trong thực tiễn hiện nay. - Về mặt phương pháp nghiên cứu, luận án đã được thực hiện dựa trên cơ sở các phương pháp khác nhau. Tuy nhiên, phương pháp nghiên cứu liên ngành khoa học xã hội như: triết học, luật học, chính trị, lịch sử và xã hội học… đã được đặc biệt quan tâm, nhằm luận giải thực trạng thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam hiện nay. 5 - Luận án đã chỉ ra thực trạng, xác định được nguyên nhân của những hạn chế trong thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam. Trong đó, nổi lên nguyên nhân hàng đầu là sự phát triển kinh tế thấp kém về trình độ, nhỏ bé về quy mô;bên cạnh đó, nguyên nhân xã hội không kém phần quan trọng là trình độ dân trí, nguồn lực con người của đồng bào dân tộc Mông còn nhiều hạn chế. - Luận án có những đóng góp nhất định, khi đề ra được một số giải pháp có tính khả thi, nhằm thúc đẩy thực thi tốt hơn quyền con ngườicủa đồng bào dân tộc Mông tại Tây Bắc hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Về mặt lý luận, luận án trước hết là tài liệu phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và học tập, phổ biến thực thi quyền con người, một việc đang cần triển khai rộng rãi nhưng còn nhiều hạn chế ở Việt Nam. - Về thực tiễn, luận án là tài liệu tham khảo, trang bị, nâng cao nhận thức quyền con người trong việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, nhằm nâng cao điều kiện về mọi mặt cho đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam, tạo cơ sở thực thi tốt hơn quyền con người của đồng bào dân tộc Mông và của các dân tộc thiểu số trong cả nước. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục tài liệu tham khảo, phụ lục và danh mục các công trình nghiên cứu khoa học của tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài, luận án gồm 4 chương 11 tiết, cụ thể như sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. Chương 2: Một số vấn đề lý luận chung về quyền con người và thực thi quyền con người của các dân tộc thiểu số Chương 3: Thực trạng và những vấn đề đặt ra trong thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Chương 4: Phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu, nhằm bảo đảm thực thi tốt hơn quyền con người của đồng bào Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 6 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Tình hình nghiên cứu về quyền con ngƣời và thực thi quyền con ngƣời 1.1.1. Tình hình nghiên cứu về quyền con người Có thể nói, ngay từ thời cổ đại, nhân loại đã có những quan niệm sơ khai về QCN. Từ đó đến nay, khái niệm QCN không ngừng được hoàn thiện, phát triển, mở rộng phạm vi, cũng như có nhiều cách tiếp cận ngày càng đa dạng. Xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp của nó đến đời sống của xã hội, QCN luôn là lĩnh vực quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Với tính chất đa dạng, biểu hiện phong phú, các lĩnh vực quyền ngày càng phát triển, nhận thức và TTQCN còn nhiều tranh luận. Do đó, các nghiên cứu về QCN; một mặt, đang phản ánh sôi động những tranh luận đó; đồng thời, ngày càng không ngừng hoàn thiện lý luận, nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản mà nhân loại đang phấn đấu đạt đến. Trong các công trình đó, khi đặt vấn đề nghiên cứu, tác giả đã khảo sát và nhận thấy về mặt lý luận, vấn đề QCN và TTQCN ở nước ta đã được các tác giả nghiên cứu, tổng kết và có thể khái quát trên một số nghiên cứu đáng chú ý sau: Cuốn “Tư tưởng về quyền con người” (2011) do Trung tâm nghiên cứu QCN và Khoa Luật Đại học Quốc gia [27] phối hợp ấn hành, Sách “Quyền con người” (2011) do Võ Khánh Vinh chủ biên [100]; Cuốn “Tìm hiểu vấn đề nhân quyền trong thế giới hiện đại” (2009)của tác giả Chu Hồng Thanh [81], hay “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền dân sự và chính trị” (2011) do Võ Khánh Vinh chủ biên [102]; Cùng với đó là cuốn “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa” (2011) của Võ Khánh Vinh chủ biên [103]; “Quyền con người và luật quốc tế về quyền con người” (2009)của Chu Hồng Thanh[82]; “Các văn kiện quốc tế về quyền con người” (2002 )của Trung tâm nghiên cứu quyền con người – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh [24]… 7 Những công trình nghiên cứu về QCN phản ánh đa dạng các nội dung, nhưng có thể khái quát một số nội dung cơ bản sau: Một là, QCN là một giá trị cao quý thể hiện các đặc tính quan trọng của nhân cách. Trong sự tác động của hoàn cảnh lịch sử, con người xác định phẩm giá, nhân cách, địa vị, phát triển các quan hệ tập thể, cộng đồng, quốc gia dân tộc và nhân loại. Hai là, QCN luôn gắn bó chặt chẽ với từng con người với tư cách là một cá nhân, lại vừa với tư cách là một thành viên trong xã hội. Vì vậy, nó vừa mang tính tự do cá nhân, vừa thể hiện lợi ích quốc gia, cộng đồng, dân tộc. QCN phải là sự cần thiết cho từng cá nhân, không phân biệt sắc tộc, tôn giáo, giới tính. Đồng thời, QCN phải được pháp luật ghi nhận. Ba là, QCN, một mặt mang tính tự nhiên, khách quan, nhưng mặt khác, lại luôn bị chi phối bởi điều kiện KTXH và văn hóa truyền thống, do đó vừa mang tính phổ biến vừa mang tính đặc thù. Các nghiên cứu, hầu hết đều mong muốn đi tìm nguồn gốc và lịch sử phát triển QCN, nhằm đem lại cho nhân loại những nhận thức ngày càng sâu sắc hơn và cũng để thấy được những giá trị cao quý của QCN mà nhân loại cần đấu tranh để đạt được. Đồng thời,qua các nghiên cứu cho thấy tính phức tạp của khái niệm QCN. Ngay từ rất sớm, trong kinh điển của các tôn giáo lớn, QCN đã được nhắc đến và ẩn chứa trong các điều răn dạy. Mặc dù còn sơ khai, chưa thể hiện rõ quyền bình đẳng của con người, thậm chí có sự phân biệt đẳng cấp trong những tư tưởng đó, nhưng đã ít nhiều quan tâm đến lòng nhân ái, ước vọng về một cuộc sống công bằng, tôn trọng sự sống, răn đe điều ác... Đó là những biểu hiện về việc đề cao phẩm giá, nhân cách và quyền được đối xử bình đẳng của mỗi cá nhân, là tư tưởng quan tâm đến các nhóm yếu thế trong xã hội. Điều đó thể hiện những bước tiến lớn trong quá trình con người tìm đến và khẳng định những giá trị QCN của mình trong lịch sử. Không chỉ luận giải QCN trong tôn giáo, các nghiên cứu còn tìm hiểu, làm rõ QCN trong các tư tưởng cổ đại và tiến trình phát triển cho đến ngày nay. Nếu 8 như, các tư tưởng sơ khai về QCN trong các tôn giáo mới ẩn chứa trong những răng dạy, giáo điều, giáo lý, tư tưởng vẫn còn mang yếu tố thần linh, niềm tin tôn giáo. Thì các nghiên cứu đều khẳng định, tư tưởng QCN chỉ thực sự được bàn đến và xem xét cụ thể, bắt đầu trong tư tưởng của các triết gia phương Tây cổ đại. Quyền con người trong tư tưởng các triết gia phương Tây cổ đại Tư tưởng QCN ở phương Tây đã manh nha xuất hiện từ chế độ thị tộc, thuộc thời cổ đại. Ở đó, nhiều nhà tư tưởng đã quan niệm QCN như là quyền tự do bình đẳng. Hêraclit (khoảng 530 – 470 TCN) đã cho rằng, quyền là cha đẻ của chiến tranh và sự tất yếu, nó dường như là sự phản ánh tất yếu của luật thiên định muôn đời. Ông nói, bất công và công bằng được hình thành bởi chính con người; bởi lẽ, đối với trời, tất cả đều hoàn mỹ và cân bằng. Như vậy, có thể thấy ẩn chứa tư tưởng quyền tự nhiên trong tư tưởng của Heraclit. Zênông (khoảng 496-429 TCN) người sáng lập trường phái Khắc kỷ, đã đưa ra tư tưởng của mình nhằm giải thích nguồn gốc, cơ sở của sự bình đẳng. Phái Khắc kỷ đặt ngang hàng sự hợp lý và tính thần thánh, thần thánh không phải cái gì ngoài vũ trụ, mà trái lại nó xâm nhập khắp nơi, chỗ nào có lẽ phải, chỗ đó có thần thánh. Từ đó rút ra kết luận: Mọi người đều có lý trí, mọi người vì có phần lý trí, nên có phần là thần thánh và vì vậy, là người thì đều bình đẳng. Rõ ràng ở đây có sự đồng điệu với quan niệm: sở dĩ anh được coi là có quyền vì và chỉ vì anh là một thực thể có nhân tính. Tư tưởng này về sau đã rất phổ biến trong các triết gia phương Tây ở thế kỷ XVI, XVIII. Sau này, đế chế La Mã đã cụ thể các quyền đó trong luật pháp. Việc xây dựng “Luật của các dân tộc” là con đường đem lại hiệu lực cho nguyên tắc: mọi người đều bình đẳng. Đỉnh cao đạt được vào năm 202 (sau CN), khi chỉ dụ nổi tiếng của hoàng đế Caracalla ban bố QCN La Mã cho tất cả những người dân tự do (không phải nô lệ) của đế quốc này. Nhưng phải đến Xpáctacút thì quyền chống áp bức của những người nô lệ mới được bắt đầu. 9 Trong tác phẩm “Quyền con người” [96], tác giả Võ Khánh Vinh cũng đã đề cập đến những tư tưởng QCN của Hy Lạp – La Mã cổ đại. Lúc này, QCN mang tính giai cấp sâu sắc, chỉ có tầng lớp quý tộc trong xã hội mới có QCN, còn người nô lệ thì không hề có chút quyền nào. Aritstoteles (384-322 TCN) cho rằng, chỉ có những công dân (nam từ 18 tuổi trở lên) mới có quyền công dân, còn phụ nữ, trẻ em, nô lệ ....không có QCN như những công dân khác. Platon (427-447 TCN), coi nông dân và thợ thủ công là hạng người thấp nhất trong “nhà nước lý tưởng của ông” [96, tr.150], “trong xã hội phải duy trì các hạng người khác nhau và do đó, không thể có sự hoàn toàn bình đẳng giữa mọi người được”[96, tr.192]. Đêmôcrit (460-370 TCN) là nhà triết học đầu tiên đặt ra vấn đề đấu tranh cho dân chủ, nhưng đó chỉ là bảo vệ nền dân chủ chủ nô, còn nô lệ phải tuân thủ theo người chủ (nghĩa là không có QCN). Trong thời kỳ này “cá nhân phải tuyệt đối phục tùng nhà nước, điều đó cũng đồng nghĩa với việc chưa thể có cái gọi là quyền công dân, quyền cá nhân”[96, tr.176]. Tư tưởng quyền con người trong thời cận đại Đến thời cận đại, tư tưởng về QCN đã được phát triển lên một bước mới. “Học thuyết về pháp luật tự nhiên được Thomas Peine (1737-1809) và Thomas jeffeson (1743-1826) phát triển, không chỉ hướng tư tưởng của mình vào thành lập chế độ nhà nước dân chủ mà còn bảo vệ các quyền tự nhiên không thể tước đoạt của con người….Theo lẽ tự nhiên, tất cả mọi người sinh ra đều tự do và độc lập như nhau và đều có những quyền nhất định mà ở trong trạng thái xã hội và bằng một thỏa thuận nào đó cũng không thể bị tước đoạt, đó là quyền được sống, quyền sở hữu, quyền được mưu cầu hạnh phúc và an ninh”[27, tr.22]. Những tư tưởng đó đã được phát triển trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776: “Chúng tôi tin rằng những chân lý này là hiển nhiên, rằng mọi người đều sinh ra bình đẳng và Đấng tạo hóa dành cho họ một số quyền không thể bị tước đoạt, trong các quyền đó có quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [25, tr.7]. 10 Các tư tưởng về các quyền tự nhiên không thể tước đoạt của con người đã được J.J Rousseau (1712-1778), J.Loke (1632-1704), S.L.Montesquieu (1689-1755) phát triển trong các học tuyết của mình. Nhằm chống lại sự áp bức của giáo hội phong kiến, chế độ chuyên chế đặc quyền của quân chủ, lần đầu tiên, một số nhà tư tưởng của giai cấp tư sản phương Tây còn non trẻ thời kỳ này như: Hốpsơ (15881679), Loke, Spinôda (1632-1677)…đã đưa ra học thuyết nhân quyền tự nhiên trên cơ sở học thuyết về quyền lợi tất nhiên; cho rằng, con người là đặc quyền tự nhiên, khẳng định pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật nhà nước. Học thuyết này lấy việc bảo vệ con người và các đặc quyền tự nhiên của con người, chống lại thần quyền và vương quyền. Chẳng hạn Hốpxơ khẳng định: “Sinh mạng chỉ được bảo toàn tốt nhất trong xã hội nơi mà sự an bình lâu dài được xác lập trên nền tảng của một khế ước cộng đồng”[83, tr.114]. J.J.Rousseau cũng cho rằng, “Không ai có quyền thống trị đồng loại của mình”[83, tr.118]. Cách mạng tư sản Pháp (1789) đưa tới sự ra đời của Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp, đây là một thành quả to lớn của cách mạng tư sản Pháp. Tự do, bình đẳng, bác ái chính là những mục tiêu QCN của cách mạng tư sản Pháp được ghi trong Tuyên ngôn: “Mọi người sinh ra, sống tự do và bình đẳng về các quyền ….”[ 24, tr.14], và trên cơ sở ấy nêu rõ các quyền dân chủ tự do, bình đẳng của cá nhân với tư cách là con người và với tư cách là công dân. Trong tác phẩm “Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (2003) của tác giả Trần Ngọc Đường [18] khi nói về các tư tưởng QCN ở phương Tây cũng đã chỉ rõ các xu hướng xem xét QCN như sau: Một là, trường phái pháp luật tự nhiên như Spinôda, Lốc cơ, Can tơ (1724 – 1804) cho rằng, “QCN là đặc tính tự nhiên. Đặc quyền tự nhiên này do có pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật thực định. Lốc cơ nêu ra và lập luận các quyền cơ bản, tự nhiên của con người bao gồm: quyền sống, quyền tự do và quyền có tài sản. Tư tưởng này ra đời để chống lại hai thứ quyền lực là vương quyền và thần quyền. 11 Hai là, xem con người cũng như QCN trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. QCN là một giá trị nhân loại, khái niệm QCN mang tính lịch sử, không trừu tượng, không phải mang tính bẩm sinh vốn có. Do đó, QCN không thể ra đời trước khi có nhà nước, nó không được đặt ra trong xã hội thị tộc khi chưa có sự vi phạm QCN. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về quyền con người Lý luận về QCN đã có một lịch sử phát triển lâu dài; tuy nhiên, chỉ đến khi chủ nghĩa Mác xuất hiện mới hoàn chỉnh về nội dung và ý nghĩa, QCN lúc này thực sự mang nhiều nội dung mới, mang đầy đủ ý nghĩa và khoa học. Những nội dung mới, những đóng góp hoàn chỉnh cho lý luận QCN đã được đúc rút chính trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, hiện thực hóa QCN trong thực tiễn. Trong cuộc đấu tranh đó, Mác (1818-1883) và Ăngghen (1820-1895) đã đưa ra nhiều tư tưởng và luận điểm đặc sắc về con người, về QCN, quyền công dân. Trong đó đặc biệt phải kể đến các luận điểm về mối quan hệ giữa con người với môi trường khách quan và khả năng của con người có thể cải tạo môi trường xung quanh; về sự phân cách giữa con người công dân nói chung (tức con người lý tưởng của giai cấp tư sản) với con người cá thể (tức con người cụ thể trong xã hội tư sản), về bản chất của con người, về bản năng phản kháng của những con người nghèo khổ trong xã hội Tư bản Chủ nghĩa về vai trò của cách mạng và sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân hiện đại. Điều đầu tiên Mác quan tâm là, làm thế nào để giải phóng con người khỏi những “tình cảnh không thể chấp nhận được”. Điểm xuất phát của Mác là con người, từ lòng nhân ái thương người, vì con người (con người cụ thể con người thực tiễn). Mục đích của Chủ nghĩa Cộng sản là đạt đến mục đích cá nhân tự do, làm cho mọi người tự do, chừng nào còn một người không tự do, thì xã hội đó không tự do, tự do đến từng người. Mác đã tìm ra chìa khoá để thực hiện việc giải phóng con người, làm cho con người thoát khỏi những ảo tưởng đã cản trở con người đi đến sự 12 giải phóng đích thực của mình. Muốn giải quyết vấn đề con người, phải giải quyết vấn đề giai cấp, phải giành được quyền lực chính trị. Lênin (1870-1924) đã kế thừa, vận dụng, phát triển tư tưởng nhân sinh quan Mácxít. Từ sau cách mạng Tháng Mười năm 1917, đối với Lênin, muốn có tự do bình đẳng, tính người (QCN) phải qua chính trị, qua quyền lực chính trị để giải quyết. Nội dung cơ bản của chính trị là phản ánh những yêu cầu kinh tế. Từ đó Lênin đã không quan niệm QCN một cách phi lịch sử, trái lại, chỉ ra những yêu cầu về QCN không thoát ly những điều kiện lịch sử cụ thể: Kinh tế - chính trị - xã hội. Quyền con người trong thế kỷ XX Theo Magatma Gandhi (1869-1948), “Bạo lực là con đường tắt dẫn đến thành công.....dù tôi có thể đồng cảm và ngưỡng mộ những động cơ xứng đáng, tôi vẫn là người kiên quyết phản đối bạo lực, ngay cả khi nó phục vụ những sự nghiệp cao thượng” [27, tr.229]. “Mọi thành viên trong xã hội đều bình đẳng – không cao không thấp. Trong một cơ thể, cái đầu không phải vì nằm trên đỉnh mà cao, cũng cái chân, không phải nằm tiếp đất mà thấp. Vì thế, không thể tạo ra sự bình đẳng giữa hoàng tử và nông dân bằng cách chặt đầu hoàng tử, cũng như bản thân quá trình chặt đầu người chủ không thể làm chủ - thợ bình đẳng” [27, tr.300]. Ở đây, rõ ràng Gandhi đã nhận ra nguồn gốc của sự bất bình đẳng nằm ở chế độ chính trị, chế độ sở hữu, tạo nên sự phân chia giai cấp và bất bình đẳng. Tuy nhiên, quan điểm của ông là đấu tranh phi bạo lực để đạt đến sự bình đẳng. Tôn Trung Sơn (1866-1924) nhà cách mạng dân chủ Trung Quốc: Luận giải về chế độ nhà nước, giai cấp, Tôn Trung Sơn đã khẳng định sự tất yếu tồn tại của thế giới dân quyền. Tuy nhiên, lịch sử loài người trải qua những giai đoạn khác nhau từ thời hồng hoang, người và thú tranh giành quyền sống, đến thời đại thần quyền, con người phải đấu tranh với thiên nhiên để duy trì sự sống và đến thời đại quân quyền, khi giới quân sự có thế lực và các nhà chính trị đã giành quyền lực của giáo hoàng. Đến lúc này cuộc đấu tranh giữa người và trời chuyển sang cuộc đấu tranh giữa người và người. Khi thần quyền suy yếu, quân quyền phát triển 13 cực thịnh, hoàng đế Louis XIV(1638-1715) của Pháp đã nói “Hoàng đế và quốc gia không có gì phân biệt, ta là hoàng đế, do đó ta chính là quốc gia”. Rồi đến thời đại dân quyền đã tới. Ông lý giải bản thân Khổng Tử (551-479 TCN) cũng có xu hướng dân quyền khi “Khổng Tử nói “ Khi cái đạo lớn được thực hiện thì thiên hạ là của chung” tức là ông chủ trương một thế giới đại đồng theo chế độ dân quyền” [27, tr.307]. Ông cũng phê phán Rousseau, người chủ trương dân quyền cực đoan với tác phẩm “Khế ước xã hội” cho rằng, dân quyền là do trời sinh ra, từ khi sinh ra con người đã có quyền tự do và bình đẳng, đó là quyền trời phú cho con người nhưng sau đó người ta đã để mất nó. Theo Tôn Trung Sơn, dân quyền và tự do gắn liền với nhau, tự do, bình đẳng, bác ái là căn cứ vào dân quyền; dân quyền đã phát triển lên từ tự do, bình đẳng, bác ái. “Tự do tức là một đoàn thể mà vẫn có thể hoạt động, đi lại như ý, như thế là tự do” do đó nói dân quyền thì không thể không nói đến tự do. Tuy nhiên, tự do theo cách hiểu của Tôn Trung Sơn mà các nước Âu – Mỹ đang thực hiện lại có giới hạn rất nghiêm ngặt, muốn có tương lai cá thể........ thì phải xóa bỏ tự do cá nhân để kết thành đoàn thể vững chắc, tự do thái quá là phát sinh nhiều khuyết tật của tự do”[27, tr.314]. Về bình đẳng ông nói: “mọi việc sinh ra trong trời đất đều không giống nhau; đã không giống nhau đương nhiên không thể nói đến bình đẳng? Giới tự nhiên không bình đẳng thì sao loài người lại có bình đẳng. Trời sinh ra loài người từ đầu đã không bình đẳng, sau khi chuyên chế của loài người phát triển, nhất là chuyên chế đế vương rất hà khắc đã làm cho tình hình không bình đẳng do trời sinh ra, càng không bình đẳng. Không bình đẳng mà đế vương tạo ra là loại không bình đẳng do con người tạo ra” [27, tr.318]. Các quan niệm khác nhau về quyền con người trong thế giới hiện đại Bước sang thế kỷ XX sự phát triển của QCN sang giai đoạn mới. Lúc này xuất hiện nhiều tư tưởng mới về QCN, có những quan điểm có tính đối lập ra đời.Đối với vấn đề này,tác giả Chu Hồng Thanh trong cuốn “Tìm hiểu nhân quyền 14 trong thế giới hiện đại” [9] đã khẳng định, QCN, một mặt càng có nhiều quốc gia đóng góp tiếng nói chung trong các công ước nhân quyền quốc tế; mặt khác, có hiện tượng ra tăng sự khác biệt, đối lập các khái niệm nhân quyền. Có thể chỉ ra xu hướng phát triển về QCN trên một số khía cạnh sau: Một là; Căn cứ vào nhu cầu bản năng của con người để đưa ra khái niệm và giải thích tiêu chuẩn QCN như một giá trị cơ bản, tự nhiên. Vì QCN là sản vật tự nhiên, là thiên phú, bẩm sinh. Quan niệm này có giá trị phủ nhận quyền lực của vương quyền, thần quyền, độc tài, chuyên chế, tạo cơ sở vững chắc xây dựng nguyên tắc bảo vệ QCN. Hai là, trong khái niệm QCN đang có xu hướng đề cao cá nhân, tuyệt đối hóa vai trò của cá nhân, họ cho rằng “quyền cá nhân là gốc giá trị của mọi giá trị”. Thuyết này đề cao tính vị kỷ, nhấn mạnh QCN tự bao bọc mình thoát khỏi những ràng buộc xã hội. Ba là, nhấn mạnh nội dung đạo đức trong khái niệm QCN. “Quyền con người là quyền đạo đức thuộc về mỗi người đàn ông và mỗi người đàn bà. Sở dĩ người đàn ông và người đàn bà có cái quyền đó, vì họ là người có đạo đức” (Macfarlane. The thecry and Practice of Human Right, Manrice temple Sunth Ltd 1985, P3) [81, tr.33] Bốn là, QCN được phân chia theo phái thần học và phi thần học. Trong đó, “QCN theo phái thần học là nội dung phấn đấu của tôn giáo và nhiều nhà thần học đương đại. Họ quan niệm nhân quyền là thiêng liêng, là phần hồn thần bí do những lực lượng siêu nhiên hoạch định” [81, tr.35]. Năm là, quan niệm, cần phải hiểu QCN theo nghĩa hẹp là “nhân quyền chủ trương”, “nói cách khác đó là quyền hiểu theo nghĩa cơ cấu. A do Y mà có quyền X đối với B, ở đây có bốn nhân tố được bàn đến: A là chủ thể của quyền, Y là tính chất của quyền, X là khách thể của quyền (nghĩa là quyền về cái gì) B là đối tượng của quyền là người có nghĩa vụ”[81, tr.35] 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan