Khái quát các quyền cơ bản của con người trong quan niệm của C.Mác và Ăngghen, trên cơ sở đó liên hệ thực tiễn Việt Nam
Quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen về các quyền cơ bản của con người
Sau khi chủ nghĩa Mác ra đời, nhiều học giả tư sản đã luôn tìm cách phủ
nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng. Nhiều học
giả tư sản phương Tây tuyên bố rằng: “Chủ nghĩa Mác đã bỏ quên con người”.
Theo đó, học thuyết của Mác chủ yếu nhấn mạnh vai trò quyết định của yếu tố
kinh tế, của đấu tranh giai cấp. Nói cách khác, quan niệm đó khẳng định trong
chủ nghĩa Mác không có học thuyết về con người. Nhiều nhà nghiên cứu về chủ
nghĩa Mác - Lênnin đã nhận định “bản thân Mác không để lại bất kì một chuyên
khảo hay những tác phẩm riêng bàn về quyền con người và cũng không để lại
một định nghĩa nào về quyền con người dưới hình thức mà ngày nay chúng ta
mong muốn”. Nhưng trong học thuyết của Mác và Ăngghen, con người vừa là
điểm xuất phát và cũng là cái đích cuối cùng mà các ông hướng tới, trong đó mục
tiêu cao nhất là giải phóng con người khỏi ách áp bức, khỏi mọi sự tha hóa, được
tự do phát triển toàn diện bản chất người của mình, được thực hiện và đảm bảo
những quyền con người của mình. Có thể khẳng định, tuy không trực tiếp bàn
đến vấn đề quyền con người nhưng học thuyết Mác hướng tới một mục đích duy
nhất là đảm bảo quyền cho con người. Do vậy, quyền con người là một nội dung
cơ bản, quan trọng, nó khẳng định bản chất cách mạng, nhân văn của học thuyết
Mác. Quan niệm của C.Mác và Ăngghen về quyền con người được thể hiện ở
những quyền cơ bản sau
1. Các quyền cơ bản của con người trong quan niệm của C.Mác và
Ăngghen
Một là quyền sống. Đây là quyền cơ bản của con người. C.Mác và
Ăngghen khẳng định: “Những tiền đề” xuất phát trong nghiên cứu của các ông là
“những cá nhân sống, hiện thực”. Đó là những con người đang hành động, những
con người bằng xương bằng thịt, không phải những con người tồn tại trong lời
1
nói, trong ý nghĩ, trong tưởng tượng. Chính việc xác định đúng xuất phát điểm
trong nghiên cứu, Mác và Ăngghen đã xây dựng nên hệ thống những quyền cơ
bản cho con người. Quyền sống được xem là quyền cao quý, thiêng liêng nhất, là
cơ sở cho mọi quyền khác của con người, trở thành mục tiêu của những luận giải
của các nhà triết học trong các học thuyết chính trị - xã hội.
Cũng như các nhà triết học tiền bối, Mác và Ăngghen cho rằng quyền sống
là quyền thiêng liêng của con người, quyền không ai có thể tước bỏ hay xâm
phạm theo nghĩa con người được quyền sống xứng đáng với bản chất người của
mình, được sống trong hòa bình, trong hạnh phúc với những ý nghĩa sau
Trước hết, theo các nhà kinh điển, quyền sống là một khái niệm dùng để
chỉ nhu cầu về sự tồn tại người như một “thực thể tự nhiên” và nhu cầu về sự
khẳng định mình là một “sinh vật có tính loài”. Đó là quyền được “tồn tại”, “là
nhu cầu khẳng định sự hiện hữu, hiện tồn của con người như một thực thể - tự
nhiên – sống”. Hay nói theo cách khác, để sống, để tồn tại, con người cần phải
được đảm bảo những nhu cầu vật chất thiết yếu nhất, liên quan trực tiếp đến sự
sống, để duy trì, đảm bảo sự sống. “Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại
thì dĩ nhiên là sự tồn tại của cá nhân những con người sống” . Hiển nhiên là quá
trình lịch sử đó phải được bắt đầu từ cái nền tảng đầu tiên “con người sống”, con
người phải tồn tại, phải được đảm bảo ăn, mặc, ở, đi lại...
Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng quan niệm về quyền sống không chỉ hiểu
theo nghĩa là sự toàn vẹn tính mạng mà còn bao hàm khía cạnh bảo đảm sự “tồn
tại” của một con người. Mác viết: “Cố nhiên, ăn, uống, hành vi sinh dục… cũng
là chức năng thực sự của con người. Nhưng nếu tách chúng ra khỏi phạm vi
những hoạt động khác của con người và biến chúng thành những mục đích cuối
cùng và duy nhất thì chúng mang tính súc vật”. Như vậy, sự tồn tại người ở đây
có nghĩa là, sống là sự tồn tại của cả hai mặt thể xác sinh học và mặt tinh thần,
2
con người sống phải ghi lại dấu ấn của mình trong cuộc sống. Mác không chấp
nhận để con người “chỉ sống vì những lợi ích nhỏ mọn của bản thân, vì cái khung
cửi, vì mảnh vườn cỏn con và không biết gì đến phong trào mạnh mẽ đang lôi
cuốn toàn thể loài người ở bên ngoài xóm làng của họ”. Con người cần sống một
cuộc sống xứng đáng với bản chất người của mình. Do đó, Mác khẳng định, khi
con người còn chưa được đảm bảo đầy đủ cả lượng và chất cho việc ăn, mặc, ở
của mình, thì về căn bản, họ vẫn chưa được giải phóng. Bởi đó là những điều
kiện căn bản nhất để đảm bảo cho con người được sống với phẩm giá của một
con người. Để sống, để tồn tại, con người trước hết cần phải có thức ăn, nước
uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác…, người ta phải thực hiện hằng ngày
hằng giờ để duy trì đời sống con người. Và do vậy, “hành vi lịch sử đầu tiên là
việc sản xuất trong những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra
bản thân đời sống vật chất”. Các ông đã chứng minh rằng, chính hoạt động sản
xuất vật chất của những cá nhân hiện thực ấy là điểm xuất phát của lịch sử. Bởi
lẽ, một cách kinh nghiệm có thể thấy rằng, con người phải có đủ ăn, đủ mặc, ở và
đi lại … thì mới có thể “làm ra lịch sử” và do vậy, “hành vi lịch sử đầu tiên” là
hành vi bảo đảm sự tồn tại hiện thực của con người, nghĩa là hoạt động sản xuất
vật chất, là sự sản xuất ra đời sống vật chất phục vụ chính bản thân con người.
Ý nghĩa thứ hai mà C.Mác và Ăngghen muốn nói đến là việc gắn quyền
sống của con người với nghĩa vụ lao động. Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng, ngay
từ đầu, để khẳng định mình là một sinh vật có tính loài, một nhân tính – tự do
tách khỏi tự nhiên, đứng đối diện với giới tự nhiên thì con người cần phải lao
động sản xuất. Quá trình lao động đó diễn ra liên tục và thúc đẩy lịch sử xã hội
loài người tiến lên. Cùng với việc khẳng định quyền sống là quyền thiêng liêng,
bất khả xâm phạm của con người, Mác và Ăngghen đã lên tiếng bênh vực con
người, bảo vệ quyền sống của con người, phê phán tư tưởng phản động của các
3
nhà kinh tế học tư sản khi tuyên truyền “thuyết nhân khẩu” mang tính thù ghét
nhân loại khi họ nói: “những người nghèo chúng mày có quyền sống, nhưng chỉ
có quyền sống thôi, chúng mày không có quyền sinh sôi nảy nở và càng không
có quyền sống như con người”. Với Mác và Ăngghen, không có gì quý giá hơn
con người, quý giá như quyền sống của con người. Vậy mà, trong xã hội tư bản,
giá trị sống của con người lại bị chà đạp, xâm phạm. Đặc biệt là những người
công nhân trong xã hội tư bản bị bóc lột về mặt thể xác và trở lên thô lỗ về mặt
tinh thần, biến họ trở thành một cái máy để sản xuất ra của cải cho kẻ khác.
Từ đây, C.Mác và Ăngghen còn xây dựng con đường để hiện thực hóa các
quyền cơ bản của con người, để đảm bảo quyền sống cho mọi người. Đó là con
đường cách mạng vô sản, xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thiết
lập chế độ công hữu và bằng nền sản xuất xã hội ấy, mọi thành viên trong xã hội
sẽ có “một cuộc sống không những hoàn toàn đầy đủ về vật chất và ngày càng
phong phú hơn, mà còn đảm bảo cho họ phát triển và vận dụng một cách hoàn
toàn tự do và đầy đủ những năng khiếu thể lực và trí lực của họ nữa”. Và hơn thế
nữa, quyền sống không phải chỉ là quyền tồn tại thuần túy mà nó còn bao hàm cả
quyền phát triển. Mác viết: “Những tiền đề ấy là những con người, không phải
những con người ở trong một tình trạng biệt lập và cố định tưởng tượng, mà là
những con người trong quá trình phát triển – quá trình phát triển hiện thực và có
thể thấy được bằng kinh nghiệm – của họ dưới những điều kiện nhất định”. Điều
đó có nghĩa là Mác luôn đặt con người trong quá trình vận động và phát triển
không ngừng. Con người không bao giờ tồn tại một cách biệt lập, cố định trong
tưởng tượng. Quá trình đời sống hiện thực của con người là một quá trình sôi
động và luôn luôn phát triển. Sự phát triển ấy có thể nhận thấy bằng kinh nghiệm
của con người. Như vậy, con người muốn phát triển, trước hết con người phải
hiện tồn, và để duy trì trạng thái hiện tồn của mình chỉ có thể bằng con đường
4
duy nhất là phát triển. Hơn nữa, để con người được phát triển toàn diện bản thân,
họ không những cần được đảm bảo đầy đủ các quyền kinh tế mà cần có cả những
quyền chính trị, văn hóa; chỉ khi nào những quyền đó được đảm bảo, con người
mới có cuộc sống đúng nghĩa. Như vậy, theo Mác và Ăngghen, quyền sống của
con người không đơn giản chỉ là sự tồn tại của một cơ thể sinh vật, tự nhiên; mà
phải là quyền sống của con người đang hoạt động, đang lao động sản xuất, tạo ra
của cải cho xã hội. Thông qua lao động không chỉ tạo ra của cải vật chất nuôi
sống bản thân, mà còn nâng con người lên địa vị mới với tư cách người đúng
nghĩa.
Tóm lại, quyền sống trong tư tưởng của các nhà triết học Mác trước hết là
quyền con người cần được ăn, uống, ở và mặc nghĩa là phải lao động. Đây là
quyền được sống xứng đáng với bản chất con người, việc bảo tồn sự sống không
phân biệt địa vị, đẳng cấp của con người. Mở rộng ra, Mác và Ăngghen đã chỉ ra
rằng quyền sống không chỉ là quyền sinh tồn của mỗi người, mỗi cá nhân mà nó
còn là quyền sinh tồn của một cộng đồng, một dân tộc (thậm chí của toàn nhân
loại). Quan niệm về quyền sống của các ông mang tính nhân văn sâu sắc.
Hai là quyền tự do. Đây là quyền có giá trị thiêng liêng của con người, làm
cho con người trở thành người. Trên cơ sở kế thừa quan niệm của các nhà tư
tưởng tiền bối, đặc biệt là các nhà triết học Khai sáng Pháp khi cho rằng tự di là
quyền tự nhiên mà tạo hóa ban tặng cho con người từ khi con người mới sinhh
ra. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã đưa quyền tự do lên một mức cao hơn khi
khẳng định “tự do và bình đẳng phải được tuyên bố là những quyền của con
người”; tự do và bình đẳng vừa là điều kiện để đảm bảo sự phát triển, đồng thời
cũng là mục tiêu phấn đấu của con người.
Trên tờ “Nhật báo Sông Ranh”, Mác khẳng định: “Tự do là cái vốn có của
con người đến mức ngay cả những kẻ thù của tự do cũng thực hiện tự do” và
5
“không một người nào chống lại tự do, nhiều lắm thì người ta cũng chỉ chống lại
tự do của người khác mà thôi”. Mác cho rằng: “Thời kì không có tự do trong lịch
sử thế giới đòi hỏi những pháp luật biểu hiện sự không tự do ấy, bởi vì cái quyền
động vật ấy – khác với cái quyền của con người với tư cách là hiện thân của tự
do – là hiện thân của sự không tự do”. Điều đó có nghĩa là tự do là hiện thân của
quyền con người. Mác lấy tự do là tiêu chuẩn đặc trưng để phân biệt con người
với con vật vì con vật không có tự do. Ăngghen cũng khẳng định “những con
người vừa mới tách khỏi loài vật thì trong tất cả mọi mặt cơ bản cũng đều không
có tự do, chẳng khác gì bản thân loài vật”. Các ông chỉ ra rằng, tự do của con
người cũng đồng nghĩa với các nhu cầu căn bản của cá nhân phải được đáp ứng.
Nói tóm lại, con người không thể có được tự do chừng nào con người không thể
có đủ cả về chất và lượng cơm ăn, nước uống, nhà ở và quần áo. Ăngghen tiếp
tục khẳng định những tư tưởng khi cho rằng: “tự do là sản phẩm tất yếu của sự
phát triển lịch sử”, mỗi bước tiến của loài người là một bước tiến của tự do. Từ
góc độ triết học, ông đã đưa ra một quan niệm về tự do đúng đắn: “tự do không
phải là ở sự độc lập tưởng tượng đối với các quy luật của tự nhiên, mà là ở sự
nhận thức những quy luật đó và ở cái khả năng – có được nhờ sự nhận thức này –
buộc những quy luật đó tác động một cách có kế hoạch nhằm những mục đích
nhất định… Tự do là ở sự chi phối được chính bản thân và tự nhiên bên ngoài,
một sự chi phối dựa trên sự nhận thức được những tất yếu của chính tự nhiên”.
Tóm lại, tự do là hiểu và hành động theo quy luật, dựa trên sự nhận thức được
tính tất yếu của tự nhiên.
Ngoài ra, Mác và Ăngghen còn bàn về vai trò của pháp luật. Theo các ông,
mục đích của pháp luật là để bảo vệ và hiện thực hóa tự do, và thể hiện tự do
trong các văn bản pháp lý, tự do là quyền được làm những gì mà pháp luật cho
phép, không vi phạm đến tự do của người khác. Và các ông cho rằng, việc thực
6
hiện hay không thực hiện tự do ở một số lĩnh vực nào đó lại ảnh hưởng trực tiếp
đến tự do nói chung, bởi “mỗi khi một hình thức tự do nào đó bị gạt bỏ, thì tự do
nói chung cũng bị gạt bỏ”. Dù tự do được biểu hiện dưới hình thức nào đi nữa thì
tự do vẫn là tự do. Tự do phải được thực hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống và
dưới mọi hình thức. Bên cạnh việc trình bày những quan điểm về tự do của mình,
Mác và Ăngghen còn phê phán những quan điểm sai trái, thái độ coi thường tự
do của giai cấp tư sản, quý tộc. Đẳng cấp quý tộc thì cho rằng tự do là thuộc tính
đẳng cấp của họ, chỉ họ mới có và họ lên án tự do nói chung của con người,
không chấp nhận những tầng lớp dưới họ có được tự do. Giai cấp tư sản cầm
quyền đối với vấn đề tự do lại nói không đi đôi với việc làm.
Tự do là quyền được tự do lựa chọn phát triển theo năng lực vốn có của
mỗi cá nhân. Mục đích của mọi chế độ xã hội là cho các cá nhân được tự do phát
triển; xác lập nhân tính tự do của mình. Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản do
Mác và Ăngghen viết cách đây 160 năm đã khẳng định: “sự phát triển tự do của
mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Đây chính
là triết lý phát triển con người lý tưởng nhất cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và
toàn nhân loại.
Ba là quyền bình đẳng. Cùng với tự do, bình đẳng cũng là một quyền
thiêng liêng của con người. Theo Ăngghen “bản thân khái niệm bình đẳng là một
sản phẩm lịch sử. Để chế tạo ra sản phẩm đó, cần phải có toàn bộ lịch sử trước
đây; như vậy, khái niệm đó không phải tồn tại từ xưa đến nay như một chân lí
vĩnh cửu”. Điều đó có nghĩa bình đẳng không có nguồn gốc tiên thiên, bình đẳng
không phải là cái gì tự nhiên, khi sinh ra con người đã có. Bình đẳng do chính sự
phát triển của con người tạo ra. Chính con người trong quá trình phát triển,
trưởng thành về nhận thức đã nhận ra cái quyền bình đẳng của mình. Ông viết:
“Cái quan niệm cho rằng tất cả mọi người, với tư cách là con người đều có một
7
cái gì chung, rằng trong phạm vi cái chung đó, mọi người cũng đều bình đẳng, dĩ
nhiên là một quan niệm rất cũ rồi”. Theo Mác, Ăngghen, bình đẳng ở đây là bình
đẳng về pháp lý giữa mọi thành viên trong xã hội, không phân biệt địa vị của các
chủ thể, coi đó là nền tảng để bảo đảm sự công bằng xã hội mà trong xã hội tư
bản thì đó là điều không thể có. Bởi trong xã hội có phân chia giai cấp và còn
giai cấp thì không thể có bình đẳng thực sự mà chỉ là sự bất bình đẳng. Mác và
Ăngghen đã nêu ra một dẫn chứng về nguyên tắc bình đẳng của giai cấp tư sản
đó là “bình đẳng trước pháp luật”: “Nguyên tắc bình đẳng lại bị xóa bỏ sau khi bị
bó hẹp thành “bình đẳng trước pháp luật”, có nghĩa là bình đẳng trên cơ sở bất
bình đẳng giữa người giàu và người nghèo, bình đẳng trong điều kiện của bất
bình đẳng chủ yếu hiện nay”. Bởi vậy, không thể có bình đẳng trong một xã hội
còn phân chia giai cấp; muốn có bình đẳng cần phải xóa bỏ giai cấp, xóa bỏ mọi
sự bất bình đẳng về địa vị xã hội, về kinh tế, về xuất thân... Chỉ có như vậy, mọi
người mới có cơ hội như nhau để hưởng thụ các quyền con người của họ.
Theo Mác, bình đẳng là nhu cầu của mọi cá nhân trong xã hội, vì vậy, nó
phải được đáp ứng ngang nhau, với những quyền được hưởng các quyền ngang
nhau bất kể giới tính, giống nòi, tín ngưỡng… Tuy nhiên, cần phải phân biệt giữa
bình đẳng trong quan niệm của Mác với bình quân, bình quân chủ nghĩa; không
nên hiểu cứ phân chia bình đẳng các lợi ích kinh tế và những lợi ích khác thì đó
là bình đẳng. Nhu cầu của mỗi người là khác nhau. Một gia đình đông thành viên
thì đòi hỏi nhiều nguồn lực để đáp ứng nhu cầu hơn một gia đình ít thành viên;
một người khuyết tật thường phải cần nhiều chi phí hơn để đáp ứng nhu cầu so
với mức bình quân. Hay phụ nữ cần phải được hưởng những quyền đặc biệt hơn
như quyền làm việc ít thời gian để có thể chăm sóc con cái. Như vậy, nguyên tắc
chủ đạo của một xã hội công bằng là mọi người dân đều thỏa mãn nhu cầu căn
bản của mình. Nhân quyền tư sản là một tiến bộ lịch sử to lớn, không thể chối
8
cãi. Giai cấp tư sản đưa loài người tới trình độ tự do, bình đẳng cao hơn trước,
xóa bỏ đi các đặc quyền phong kiến, trao quyền cho các thành viên xã hội.
Nhưng bình đẳng trong xã hội tư bản lại dựa trên cơ sở tồn tại giai cấp, và chứa
đựng sự bất bình đẳng. Bởi vậy, một trong những nhu cầu thực tiễn của phong
trào công nhân chính là phải giành lại các quyền kinh tế, xã hội cho giai cấp vô
sản; “từ sự bình đẳng của mọi người với tư cách là con người, rút ra cái quyền có
một giá trị ngang nhau về chính trị và xã hội cho tất cả mọi người”. Nếu như các
quyền về chính trị giúp cho giai cấp công nhân được hưởng quyền bình đẳng về
mặt hình thức với giai cấp tư sản thì các quyền về kinh tế, xã hội sẽ tạo ra bình
đẳng thực chất cho công nhân. Vì vậy, Ăngghen kêu gọi những người vô sản nắm
ngay lấy lời của giai cấp tư sản “quyền bình đẳng không được chỉ có tính chất bề
ngoài, chỉ được áp dụng trong lĩnh vực nhà nước, mà phải là quyền bình đẳng
thực sự được áp dụng cả trong lĩnh vực kinh tế và xã hội nữa” để đòi quyền bình
đẳng về xã hội, về kinh tế về cho mình. Điều đó có nghĩa quan niệm về bình
đẳng của Mác và Ăngghen được mở rộng với ý nghĩa là bình đẳng với pháp lý
phải bổ sung cho nhau, chỉ khi nào con người giành được quyền kinh tế, giai cấp
vô sản lên cầm quyền, thì khi ấy quyền bình đẳng mới được thực hiện. Đây là
đóng góp của C.Mác và Ăngghen trong việc chỉ ra cách thức để thực hiện quyền
bình đẳng, tự do cho con người.
Bốn là quyền dân chủ. Dân chủ trong quan niệm của Mác và Awngghen là
quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân có quyền kiểm soát đối với toàn bộ quá
trình ban hành và thực thi các quyết định chung của chính thể nhà nước. Nguyên
tắc nền tảng của dân chủ đó chính là mọi công dân đều có quyền quyết định
trong toàn bộ quá trình quản lý, điều hành của xã hội, có quyền quyết định đối
với tất cả những vấn đề chung của xã hội một cách gián tiếp thông qua sự ủy
quyền cho các cơ quan quyền lực của Nhà nước hay tham gia hoặc trực tiếp tham
9
gia vào chính những cơ quan này. Đồng thời công dân phải có cơ hội bình đẳng
trong việc hưởng thụ những quyền ấy.
Hơn nữa, quyền dân chủ nói theo một cách khác còn là một giá trị xã hội
của con người, được thể chế hóa thành hệ thống pháp luật của một nhà nước, gắn
với một hệ thống chính trị nhất định, dựa trên một trình độ phát triển nhất định
về kinh tế và văn hóa. Bởi thế, thực hiện quyền dân chủ là thực hiện bước tiến
của con người về tự do, bình đẳng, về sự giải phóng toàn diện năng lực của mỗi
cá nhân, mặt khác, nó là sự phản ánh sự phát triển của pháp luật, trình độ kinh tế,
văn hóa và sự tiến bộ của xã hội đó.
Đối với các xã hội tiền tư bản, xét đến cùng, dân chủ thực chất chỉ thuộc
về giai cấp thống trị xã hội mà thôi. Còn trong xã hội tư bản, xét về mặt lý luận,
nội hàm “dân chủ” được mở rộng hơn bao giờ hết. Chủ thể thụ hưởng “dân chủ”
của xã hội tư bản đã bao chứa hầu như toàn bộ lực lượng của xã hội. Song trên
thực tế, nó đã giới hạn phạm vi ở giai cấp thống trị. Do yêu cầu về phát triển tối
đa sức sản xuất để thu được giá trị, lợi nhuận thặng dư đã buộc tầng lớp tư sản
phải nêu cao khẩu hiệu giải phóng cá nhân, để tất cả “những cá nhân tự do” ấy có
thể “thoải mái” đem bán sức lao động của mình cho nhà tư bản. Xét đến cùng,
cái được gọi là dân chủ chính trị thực chất không đem lại cho quần chúng khả
năng bình đẳng chính trị chứ chưa nói đến bình đẳng xã hội. Thậm chí, cá nhân
có thể có được sự bình đẳng chính trị, chẳng hạn như, mọi công dân đều có
quyền bình đẳng trước pháp luật, có quyền bầu cử và ứng cử như nhau. Như vậy
là họ đang phải chịu sự bất bình đẳng về xã hội. Đối với Mác và Ăngghen, bình
đẳng trong xã hội có giai cấp, thực chất là một sự bất bình đẳng hay nói cách
khác, đó chỉ là sự bình đẳng cho giai cấp thống trị và sự bất bình đẳng cho giai
cấp bị trị, tự do của giai cấp này là sự mất tự do của giai cấp khác. Bởi vậy, theo
các ông, để có được bình đẳng thực sự, dân chủ thực sự, việc cần làm trước tiên
10
là phải đập tan mọi sự nô dịch về chính trị. Có như vậy, con người mới có dân
chủ và tự do thực sự, và chỉ trên cơ sở của việc xóa bỏ sự phân chia giai cấp thì
dân chủ mới trở về theo đúng nghĩa của từ “quyền lực thuộc về nhân dân”. Đó là
con đường giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại khỏi mọi sự tha hóa bằng
một cuộc cách mạng xã hội triệt để.
Tóm lại, quan điểm của các nhà kinh điển mácxít về dân chủ và quyền dân
chủ là một hệ thống các quan điểm duy vật lịch sử. Với các ông, dân chủ chân
chính chính là chế độ chính trị, hình thức nhà nước gắn liền với chuyên chính vô
sản và chủ nghĩa cộng sản. Quyền dân chủ đó chính là yêu sách về sự bình đẳng
chính trị và bình đẳng xã hội của các cá nhân trước nhà nước. Đối với các ông,
dân chủ và quyền dân chủ vừa là phương tiện, vừa là mục tiêu để con người đạt
tới tự do đích thực. Đó cũng là một quyền con người thiêng liêng, cần được nhà
nước coi trọng và đảm bảo.
Năm là quyền sở hữu. Theo Mác và Ăngghen, quyền sở hữu chính là
quyền được sở hữu nhu cầu về sự tồn tại của con người, mà để đạt được trước hết
là về các điều kiện kinh tế, bởi vậy, Mác khẳng định: “quyền tư hữu của con
người là sự áp dụng thực tiễn quyền con người được hưởng tự do”, quyền sở hữu
là sự đảm bảo điều kiện sinh sống cơ bản của con người. Điều đó có nghĩa là,
quyền tư hữu của con người là “quyền được sử dụng tài sản và chi phối tài sản
tùy theo ý mình, không kể đến những người khác, không phụ thuộc vào xã hội
và quyền đó là quyền vị kỷ, quyền chính đáng của mỗi người”. Nhờ có quyền tư
hữu này mà xã hội mới phát triển, nhu cầu để con người tồn tại được đảm bảo,
những quyền về kinh tế của con người được thực thi.
Quyền sở hữu được Mác và Ăngghen phân tích rõ thông qua việc các ông
vạch trần bản chất của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Các nhà
kinh điển cho rằng, trong mỗi thời đại lịch sử, quyền sở hữu phát triển một cách
11
khác nhau, trong các quan hệ xã hội hoàn toàn khác nhau. Trong xã hội tư bản,
quyền sở hữu về tư liệu sản xuất được coi là một trong những quyền có tính chất
quyết định đối với các quan hệ kinh tế xã hội, đặc biệt là trong mối quan hệ với
các quyền con người khác như quyền lao động, quyền được hưởng thụ và phân
phối sản phẩm xã hội. Các ông khẳng định, chính chế độ người bóc lột người và
sự chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là nguyên nhân của sự vi phạm quyền
con người. Trong xã hội tư bản, khi mà của cải xã hội, với quy mô ngày càng lớn,
biến thành sở hữu của những kẻ có khả năng thường xuyên chiếm hữu không
ngừng lao động không công của người khác, thì quyền sở hữu được thể hiện ra là
“quyền được chiếm hữu lao động không công của người khác hay sản phẩm lao
động đó, còn về phía người công nhân thì quyền đó lại là việc không thể chiếm
hữu được sản phẩm của chính mình” tạo ra. Do đó, để giải phóng con người thì
cần giải phóng quyền sở hữu của con người. Việc giải phóng con người căn cứ
vào việc quyền sở hữu được hiện thực ở mức độ nào. Vì vậy, để quyền sở hữu có
được một cách thực sự cho mỗi cá nhân thì chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất của xã hội tư bản cần phải bị xóa bỏ hoàn toàn.
Song cũng cần lưu ý rằng, chủ nghĩa cộng sản không xóa bỏ chế độ tư hữu
nói chung mà cụ thể là xóa bỏ “chế độ tư hữu tư sản” – “biểu hiện cuối cùng và
đầy đủ nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên những
đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột người kia”; xóa bỏ những
nguyên tắc sở hữu tư nhân tư sản – cái đã “biến phẩm giá của con người thành
giá trị trao đổi” và không để lại giữa con người với con người một mối quan hệ
nào khác ngoài lợi ích trần trụi. Còn quyền tư hữu của người lao động đối với tư
liệu sản xuất của mình, là cơ sở của nền sản xuất nhỏ thì không thể xóa bỏ; bởi vì
“sản xuất nhỏ lại là điều kiện tất yếu để phát triển nền sản xuất xã hội và cá tính
tự do của bản thân người lao động”. Theo đó, có thể nói, sở hữu tư nhân của bản
12
thân người lao động chân chính là một giá trị, một quyền, không thể xóa bỏ. Điều
đó được Mác khẳng định: “Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa
bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản”. Cái cần xóa bỏ
mà Mác muốn nói tới ở đây chính là xóa bỏ chế độ tư hữu tư sản hiện đại – thứ
tư hữu dựa trên sự đối kháng giai cấp, trên cơ sở người bóc lột người
Tóm lại, Mác và Ăngghen khẳng định: “chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ
của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm của xã hội cả. Chủ nghĩa cộng
sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người
khác”. Các ông cho rằng chế độ công hữu không những không xóa bỏ sở hữu cá
nhân mà còn khôi phục lại sở hữu cá nhân của người lao động đã bị chế độ tư
hữu tư bản phủ định. Và để bảo vệ quyền tư hữu của mỗi người, xã hội loài
người cần phải thực hiện một cuộc cách mạng chân chính nhằm thủ tiêu hoàn
toàn và triệt để chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và xây dựng một xã hội
mới dựa trên chế độ công hữu.
2. Ý nghĩa quan niệm của C.Mác và Ăngghen về quyền con người
trong nhận thức vấn đề quyền con người ở Việt Nam hiện nay
Qua quan niệm về các quyền cơ bản của con người của các nhà triết học
Mác, Ăngghen đã có một ý nghĩa to lớn trong việc nhận thức vấn đề quyền con
người ở Việt Nam hiện nay. Theo đó, quyền con người là một giá trị cao quý, là
thành quả đấu tranh của nhân loại. Xây dựng một xã hội trong đó mọi người đều
được thụ hưởng quyền con người là mục tiêu của tất cả các quốc gia tiến bộ,
trong đó có Việt Nam. Trong di sản tư tưởng của các nhà kinh điển mácxít, vấn
đề quyền con người có một giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, một mặt, nó là cơ
sở lý luận để các nhà nghiên cứu mácxít sau này tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu,
phân tích về nguồn gốc, bản chất, nội dung của quyền con người trong lịch sử,
cũng như quyền con người trong thế giới hiện đại; mặt khác, chúng ta có thể triển
13
khai thành những mô hình khả thi hiện thực về quyền con người phù hợp với thời
đại, giai cấp và dân tộc mình. Có thể nói, những quan điểm cơ bản của C. Mác và
Ph. Ăngghen về quyền con người chính là nền tảng, cơ sở lý luận cho quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề quyền con người.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo dân tộc Việt Nam đấu
tranh đánh đuổi các thế lực xâm lăng, giành độc lập, tự do, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của đất nước, quyền con người của người Việt Nam ngày càng được
bảo đảm, phát huy trong thực tế xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc kiên định, vận
dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trong hoàn cảnh của Việt Nam luôn
được khẳng định là nền tảng lý luận trong các văn kiện của Đảng cộng sản. Quan
điểm của Đảng, Nhà nước ta về nhân quyền không chỉ thấm nhuần sâu sắc truyền
thống văn hóa, phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam mà còn hàm chứa nội
dung rộng lớn, theo quan điểm khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong đó, những quan niệm về quyền con người của C.Mác và Ph.Ăngghen luôn
được coi là cơ sở phương pháp luận khoa học của việc nhận thức và giải quyết
vấn đề quyền con người ở nước ta.
Trên cơ sở truyền thống văn hóa và nền tảng lý luận Mác - Lênin, đồng
thời xuất phát từ mục tiêu cách mạng Việt Nam, quan điểm của Đảng về quyền
con người đã được hình thành, bổ sung, nâng cao và từng bước hoàn thiện qua
các giai đoạn. Dù còn nhiều khó khăn, nhưng Đảng và Nhà nước ta đã đạt được
thành tựu nhất định trong việc đảm bảo quyền của người dân Việt Nam.
Nhìn nhận dưới góc độ quan điểm mácxít về vấn đề nhân quyền ở Việt
Nam trong thời gian qua, chúng ta có thể rút ra một số những thành tựu nổi bật
của việc đảm bảo quyền con người ở Việt Nam sau. Ở nước ta, quyền con người
được bảo đảm và thực hiện bằng Hiến pháp và pháp luật. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt toàn bộ tiến trình đấu tranh cách mạng, tiến hành công cuộc đổi mới, xây
14
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong tư tưởng của Hồ Chí
Minh, độc lập dân tộc, tự do của nhân dân và quyền của mỗi cá nhân gắn quyện
với nhau và các quyền đó phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp. Với tinh thần
đó, ngày 9/11/1946, bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử dân tộc đã được thông
qua. Trong bản Hiến pháp đầu tiên đó, về cơ bản mọi quyền công dân đã được
ghi nhận và đảm bảo, tất cả công dân Việt Nam ngang quyền về mọi phương
diện: chính trị, kinh tế, văn hóa. Điều đó khẳng định chế độ của chúng ta thực sự
là một chế độ dân chủ rộng rãi. Hiến pháp cũng đề cập đến các quyền kinh tế,
văn hóa, xã hội, đã ghi nhận những giá trị quyền con người mà nhân dân ta đã
dành được.
Quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh về
quyền con người ở Việt Nam là phải được bảo đảm bằng Hiến pháp và trên thực
tế qua các lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp: 1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi, bổ
sung năm 2013) đã dành rất nhiều điều khoản để khẳng định quyền con người và
quyền công dân. Đây là cơ sở lý luận, thực tiễn để đấu tranh bác bỏ các quan
điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch về vấn đề nhân quyền ở nước ta
hiện nay. Hiến pháp là cơ sở pháp lý vững chắc để các cấp, các ngành, các cơ
quan dân chính đảng thực hiện tốt quyền con người, quyền công dân trong chế độ
mới. Đặc biệt, vào năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
chính thức tuyên bố đường lối đổi mới, con người được đặt vào vị trí trung tâm
của mọi chính sách, coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của công
cuộc phát triển, đường lối đổi mới kể trên không chỉ tác động đến kinh tế, xã hội
mà đồng thời chi phối mạnh mẽ nhận thức và thực tế bảo đảm quyền con người ở
nước ta trong thời gian qua. Hiện nay, tình hình thế giới và trong nước đang có
những biến đổi quan trọng, khôn lường bởi vậy, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu
lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, tổng kết thực
15
tiễn phát triển đất nước để không xa rời mục tiêu nhất quán của Đảng ta là: Chăm
lo cho con người, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền tự do công dân và
xây dựng Nhà nước ta thành Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Việc đảm bảo quyền con người ở nước ta không chỉ được thừa nhận thông
qua Hiến pháp, Nhà nước còn ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng. Xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Trên tinh thần đó, từ năm 1986 đến
nay, Việt Nam đã ban hành và sửa đổi khoảng 13.000 văn bản luật và dưới luật,
trong đó các quyền về dân sự, chính trị được quy định một cách cụ thể và toàn
diện hơn tại nhiều văn bản pháp luật quan trọng, trực tiếp liên quan đến lĩnh vực
dân sự, chính trị như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội,
Luật Tổ chức Chính phủ, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Báo chí, Luật
Xuất bản, Luật Khiếu nại, Tố cáo, Luật Đặc xá, Pháp lệnh Tín ngưỡng Tôn
giáo... Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử (Điều 52 Hiến pháp 1992)
là nền tảng xuyên suốt các văn bản pháp luật của Việt Nam, tạo tiền đề quan
trọng cho việc đảm bảo và phát huy các quyền của người dân trên từng lĩnh vực
cụ thể. Các văn bản pháp luật Việt Nam đã thể hiện đầy đủ các quyền dân sự,
chính trị được thừa nhận trong Tuyên ngôn Nhân quyền Thế giới và các công ước
quốc tế về nhân quyền. Nhờ đó, chúng ta đã tạo được hành lang pháp lý cần thiết
để phát triển kinh tế đi đôi với phát triển hài hòa các mặt xã hội, bảo đảm an sinh
xã hội, thực hiện tốt Mục tiêu Thiên niên kỷ mà nước ta đã cam kết với Liên hợp
quốc.
Bên cạnh đó, Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết và phê chuẩn
hầu hết các công ước quốc tế cơ bản về quyền con người. Hơn nữa, trong tháng
11/ 2013, Việt Nam lần đầu ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc
nhiệm kì 2014 - 2016 và đã trúng cử với số phiếu cao nhất trong số 14 nước
16
thành viên, điều này là một thành công lớn trong quá trình thực hiện chủ trương
của Đảng và Nhà nước về bảo đảm quyền con người. Việt Nam trở thành thành
viên Hội đồng Nhân quyền sẽ là câu trả lời thích đáng đối với các thế lực lâu nay
cố tình bôi nhọ, vu cáo chúng ta. Chúng ta sẽ có tiếng nói trọng lượng hơn về
quyền con người.
Tổng kết qua gần 27 năm đổi mới toàn diện đất nước, Việt Nam đã giành
được những thành tựu quan trọng trong việc chăm lo, bảo vệ, phát triển các
quyền con người. Trong đó, nét đặc sắc và là điểm nổi bật về quyền con người ở
Việt Nam là tất cả mọi công dân đều tích cực tham gia, thực sự làm chủ về quyền
dân sự và chính trị, quyền kinh tế, xã hội và văn hóa... Trong đó, quyền được
sống trong hòa bình, độc lập, tự do, quyền tự quyết định vận mệnh của mình,
quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền bầu cử và ứng cử ... là những quyền cơ bản
nhất của con người đã, đang được thực hiện thống nhất, dân chủ, công khai, minh
bạch ở nước ta. Pháp luật Việt Nam bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về tính
mạng của mỗi công dân, ngăn ngừa những hành vi xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người (trong đó kể cả những bị can, bị cáo
và những phạm nhân đang thi hành án phạt tù)…
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Chúng ta xây dựng nên nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa. Nhưng nếu nước nhà độc lập rồi mà dân không hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự
do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Để thực hiện tư tưởng đó, Nhà
nước ta luôn chú trọng đầu tư cho những vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số, bảo vệ, trợ giúp cho nhóm cư dân dễ bị tổn thương. Hàng loạt
các chính sách, chương trình xã hội hướng vào nhóm đối tượng này được triển
khai như Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo, Chương trình phổ
cập giáo dục và xóa mù chữ, Chương trình chăm sóc sức khỏe nhân dân,..., người
17
nghèo đã được tiếp cận tốt hơn các nguồn lực kinh tế và các dịch vụ xã hội cơ
bản, như giáo dục, y tế, nước sạch, trợ giúp pháp lý...; kết cấu hạ tầng của các
huyện, xã nghèo được tăng cường; đời sống của người nghèo được cải thiện rõ
rệt”. Việt Nam được quốc tế ghi nhận là một trong những quốc gia đi đầu về xóa
đói giảm nghèo. Chuẩn nghèo quốc gia của Viê êt Nam từng bước được nâng lên
và đang dần tiếp câ ên với chuẩn nghèo quốc tế. Nhà nước Việt Nam nỗ lực xây
dựng và kiện toàn các thiết chế đảm bảo quyền con người trên thực tế. Nhà nước
Việt Nam đặc biệt coi trọng việc bảo đảm cho mọi người dân quyền tham gia
quản lý Nhà nước và xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua người đại diện do
họ lựa chọn, phát huy quyền làm chủ của người dân ở cấp địa phương - nơi trực
tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước, được coi là mục tiêu và
động lực đảm bảo thắng lợi của công cuộc Đổi mới tại Việt Nam. Quyền tham
gia quản lý nhà nước và xã hội thể hiện tinh thần làm chủ xã hội của mỗi người
dân, theo đúng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và được
thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như: quyền bầu cử, ứng cử, quyền đóng
góp ý kiến xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, tham gia xây
dựng Hiếp pháp... Bên cạnh những quyền trên, công dân Việt Nam còn được đảm
bảo quyền khiếu nại tố cáo; các quyền tự do báo chí, ngôn luận, hội họp, lập
hội...
Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế mà Việt Nam chưa làm được. Mặc dù
về cơ bản, pháp luật nước ta không mâu thuẫn với các tiêu chuẩn quốc tế về nhân
quyền và việc bảo đảm các quyền con người trên thực tế là phù hợp, thậm chí ở
mức tiến bộ, so với thông lệ quốc tế; tuy nhiên, trong việc bảo đảm quyền con
người ở nước ta hiện nay vẫn còn một số vấn đề tồn tại nhất định. Cơ chế bảo
đảm nhân quyền chưa hiệu quả. Hiện nay, nước ta vẫn chưa có một cơ quan
chuyên trách về vấn đề thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền; chưa có một quy chế chặt
18
chẽ trong việc xử lý các tố cáo và vi phạm nhân quyền. Trong những năm gần
đây, Đảng ta chủ trương phát triển hình thức dân chủ trực tiếp, ban hành quy chế
dân chủ ở cơ sở nhằm tạo ra cơ sở vững chắc cho việc củng cố Nhà nước trong
điều kiện mới. Tuy vậy, trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, không
phải lúc nào quyền dân chủ của người dân cũng được đảm bảo trên thực tiễn. Đôi
khi, dân chủ chỉ là hình thức. Tệ quan liêu của bộ máy nhà nước là biểu hiện rõ
nét nhất của sự tha hóa quyền lực chính trị và một khi quyền lực chính trị bị tha
hóa cũng có nghĩa là quyền dân chủ của người dân bị xâm phạm. Để đảm bảo
quyền dân chủ - quyền chính trị căn bản nhất của con người, cần phải tiếp tục
xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân và phải có những biện pháp cụ thể hữu hiệu để nhân dân
thực hiện trên thực tế quyền làm chủ của mình. Nước ta còn có sự thiếu hụt các
điều kiện kinh tế, các nguồn vật chất để bảo đảm các quyền con người. Do những
khó khăn về kinh tế, ở nước ta hiện nay còn thiếu các điều kiện để chăm sóc, giải
quyết việc làm cho các đối tượng: những người bị nhiễm HIV/AIDS, những
người làm mại dâm, những người vi phạm pháp luật sau khi mãn hạn tù. Mặc dù,
Nhà nước ta đã coi Chương trình xóa đói giảm nghèo là một trong bảy chương
trình mục tiêu quốc gia và đã có những ưu tiên đặc biệt về nguồn nhân lực, vật
lực cho chương trình này. Nhưng hoạt động xóa đói, giảm nghèo vẫn còn những
hạn chế. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm vẫn tồn tại và có xu hướng gia tăng.
Trên đây là thực trạng việc đảm bảo quyền con người ở Việt Nam, dựa
trên những lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen về quyền con người. Qua đó,
chúng ta thấy được những nỗ lực không ngừng của Nhà nước Việt Nam đảm bảo
quyền cho người dân trong bối cảnh điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước còn
nhiều khó khăn. Đó là những tiền đề quan trọng để Việt Nam tiếp tục phấn đấu,
tin tưởng, đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của người dân; xóa bỏ
19
những luận điệu xuyên tạc về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam của những thế lực
thù địch trong nước và quốc tế. Để làm tốt điều này, cần tăng cường giáo dục chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về quyền con người để nâng cao nhận thức của mọi người dân, nhất là các cơ
quan nhà nước về vấn đề quyền con người, để mọi cán bộ và người dân có thể
nhận thức rõ được âm mưu của các thế lực thù địch chống phá ta trên lĩnh vực
nhân quyền.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định, lý luận về con người và quyền con
người là một bộ phận quan trọng của chủ nghĩa Mác. Các nhà kinh điển của triết
học Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong lý luận về con người và quyền
con người. Bên cạnh việc đánh giá cao giá trị to lớn của những tư tưởng trước
Mác về quyền con người, khẳng định vai trò lịch sử của thuyết pháp quyền tự
nhiên và nhân quyền pháp lý của triết học Cận đại, Mác và Ăngghen cũng phê
phán một cách khoa học những tư tưởng của các bậc tiền bối ấy. Các ông đã vạch
rõ tính chất vô căn cứ, không triệt để, hình thức, bộ phận, duy tâm, tư biện, siêu
hình... của những quan niệm về quyền con người trong xã hội tư bản đương thời.
Trên cơ sở tiếp thu có phê phán quan niệm trước đó và từ thực tiễn xã hội, Mác
và Ăngghen đã đưa ra quan niệm cơ bản về quyền con người. Đó là một hệ thống
bao gồm những quyền cơ bản của con người như quyền sống, quyền về kinh tế,
chính trị và văn hóa – xã hội và con đường để hiện thực hóa những quyền con
người ấy, đảm bảo để mọi người đều được thụ hưởng những quyền cơ bản của
một con người. Và trong quá trình nhận thức về vấn đề quyền con người ở Việt
Nam hiện nay, những lý luận của Mác và Ăngghen có ý nghĩa, giá trị phương
pháp luận to lớn. Những lý luận ấy đóng vai trò là phương pháp luận khoa học
chỉ dẫn chúng ta trên con đường đảm bảo thực hiện các quyền con người ở Việt
Nam.
20
- Xem thêm -