Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quản lý nhà nƣớc về phát triển nhiệt điện ở việt nam ...

Tài liệu Quản lý nhà nƣớc về phát triển nhiệt điện ở việt nam

.PDF
94
215
89

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THÙY NHUNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÁT TRIỂN NHIỆT ĐIỆN Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG HÀ NỘI - 2016 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THÙY NHUNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÁT TRIỂN NHIỆT ĐIỆN Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 60 34 04 03 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VIỆT HÙNG HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Đề tài “Quản lý Nhà nước về Phát triển Nhiệt điện ở Việt Nam” là luận văn tốt nghiệp thạc sĩ ngành Quản lý công của tôi tại trường Học viện Hành chính Quốc gia. Tôi xin cam đoan đây là công trình của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các công trình nghiên cứu khác. Tác giả Nguyễn Thùy Nhung 1 LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến quý thầy, cô hiện đang làm việc tại Học viện Hành chính Quốc gia và các thầy, cô giảng dạy lớp CH19B7 đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu tại trường. Xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Việt Hùng, người thầy kính mến đã hết lòng quan tâm, giúp đỡ tận tình, hướng dẫn nghiên cứu tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận văn. Xin phép gửi lời cảm ơn đến Ban lãnh đạo Tổng cục Năng lượng đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình vừa công tác vừa học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn này. Dù đã có nhiều cố gắng trong học tập cũng như trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn, song chắc chắn đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô để có thể hoàn thiện hơn nữa. 2 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BĐKH : Biến đổi khí hậu BOT : Xây dựng-Vận hành-Chuyển giao DGE : Tổng cục năng lượng ĐTM : Đánh giá tác động môi trường ERAV : Cục điều tiết điện lực EVN : Tập đoàn điện lực Việt Nam GDP : Giá trị thị trường IEC : Ủy ban kỹ thuật điện quốc tế IEEE : Viện kỹ nghệ điện và điện tử LNG : Nhiệt điện sử dụng khí thiên nhiên và khí thiên nhiên hóa lỏng NĐĐT : Nhiệt điện đốt than NMNĐ : Nhà máy nhiệt điện PVN : Tập đoàn dầu khí Việt Nam QHĐ7ĐC : Điều chỉnh quy hoạch phát triển Điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020” có xét đến 2030 QLNN : Quản lý nhà nước SC : Công nghệ siêu tới hạn TTĐL : Trung tâm điện lực USC : Công nghệ cực siêu tới hạn 3 DANH MỤC BẢNG, HÌNH VẼ Bảng 1.1: Các nhà máy nhiệt điện khí ..................................................................... 18 Bảng 1.2: Phát triển nhiệt điện than trong QHĐ VII (điều chỉnh) .......................... 19 Bảng 1.3: Các nhà máy nhiệt điện dầu .................................................................... 19 Bảng 2.1: Trữ lượng than nước ta năm 2012 .......................................................... 38 Hình 1.1: Mô hình nhà máy nhiệt điện .................................................................... 12 Hình 1.2: Cơ cấu nguồn nhiên liệu của nhiệt điện .................................................. 16 Hình 2.1: Sự phân bố các nhà máy điện ở Việt Nam .............................................. 36 Hình 2.2: Vị trí các bể dầu khí chính ở Việt Nam ................................................... 41 Hình 2.3: Các hệ thống khí và Trung tâm nhiệt điện Tua-bin khí chính ................ 42 Hình 2.4: Cân bằng cung - cầu than Việt Nam (Triệu tấn) 2020- 2030 .................. 43 Hình 2.5: Quy trình sản xuất điện năng từ nhiên liệu: than, dầu, khí ..................... 45 Hình 2.6: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý nhiệt điện ................................................ 52 Hình 2.7: Các thành phần tham gia thị trường điện ................................................ 53 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam, là một quốc gia đang phát triển, nhu cầu tiêu thụ năng lượng phục vụ phát triển kinh tế tăng rất nhanh trong những năm qua (GDP tăng trung bình khoảng 5,6 %/năm trong giai đoạn 1997-2009, WB 2010). Cùng với quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng (788 đô thị, tốc độ đô thị hóa 35,2%, UNHabitat 2015) và đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, nhu cầu sử dụng năng lượng nói chung và điện năng nói riêng cũng tăng rất nhanh. Theo dự báo, sau 2015 Việt Nam sẽ trở thành nước nhập khẩu năng lượng, đặc biệt là nhập khẩu than cho phát điện (Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến 2030). Trong giai đoạn từ nay đến năm 2030, GDP bình quân hàng năm sẽ tăng khoảng 7%, nhu cầu điện thương phẩm tăng giai đoạn 2016-2020 tăng khoảng 11,4%; giai đoạn 2021-2025 tăng khoảng 9,1%; giai đoạn 2026-2030 tăng khoảng 7,9%. Phát triển năng lượng phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đảm bảo đi trước một bước với tốc độ cao, bền vững, đồng bộ, đi đôi với đa dạng hóa các nguồn năng lượng và công nghệ tiết kiệm năng lượng là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát triển năng lượng gắn chặt với giữ gìn môi trường sinh thái, bảo đảm thực hiện phát triển năng lượng bền vững. Để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia trong dài hạn, các loại hình nguồn phát điện được quy hoạch đa dạng, đầy đủ nhằm khai thác triệt để, có hiệu quả kinh tế và bảo vệ môi trường. Vì vậy, việc tìm kiếm các giải pháp để đảm bảo an ninh năng lượng được Chính phủ quan tâm và định hướng các chủ trương phát triển năng lượng bền vững. Quy hoạch phát triển năng lượng quốc gia nói chung và Quy hoạch phát triển điện lực, đặc biệt là phát triển nhiệt điện nói riêng trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là một trong các nội dung quan trọng của QLNN về phát 5 triển bền vững, bao gồm: an ninh năng lượng, khai thác sử dụng hợp lý và bền vững tài nguyên thiên nhiên gắn với bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó với BĐKH… Tại Hội nghị thượng đỉnh khí hậu thế giới COP 21 (Thỏa thuận Paris, thông qua ngày 12/12/2015, đã đi vào lịch sử với sự đồng thuận 195 nước thành viên Công ước khung của LHQ về biến đổi khí hậu), Thủ tướng Chính phủ cũng thể hiện trách nhiệm rất rõ ràng của Việt Nam đối với cộng đồng thế giới: đối với giai đoạn sau năm 2020, mặc dù là một nước đang phát triển còn nhiều khó khăn, chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu, Việt Nam vẫn cam kết giảm 8% lượng phát thải khí nhà kính vào năm 2030 và có thể giảm đến 25% nếu nhận được hỗ trợ hiệu quả từ cộng đồng quốc tế. Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm đề xuất các giải pháp khắc phục các hạn chế tiêu cực để hoàn thiện quản lý nhà nước (QLNN) về phát triển các nhà máy nhiệt điện, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường – phát triển bền vững là rất cần thiết. Do vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Quản lý Nhà nước về Phát triển Nhiệt điện ở Việt Nam” làm đề tài luận văn chuyên ngành quản lý công nhằm nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực QLNN về phát triển nhiệt điện đáp ứng nhu cầu phát triên kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh năng lượng và gắn liền với bảo vệ môi trường, đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận văn Tác giả Mikkal E. Herberg trong nghiên cứu an ninh năng lượng và châu Á-Thái Bình Dương (Energy security and Asia-Pacific) The National bureau of Asian Reseach 2015 đã khẳng định sự phát triển năng động của khu vực kéo theo nhu cầu về năng lượng đã và đang đặt ra nhiều thách thức về an ninh năng lượng trong khu vực cũng như sự cần thiết phải có chính sách năng lượng kịp thời, hợp lý của các chính phủ để bảo đảm an ninh năng lượng, mỗi quốc gia 6 cần phải có biện pháp quản lý, khai thác, sử dụng nguồn năng lượng hiệu quả để bảo đảm duy trì động lực tăng trưởng và phát triển [30] Đề án: “Điều chỉnh quy hoạch phát triển Điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020” có xét đến 2030 (QHĐ7ĐC) do Viện Năng lượng - Bộ Công Thương lập đã khẳng định quan điểm đúng đắn của Đảng, Nhà nước đối với việc phát triển hệ thống điện quốc gia, huyết mạch của nền kinh tế và được nhấn mạnh thêm một số nhân tố thời đại. Một trong những nội dung quan trọng mà đề án đã tập trung nghiên cứu là: Đa dạng hóa các nguồn năng lượng sơ cấp để sản xuất điện, trong đó ưu tiên phát triển nguồn điện từ năng lượng tái tạo (gió, mặt trời, sinh khối, ...) góp phần bảo tồn tài nguyên năng lượng, giảm thiểu tác động tiêu cực tới môi trường [18] Bài viết: “Quy hoạch hệ thống điện Việt Nam – nhìn từ phía an ninh năng lượng Quốc gia” của Ths.Nguyễn Anh Tuấn và KS. Nguyễn Mạnh Cường, Viện Năng lượng, 2015 đã tập trung vào một số vấn đề: Hiệu chỉnh lại dự báo nhu cầu điện đến năm 2030 với mục tiêu giảm dần cường độ tiêu thụ điện, tăng hiệu quả sử dụng điện và hiệu quả đầu tư các công trình điện; tăng cường tỷ trọng các nguồn năng lượng sạch: điện từ năng lượng tái tạo, từ khí đốt và khí hoá lỏng để giảm thiểu tác động đến môi trường, phát triển bền vững; nghiên cứu đề xuất các giải pháp mới về quy hoạch lưới truyền tải: liên kết lưới truyền tải Bắc-Trung-Nam, truyền tải công suất lớn từ các cụm nhiệt điện - điện hạt nhân từ duyên hải nam Trung bộ về Nam bộ, giảm dòng ngắn mạch [23] Đề tài Khoa học và công nghệ: “Xây dựng các biện pháp kiểm soát khí nhà kính trong lĩnh vực Nhiệt điện đốt than (NĐĐT) và đề xuất lộ trình áp dụng các biện pháp kiểm soát” của Ths.Nguyễn Thị Thu Huyền và tập thể tác giả Trung tâm Tư vấn Nhiệt điện - Điện hạt nhân. Đề tài bao gồm những nội dung chính: Đánh giá tổng quan những vấn đề liên quan như Công nghệ và thiết bị các nhà máy nhiệt điện than, Cơ chế quản lý, vận hành sản xuất và quản lý môi 7 trường, đánh giá ảnh hưởng của BĐKH; Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá mức giảm phát thải khí nhà kính lĩnh vực nhiệt điện đốt than; đề xuất lộ trình áp dụng biện pháp kiểm soát phát thải khí nhà kính lĩnh vực nhiệt điện đốt than [10] Bài báo: “Phát triển nhiệt điện trong bối cảnh biến đổi khí hậu ở Việt Nam” của PGS.TS.Bùi Huy Phùng đã đưa ra những kiến nghị: Rà soát, đánh giá chính xác hơn tiềm năng, trữ lượng các dạng năng lượng, dự báo nhu cầu năng lượng, nhu cầu điện với độ tin cậy cao, tiến hành xây dựng cân bằng năng lượng sơ cấp (Quy hoạch năng lượng tổng thể quốc gia), theo đúng Luật Điện lực 2013, làm cơ sở khoa học và pháp lý cho quy hoạch phát triển các phân ngành điện, than, dầu-khí; từ đó sẽ xác định được cơ cấu tối ưu sử dụng các nguồn năng lượng, cũng như cơ cấu nguồn điện cho cả giai đoạn quy hoạch [17] Tuy nhiên, có thể nói, vấn đề QLNN về phát triển nhiệt điện ở Việt Nam chưa có những nghiên cứu chuyên sâu, do đó việc nghiên cứu đề tài “Quản lý Nhà nước về Phát triển Nhiệt điện ở Việt Nam” vừa có ý nghĩa thực tiễn vừa có giá trị nhất định về lý luận. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường việc quản lý nhà nước về phát triển nhiệt điện ở Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu lý luận quản lý nhà nước về phát triển nhiệt điện ở Việt Nam; - Nghiên cứu, đánh giá thực trạng QLNN về phát triển nhiệt điện ở Việt Nam; - Đề xuất một số giải pháp để tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về phát triển nhiệt điện ở Việt Nam. 8 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Hoạt động quản lý nhà nước về phát triển nhiệt điện ở Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Luận văn tập trung nghiên cứu về khai thác, sử dụng nhiên liệu truyền thống từ sản xuất, phân phối nhiệt điện ở 3 miền: Bắc-Trung-Nam của Việt Nam để đảm bảo an ninh năng lượng, phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. - Thời gian nghiên cứu: cho giai đoạn từ năm 2000 đến 2020. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu sử dụng các phương pháp nghiên cứu tài liệu, thống kê, so sánh, phân tích, đối chiếu và dự báo. 6. Những đóng góp của Luận văn 6.1. Về mặt lý luận Hệ thống hóa lý luận về phát triển nhiệt điện ở Việt Nam; công tác QLNN về an toàn năng lượng nói chung và phát triển nhiệt điện nói riêng 6.2. Về thực tiễn - Qua phân tích hiện trạng nội dung QLNN về khai thác, sử dụng tài nguyên khoáng sản; sản xuất và phân phối điện năng cho vùng, miền của Việt Nam, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện nội dung QLNN về phát triển nhiệt điện ở Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020. 9 - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, bồi dưỡng cho các công chức, viên chức trong lĩnh vực QLNN về tài nguyên và bảo vệ môi trường, năng lượng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn được cấu trúc làm 03 chương Chương 1: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về phát triển nhiệt điện ở Việt Nam Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về phát triển nhiệt điện ở Việt Nam Chương 3 Một số giải pháp hoàn thiện nội dung Quản lý nhà nước về phát triển nhiệt điện ở Việt Nam 10 Chƣơng 1: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÁT TRIỂN NHIỆT ĐIỆN Ở VIỆT NAM 1.1. Những khái niệm cơ bản 1.1.1. Nhiệt điện Hiện nay, nước ta có 2 nguồn sản xuất điện năng chủ yếu đó là thủy điện và nhiệt điện. Nhiệt điện hiện nay chủ yếu là 3 nguồn: nhiệt điện than, nhiệt điện khí và nhiệt điện dầu. Như vậy, nhiệt điện là việc biến đổi nhiệt năng của nhiên liệu thành cơ năng rồi điện năng, quá trình biến đổi đó được thực hiện nhờ tiến hành một số quá trình liên tục (một chu trình) trong một số thiết bị của nhà máy nhiệt điện [5] Nhà máy nhiệt điện là nhà máy chuyển hoá năng lượng có trong nhiên liệu thành nhiệt năng trong buồng đốt lò hơi trong đó có môi chất bằng hơi nước, hơi nước qua tua bin để chuyển nhiệt năng thành cơ năng quay máy phát điện để chuyển đổi cơ năng thành điện năng: Nước được đun nóng, chuyển thành hơi nước và quay một tua bin hơi nước, tua bin quay máy phát điện để phát điện lên luới. Sau khi đi qua tuabin, hơi nước được ngưng tụ trong bình ngưng và tuần hoàn trở lại lò hơi, quá trình này được gọi là chu trình hơi nước (chu trình Rankine) hay sơ đồ nhiệt của nhà máy nhiệt điện [5] 11 (Nguồn: Tác giả sưu tầm) Hình 1.1: Mô hình nhà máy nhiệt điện 1.1.2. Vai trò của nhiệt điện Nhiệt điện giữ một vai trò chủ đạo trong hệ thống điện quốc gia. Từ cơ sở ban đầu sau tiếp quản (1954) là 31,5 MW, đến hết năm 2013, chỉ tính riêng nguồn nhiệt điện, tổng công suất đã lên tới 15.539 MW, gấp 500 lần. Nhiệt điện chiếm trên 50% tổng công suất trong toàn bộ hệ thống nguồn của cả nước, luôn là nguồn điện năng chủ yếu, giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống điện quốc gia. Năm 1985, công suất lắp đặt của cả nước là 1.605,3 MW thì nhiệt điện, bao gồm nhiệt điện than, dầu, tua bin khí chiếm tới 81,9% cơ cấu nguồn, với 70% sản lượng điện của cả nước. Đến năm 1995, toàn bộ hệ thống có 4.549,7 M, nhiệt điện chiếm 36,6% cơ cấu nguồn và 20% sản lượng của cả nước. 12 Năm 2005, hệ thống có 8.871 MW, nhiệt điện chiếm 41% cơ cấu nguồn và 48% sản lượng điện cả nước. Đặc biệt, tính đến hết năm 2013, tổng công suất của toàn hệ thống là 30.597 MW thì nhiệt điện chiếm 15.539 MW, tương đương 50,79% và chiếm 53,64% sản lượng điện toàn hệ thống. Những con số trên đã chứng minh cho vai trò đặc biệt quan trọng của nhiệt điện đối với hệ thống điện quốc gia. Mặc dù nguồn thuỷ điện có ưu thế đặc biệt là chi phí sản xuất rẻ song nhược điểm là chi phí đầu tư ban đầu lớn, hoạt động phụ thuộc rất nhiều vào diễn biến tình hình khí tượng, thuỷ văn. Do đó, trong quá trình phát triển hệ thống nguồn, đồng thời với việc tận dụng ưu thế nguồn năng lượng giá rẻ của thuỷ điện, việc chú trọng phát triển các nguồn nhiệt điện đảm bảo cung cấp đủ điện cho nhu cầu phát triển phụ tải là rất quan trọng để có sự điều tiết hợp lý giữa thuỷ điện và nhiệt điện. Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, trong thời gian tới, nhiều trung tâm nhiệt điện lớn sẽ được xây dựng và đưa vào vận hành như Duyên Hải, Long Phú, Sông Hậu, Vân Phong, Vĩnh Tân, Quảng Trị, Vũng Áng, Quảng Trạch, Nghi Sơn, Nam Định, Thái Bình, Hải Dương... làm tăng đáng kể công suất nguồn và sản lượng điện từ các nguồn nhiệt điện. Tổng công suất nhiệt điện đốt than năm 2020 sẽ chiếm 42,7% tổng công suất đặt, sản xuất khoảng 46,8% sản lượng điện sản xuất. Đến năm 2030, chiếm 51,6% tổng công suất đặt, sản xuất khoảng 56,4% lượng điện sản xuất; tổng công suất nhiệt điện sử dụng khí thiên nhiên (gồm cả LNG) năm 2020 chiếm 16,5% tổng công suất đặt, sản xuất khoảng 24% sản lượng điện sản xuất, đến năm 2030 sẽ chiếm 11,8% công suất đặt và 14,8% lượng điện sản xuất [19] Như vậy, theo quy hoạch đến năm 2020, tổng công suất các nhà máy nhiệt điện (than, khí) đạt khoảng 64,5% tổng công suất đặt, sản xuất khoảng 70,8% sản lượng điện và đến năm 2030, tổng công suất các nhà máy nhiệt điện 13 (than, khí) chiếm khoảng 63,4% tổng công suất đặt, sản xuất khoảng 71,2% sản lượng điện. Tuy nhiên, việc phát triển nhiệt điện cũng đứng trước thách thức không nhỏ khi nguồn than và khí trong nước sẽ không đủ cung cấp cho các nhà máy điện, phải nhập khẩu nhiên liệu. Do đó, việc đảm bảo ổn định, lâu dài nguồn nhiên liệu than, khí, trong đó có nguồn nhiên liệu nhập khẩu, cung cấp ổn định cho các nhà máy nhiệt điện sẽ có vai trò đặc biệt quan trọng, đảm bảo đủ điện cho phát triển đất nước. 1.1.3. Khai thác, sử dụng nhiệt điện Việt Nam là nước có tiềm năng về dầu mỏ lớn thứ 3 và có trữ lượng dầu thô đứng thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á. Trước đây, khi nhà máy nhiệt điện dầu được xây dựng chủ yếu ở các tỉnh phía Nam, tuy nhiên hầu hết dầu mỏ ở nước ta sẽ không sử dụng làm nhiên liệu chính để sản xuất điện trong tương lai. Và với tiềm năng và trữ lượng than lớn thứ 2 tại ASEAN, chỉ sau Indonesia, 90% sản lượng than khai thác ở Việt Nam tập trung ở bể than Đông Bắc, do đó đến nay hầu hết các nhà máy nhiệt điện than đều tập trung ở miền Bắc, đặc biệt là khu vực tỉnh Quảng Ninh. Trong đó có các nhà máy lớn như Quảng Ninh 1 (600 MW), Quảng Ninh 2 (600 MW), Phả Lại 1+2 (1.040 MW) Ngoài ra, nước ta cũng có trữ lượng khí đốt rất lớn, tỷ số thời gian đảm bảo khai thác lớn nhất Đông Nam Á, lên đến 63,3 năm. Các nhà máy nhiệt điện khí lại tập trung nhiều ở khu vực phía Nam, gần các bể khí do PVN đang khai thác. Điểm nổi bật của các nhà máy nhiệt điện khí này là thường là tập trung thành cụm nhằm khai thác tối đa hệ thống đường ống vận chuyển khí của PV GAS, do đó hình thành các Trung tâm điện lực (TTĐL) lớn như TTĐL Dầu khí Nhơn Trạch (1.215 MW) và TTĐL Phú Mỹ (4.015 MW) gần 2 bể khí Cửu Long và Nam Côn Sơn; TTĐL Ô Môn (2.800 MW) và nhiệt điện khí Cà Mau (1.500 MW) gần khu vực bể khí Malay – Thổ Chu [3] 14 Một quốc gia có thể có trữ lượng nguồn nhiên liệu cao là một lợi thế rất lớn, tuy nhiên không phải là tất cả để có thể phát triển các dự án nhiệt điện. Với 3.260 km đường bờ biển cùng hệ thống sông ngòi dày đặc, lưu lượng nước lớn, khả năng xây dựng các nhà máy nhiệt điện của Việt Nam có thể được xem là vô tận. Một nhà máy nhiệt điện, dù là cổ điển hay hiện đại như điện hạt nhân, đều đòi hỏi rất nhiều nước để làm nguội bộ ngưng, làm mát máy khi cần thiết, cũng như cần đến một bến cảng nhằm thuận tiện cho vận chuyển máy móc, thiết bị, tiếp nhận nhiên liệu. Do đó có thể thấy, một nhà máy nhiệt điện phải xây dựng tại bờ biển hay bờ sông lớn. Đa số người Việt Nam sống gần bờ biển, bờ sông, nhờ đó việc truyền tải điện từ các nhà máy nhiệt điện đến nơi tiêu thụ cũng nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm được rất nhiều chi phí. Chính đặc điểm trên cũng giải thích cho việc quy hoạch và phát triển nguồn điện của nước ta trong tương lai. Nếu như trước đây, xu hướng xây dựng các nhà máy Nhiệt điện là gần khu vực các mỏ than và khí, nhằm tận dụng tối đa lợi thế về nguồn nhiên liệu. Tuy nhiên sẽ đánh đổi lại việc không tối ưu được giữa vị trí nguồn điện với khu vực tiêu thụ. Trong tương lai, việc xây dựng các nhà máy nhiệt điện sẽ không phải phụ thuộc vào vị trí các mỏ nhiên liệu như hiện tại do chuyển sang xu hướng nhập khẩu nhiên liệu cho sản xuất điện. Các trung tâm điện lực lớn (chủ yếu là nhiệt điện than) sẽ được xây dựng dọc theo vùng duyên hải miền Trung và phía Nam nhiều hơn nhằm thuận lợi cho việc nhập khẩu nhiên liệu (than dự kiến nhập từ Australia và Indonesia) và gần các khu vực tiêu thụ điện lớn như miền Nam để giảm áp lực cung ứng cho đường dây 500kV cũng như Hệ thống điện Quốc gia. Theo đó, sau khi phân tích kinh tế kỹ thuật thì có 4 vị trí thuận tiện nhất cho xây dựng cảng trung chuyển để nhập khẩu than cho các trung tâm điện lực. Đó là Vĩnh Tân (Bình Thuận), Duyên Hải (Trà Vinh), Cái Mép (Vũng Tàu) và Soài Rạp (Tiền Giang). 15 45% 48% Nhiên liệu than Nhiên liệu dầu Nhiên liệu khí 7% Hình 1.2: Cơ cấu nguồn nhiên liệu của nhiệt điện (Nguồn: Báo cáo của EVN năm 2015) Đến năm 2013, tổng công suất nhiệt điện nước ta là 15.539 MW. Nhìn vào hình 1.2, các nhà máy nhiệt điện chạy dầu chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ (7%) và sẽ không được tiếp tục phát triển nguồn trong tương lai do nhược điểm về chi phí vận hành cao, hiệu quả hoạt động thấp, ô nhiễm môi trường. Trong khi đó nhờ nhiều lợi thế trong vận hành và xây dựng, các nhà máy nhiệt điện than sẽ được ưu tiên phát triển, vượt qua khí trở thành nguồn nhiệt điện chủ lực trong cơ cấu điện quốc gia (chiếm đến 81% cơ cấu nhiệt điện). Theo báo cáo của Tổng cục năng lương, số lượng các dự án NMNĐ trên phạm vi toàn quốc cụ thể như sau: - 26 dự án NMNĐ đang vận hành có tổng công suất 13.105MW - 16 dự án NMNĐ đã khởi công, đang triển khai xây dựng có tổng công suất 15.125MW - 12 dự án NMNĐ đã xác định chủ đầu tư, chưa khởi công đang triển khai các bước chuẩn bị và thực hiện đầu tư có tổng công suất là 16.660MW - 19 dự án NMNĐ nằm trong QHĐ VII chưa triển khai đầu tư có tổng công suất là 30.320MW. Các dự án này chưa xác định chủ đầu tư, chưa quy 16 định hình thức đầu tư (trừ dự án Nam Định II 2x600MW có quy định hình thức đầu tư là BOT) - 2 dự án NMNĐ được đề xuất bổ sung vào QHĐ VII có tổng công suất 2800MW, gồm Quảng Trị II 2x600MW chưa xác định chủ đầu tư và Long An II 2x800MW do Tổ hợp nhà đầu tư Tổng công ty Điện lực Hàn Quốc (KEPCO) & Công ty TNHH Vinakobalt đề xuất. Ngoài 2 dự án này còn có Dự án NMNĐ Dung Quất 2x600MW chủ đầu tư là Sembcorp Singapore, nhưng ngày 27/5/2015 Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu thay đổi công nghệ từ sử dụng than sang sử dụng khí (năm 2020 khí của mỏ Cá Voi Xanh sẽ vào bờ) nên dự án này không còn là Dự án NMNĐ chạy than nữa. 1.1.4. Sản xuất, phân phối nhiệt điện 1.1.4.1. Nhiệt điện khí Nhiệt điện khí có tỷ trọng đóng góp lớn nhất trong cơ cấu nguồn sản xuất nhiệt điện với tỷ trọng hơn 48% tổng công suất của nhiệt điện. Nguồn nguyên liệu để sản xuất ra điện là khí tự nhiên được mua lại từ Tập đoàn dầu khí và nhập khẩu, giá bán khí sẽ biến động theo giá dầu. Mặc dù nguồn khí tự nhiên nước ta khá dồi dào, tuy nhiên do giá thành sản xuất điện khí ở mức cao do đó mặc dù công suất của các nhà máy điện khí rất lớn những tỷ lệ khai thác lại không cao Các dự án nhiệt điện khí chủ yếu được quy hoạch tập trung ở khu vực miền Nam, nơi có nguồn cung cấp khí dồi dào từ Tập đoàn dầu khí (tính đến thời điểm cuối năm 2015) 17 Bảng 1.1: Các nhà máy nhiệt điện khí STT Tên nhà máy Công suất (MW) 1 Nhà máy nhiệt điện Nhơn Trạch 1 450 2 Nhà máy nhiệt điện Nhơn Trạch 2 750 3 Nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 1 1059 4 Nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 2.1 860 5 Nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 4 440 6 Nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 2.2 720 7 Nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 3 720 8 Nhà máy nhiệt điện Bà Rịa 340 9 Nhà máy nhiệt điện Cà Mau 1 750 10 Nhà máy nhiệt điện Cà Mau 2 750 (Nguồn: Báo cáo của EVN năm 2015) 1.1.4.2. Nhiệt điện than Đứng thứ 2 trong cơ cấu các nguồn nhiệt điện nước ta, nguồn nguyên liệu hiện nay toàn bộ được mua từ nguồn than đá trong trong nước của Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam với giá ưu đãi, trong tương lai cùng với sự phát triển của các dự án này thì nhiều khả năng nước ta sẽ phải nhập khẩu thêm nguồn than bên ngoài Chi phí nhiên liệu để vận hành các nhà máy nhiệt điện than thấp hơn nhiều so với nhiệt điện khí khoảng 60% để đạt được cùng mức công suất và nhiệt lượng. Do đó nhiệt điện than là nguồn năng lượng được ưu tiên sử dụng thậm chí hơn cả thủy điện do tính ổn định 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan