Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC TRONG CÁC TỔ CHỨC NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN CÔNG LẬP TRÊN ĐỊA ...

Tài liệu QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC TRONG CÁC TỔ CHỨC NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN CÔNG LẬP TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

.PDF
192
1092
100

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM Nguyễn Thanh Xuân QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC TRONG CÁC TỔ CHỨC NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN CÔNG LẬP TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Hà Nội - 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM Nguyễn Thanh Xuân QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC TRONG CÁC TỔ CHỨC NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN CÔNG LẬP TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Chuyên ngành: Quản lý văn hóa Mã số: 62 31 06 42 Người hướng dẫn khoa học PGS. TS. Lương Hồng Quang Hà Nội - 2017 1 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ Quản lý nguồn nhân lực trong các tổ chức nghệ thuật biểu diễn công lập trên địa bàn Hà Nội là công trình nghiên cứu của tôi viết. Các trích dẫn, kết quả nêu trên trong luận án là trung thực và có xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày 29 tháng 05 năm 2017 Tác giả luận án 2 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................................. 1 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................................. 3 DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH TRONG LUẬN ÁN ................................................... 4 MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 5 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC TRONG CÁC TỔ CHỨC NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN CÔNG LẬP TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI ............................................................................................................................... 19 1.1. Quản lý nguồn nhân lực trong tổ chức nghệ thuật ........................................ 19 1.2. Các lý thuyết quản lý nguồn nhân lực trong các tổ chức nghệ thuật biểu diễn ở Việt Nam .................................................................................................. 33 1.3. Tính đặc thù trong quản lý các tổ chức nghệ thuật biểu diễn ở Việt Nam ........... 41 Tiểu kết ............................................................................................................... 45 Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC CỦA CÁC TỔ CHỨC NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM ................................ 47 2.1. Bối cảnh hoạt động của các tổ chức nghệ thuật biểu diễn công lập trên địa bàn Hà Nội .................................................................................................... 47 2.2. Các tổ chức nghệ thuật biểu diễn công lập trên địa bàn Hà Nội ................... 50 2.3. Hoạt động quản lý nguồn nhân lực các tổ chức nghệ thuật biểu diễn công lập trên địa bàn Hà Nội ............................................................................... 54 2.4. Hiệu quả công tác quản lý nguồn nhân lực trong các tổ chức nghệ thuật biểu diễn công lập trên địa bàn Hà Nội ............................................................... 84 Tiểu kết ............................................................................................................... 98 Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC TRONG CÁC TỔ CHỨC NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN CÔNG LẬP TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI ........................................................................................ 99 3.1. Xu hướng phát triển ngành nghệ thuật biểu diễn ở Việt Nam hiện nay ............ 99 3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng quản lý nguồn nhân lực của các tổ chức nghệ thuật biểu diễn công lập ................................................................. 106 Tiểu kết ............................................................................................................. 126 KẾT LUẬN....................................................................................................................... 128 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN........................................................................................................... 132 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 133 PHỤ LỤC.......................................................................................................................... 143 3 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Bộ VHTTDL : Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch GS : Giáo sư NÐ : Nghị định NNL : Nguồn nhân lực NQ : Nghị quyết NSND : Nghệ sĩ nhân dân NSƯT : Nghệ sĩ ưu tú NTBD : Nghệ thuật biểu diễn Nxb : Nhà xuất bản PGS : Phó giáo sư QLNNL : Quản lý nguồn nhân lực QLVH : Quản lý văn hóa STT : Số thứ tự Tp. HCM : Thành phố Hồ Chí Minh Tr : Trang TS : Tiến sĩ 4 DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH TRONG LUẬN ÁN Bảng 1: Trình độ học vấn của NNL trong các tổ chức NTBD .............................. 57 Bảng 2: Bảng phân loại NNL theo lĩnh vực tại các tổ chức NTBD ...................... 59 Bảng 3: Cơ cấu theo độ tuổi NNL của Liên đoàn Xiếc Việt Nam ....................... 60 Bảng 4: Doanh thu của các tổ chức NTBD ........................................................... 85 Bảng 5: Số lượng khán giả của các tổ chức NTBD phục vụ biểu diễn ................. 86 Bảng 6: Số lượng vở diễn, tiết mục mới, chương trình nâng cao của các tổ chức NTBD ............................................................................................. 89 Bảng 7: Số lượng NSND, NSƯT trong các tổ chức NTBD .................................. 93 Hình 1: Bảng thang bậc nhu cầu của Abraham Maslow ....................................... 38 Hình 2: Mô hình thuyết kỳ vọng của Victor H. Vroom ........................................ 40 Hình 3: Mô hình QLNNL trong các tổ chức NTBD ............................................. 43 Hình 4: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của các tổ chức NTBD công lập ............................ 54 Hình 5: Biểu đồ so sánh NNL thay đổi sau cơ chế tự chủ .................................... 81 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, bất kỳ tổ chức nghệ thuật nào cũng đang hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt và đầy bất ổn. Điều đó đòi hỏi mỗi tổ chức nghệ thuật cần có người quản lý giỏi, không những về kiến thức mà còn phải có kỹ năng điều hành. Harold Koontz chỉ ra rằng một trong những nguyên nhân thất bại trong tổ chức nghệ thuật là do thiếu năng lực và thiếu kinh nghiệm quản lý [38]. Tổ chức nghệ thuật là tổ chức của nghệ sĩ sáng tạo trong hoạt động nghệ thuật, sự sáng tạo độc đáo làm nên danh tiếng của tổ chức [132]. Hoạt động nghệ thuật đòi hỏi sự sáng tạo rất lớn, vì thế đội ngũ cán bộ, công chức, nghệ sĩ, diễn viên trong tổ chức này mang những đặc điểm rất khác biệt so với nguồn nhân lực (NNL) nói chung trong xã hội. Sự sáng tạo của NNL này tạo nên chất lượng sản phẩm và thương hiệu của tổ chức. NNL sáng tạo trở thành yếu tố quan trọng bậc nhất trong cấu trúc của tổ chức nghệ thuật. Tuy nhiên, hầu hết các tổ chức nghệ thuật biểu diễn (NTBD) ở Việt Nam hiện nay đang phải đối mặt với những khó khăn trong vấn đề quản lý nói chung và quản lý nguồn nhân lực (QLNNL) nói riêng. Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước, là nơi tập trung một lực lượng dân cư lớn, chính nhờ nguồn lao động dồi dào này mà các tổ chức, các ngành nghề tại Hà Nội thu hút được rất nhiều lao động có tay nghề chất lượng. Các tổ chức NTBD cũng phát triển hơn về số lượng, theo thống kê của Cục Nghệ thuật Biểu diễn, hiện nay có 11 tổ chức NTBD quốc gia đóng trên địa bàn Hà Nội, bao gồm: Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam, Nhà hát Chèo Việt Nam, Nhà hát Tuồng Việt Nam, Nhà hát Cải lương Việt Nam, Nhà hát Múa rối Việt Nam, Nhà hát Tuổi trẻ, Nhà hát Nghệ thuật đương đại Việt Nam, Liên đoàn Xiếc Việt Nam, Nhà hát Nhạc Vũ kịch Việt Nam, Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam, Nhà hát Kịch Việt Nam [9, tr.48-59]. Trong quá trình xã hội phát triển, nhiều loại hình giải trí mới xuất hiện và cạnh tranh khán giả gay gắt. Công chúng, đặc biệt là giới trẻ rất ít hoặc không còn 6 quan tâm đến các loại hình nghệ thuật truyền thống, vì thế, làm tăng thêm những khó khăn đã có mà các tổ chức NTBD phải đối mặt, đó là: đội ngũ lao động nghệ thuật có trình độ chuyên môn nhưng đã quá tuổi nghề, người có năng khiếu không muốn đi theo con đường nghệ thuật, người có tâm huyết với nghề thì nghề cũng khó đưa lại thu nhập đủ trang trải trong cuộc sống. Bên cạnh đó, các tổ chức NTBD khi tuyển dụng và đãi ngộ người nghệ sĩ còn bị chi phối bởi cơ chế bao cấp trước đây. Một số tổ chức NTBD có số nhân lực lớn nhưng chất lượng công việc vẫn không cao, việc bố trí sắp xếp công việc cho những nghệ sĩ không còn đủ sức khỏe để biểu diễn nhưng vẫn chưa đến tuổi nghỉ hưu đang đặt ra nhiều thách thức cho những nhà quản lý… Điều đó đã làm ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của tổ chức NTBD. Những năm gần đây, ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn coi con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội đã trở thành quan điểm có ý nghĩa định hướng các hoạt động xã hội. Quan niệm coi con người là trung tâm, phù hợp với tinh thần tôn vinh con người của tư tưởng truyền thống Việt Nam và cũng phù hợp với quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh cũng đã từng căn dặn toàn Đảng, toàn dân “Đầu tiên là công việc về con người” [61]. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây tư tưởng đạo đức, lối sống lành mạnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả xây dựng con người Việt Nam. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương khóa X: Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã đề ra những nhiệm vụ, giải pháp nhằm đổi mới công tác cán bộ. Nghị quyết số 33/-NQ/TW ngày 9/6/2014 Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã khẳng định: “Trọng dụng, tôn vinh trí thức, văn nghệ sĩ, nghệ nhân trên cơ sở cống hiến cho đất nước. Chú trọng phát triển năng khiếu, tài năng trẻ…” [28]; [29]; [30]. Cho đến nay, một số tổ chức nghệ thuật công lập đã thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ - CP của Chính phủ (gọi tắt là Nghị định 43), về việc quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy biên chế và tài chính đối với tổ chức sự nghiệp công lập. Tiếp đến là Nghị định số 16/2015/NĐ-CP 7 (Nghị định 16) ngày 14 tháng 2 năm 2015 do Chính phủ ban hành là Nghị định quy định cơ chế tự chủ của tổ chức sự nghiệp công lập. Mục tiêu căn bản của các tổ chức nghệ thuật tự chủ về tài chính này là chủ động bố trí, sắp xếp NNL, nâng cao chất lượng vở diễn nghệ thuật, chủ động trong việc quản lý chi tiêu tài chính của tổ chức, phân phối tiền lương, thưởng gắn với chất lượng và hiệu quả công việc… Tuy vậy, trong những năm qua, những tổ chức nghệ thuật hoạt động theo cơ chế tự chủ còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, trong đó có công tác QLNNL. Xuất phát thực tiễn trên, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề QLNNL ở Việt Nam nói chung và QLNNL trong các tổ chức NTBD nói riêng, đó là các bài nghiên cứu được đăng trên các tạp chí, các bài viết được tập hợp thành sách, các công trình nghiên cứu của các cơ quan nghiên cứu, một số khóa luận của các sinh viên trường văn hóa nghệ thuật. Tuy nhiên, QLNNL NTBD trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2015 (đặc biệt là trong bối cảnh một số tổ chức NTBD hoạt động theo cơ chế tự chủ, có rất ít các công trình nghiên cứu đề cập). Việc tìm hiểu tình hình nghiên cứu của các học giả đi trước là điều rất quan trọng, một mặt kế thừa những kết quả nghiên cứu về QLNNL trong các tổ chức nghệ thuật của các công trình nghiên cứu đã công bố, đồng thời tìm ra những vấn đề mới của luận án. Do đó, chúng tôi đã chọn đề tài Quản lý nguồn nhân lực trong các tổ chức nghệ thuật biểu diễn công lập trên địa bàn Hà Nội làm vấn đề nghiên cứu của luận án. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 2.1. Các nghiên cứu về quản lý văn hóa nghệ thuật Theo Byrnes (2009) trong Management and the Arts (Quản lý và nghệ thuật): Quản lý là quá trình tổ chức các nguồn lực nhằm đạt tới mục tiêu nào đó của tổ chức, trong đó bao gồm quá trình lập kế hoạch, điều hành, lãnh đạo và giám sát [124]. Hay trong cuốn Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế của tác giả Phan Hồng Giang và Bùi Hoài Sơn [37] cho rằng: Quản lý là định hướng sự phát triển của tổ chức trên cơ sở xác định mục tiêu và hướng mọi nỗ lực của cá nhân, của tổ chức vào mục tiêu chung đó, tạo động lực bằng cách kích thích, đánh giá, khen thưởng những người có công, uốn nắn những sai sót của cá 8 nhân trong tổ chức nhằm giảm bớt những thất thoát, sai lệch trong quá trình quản lý, tạo môi trường và điều kiện cho sự phát triển cá nhân và tổ chức [36]. Trong cuốn Những vấn đề cốt yếu của quản lý (1992) của nhóm Harold Koontz, Cyril Odonnell, Heinz Weihrich, các tác giả đã chỉ ra rằng hơn 90% các thất bại trong kinh doanh là do thiếu năng lực và kinh nghiệm quản lý [38]. Tại Việt Nam, có nhiều cuốn sách thống kê, tổng hợp về lịch sử ra đời, nội dung cơ bản các học thuyết quản lý như: Quản lý nguồn nhân lực trong khu vực Nhà nước, Christian Batal (2002) [18]; Quản lí nguồn nhân lực ở Việt Nam: một số vấn đề lí luận và thực tiễn, Phạm Thành Nghị (2004) [66]; Quản trị nguồn nhân lực, Trần Kim Dung (2006); Giáo trình hành vi tổ chức, Nguyễn Văn Giang, Phạm Tất Thắng (2012) [35]; Quản trị nguồn nhân lực, Nguyễn Quốc Tuấn (Chủ biên) (2006) [122]; Giáo trình Quản trị nhân lực Nguyễn Ngọc Quân (2007) [87]; Lưu Đan Thọ (2014), Quản trị học trong xu thế hội nhập (Những vấn đề cốt yếu của quản lý) [100]… Hầu hết, các cuốn sách đều đề cập đến nội dung tư tưởng và lý thuyết về quản lý lao động của các trường phái qua các thời kỳ lịch sử. Năm 2001, trên tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, tác giả Lương Hồng Quang có loạt bài “Quản lý văn hóa nghệ thuật” tổng thuật từ cuốn Management and the Arts của W.J. Byrnes. Trong tổng thuật này, tác giả đã đưa đến cho người đọc nhiều vấn đề có tính nguyên lý rất quan trọng của quản lý văn hóa như: khái niệm quản lý, nhà quản lý, cấp độ quản lý, tiến trình quản lý, kinh tế học và nghệ thuật, marketing, gây quỹ ... [124, tr.97-101]. Đây là các vấn đề lý luận mới, quan trọng và cần thiết đối với hoạt động quản lý văn hóa nghệ thuật của nước ta trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay. Cũng nhằm mục đích cung cấp những kiến thức về vấn đề cơ bản của Bộ môn quản lý văn hóa nghệ thuật theo những thực tiễn của các nước Âu Mỹ, tập tài liệu Nhập môn Quản lý Văn hóa nghệ thuật do Lương Hồng Quang và Đỗ Thị Thanh Thủy dịch năm 2004. Nội dung gồm 7 chương, trong đó có những phần đề cập đến lịch sử của quản lý, các trường phái khác nhau theo các thời kỳ lịch sử, các vấn đề như người lãnh đạo, nhân lực trong quản lý, kinh tế và nghệ thuật, quản lý tài chính… [86]. 9 Kinh nghiệm thực tiễn về quản lý văn hóa ở một số nước phát triển đã đạt được những thành tựu nhất định là điều rất cần thiết cho những nhà quản lý nghệ thuật. Tác giả Phan Hồng Giang, Bùi Hoài Sơn trong bài viết “Quản lý văn hóa ở một số nước và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam” [37] đã tìm hiểu kinh nghiệm quản lý văn hóa ở các quốc gia tiêu biểu như Anh, Mỹ, Hàn Quốc và Trung Quốc. Từ đó, đề ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như: hướng hoạt động văn hóa đi vào chiều sâu; tăng cường chính sách bảo hộ và chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa; nâng cao công tác đào tạo nhân lực; xây dựng, hoàn thiện các văn bản, quy phạm pháp luật; tổ chức hệ thống quản lý và điều hành chính sách văn hóa… Năm 2012, cuốn sách Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế của Phan Hồng Giang và Bùi Hoài Sơn đồng chủ biên [36], đã đề cập đến nhiều mặt của hoạt động quản lý văn hóa ở nước ta trong điều kiện, hoàn cảnh mới bao gồm cả những vấn đề lý luận về quản lý văn hóa nói chung, những kinh nghiệm về quản lý văn hóa của một số nước trên thế giới và trong khu vực, thực trạng quản lý của các lĩnh vực văn hóa như mỹ thuật, nhiếp ảnh, xuất bản, báo chí, thư viện, di sản văn hóa… Tuy nhiên, vì cùng lúc đi vào hàng loạt các lĩnh vực khác nhau của văn hóa nên việc nghiên cứu thực trạng cũng như đề xuất các giải pháp, kiến nghị mang tính khái quát, chưa chuyên sâu, cụ thể cho từng lĩnh vực như: sân khấu, điện ảnh…. Cũng bàn về quản lý văn hóa trong thời kỳ hội nhập, tác giả Lương Hồng Quang trong bài viết “Tổ chức nghệ thuật và vấn đề quản lý tài chính” (2004) [85], hay bài “Về ngành quản lý văn hóa” (2009) [43] của tác giả Phạm Bích Huyền, cùng đề cập quản lý tài chính là nhiệm vụ rất quan trọng đối với nhà quản lý trong tổ chức nghệ thuật, đồng thời phân tích điểm giống và khác nhau trong quản lý tài chính của tổ chức lợi nhuận và tổ chức phi lợi nhuận trong các tổ chức nói chung và tổ chức nghệ thuật nói riêng. Công trình “Cơ chế tự chủ tài chính cho hoạt động biểu diễn nghệ thuật và xã hội hóa hoạt động biểu diễn nghệ thuật nhìn từ góc độ tài chính” của nhóm tác giả Nguyễn Danh Ngà, Nguyễn Ngọc Bích… [65] cũng đã tìm hiểu những kinh nghiệm đầu tư ngân sách vào quản lý tài chính ở một số nước trên thế giới: Anh, Pháp, Mỹ, Trung Quốc để phân tích đặc 10 điểm của hoạt động biểu diễn nghệ thuật trong nền kinh tế thị trường, trong đó nhấn mạnh việc đầu tư ngân sách nhà nước và quản lý tài chính đối với hoạt đông biểu diễn nghệ thuật là khách quan và tất yếu. Công trình “Cơ chế tự chủ tài chính và định hướng phát triển trong quá trình hội nhập của các đơn vị nghệ thuật biểu diễn” của nhóm tác giả Đinh Quang Trung, Nguyễn Đăng Chương… [118] đã đề cập và phân tích thực trạng các tổ chức NTBD công lập qua việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính, công trình cũng đã nêu được những thuận lợi và khó khăn của các tổ chức NTBD, đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn của các tổ chức NTBD trong tình hình hiện nay, trong đó có công tác QLNNL. Tóm lại, các nghiên cứu về quản lý văn hóa nêu trên đã đề cập những khó khăn và thuận lợi trong lĩnh vực quản lý văn hóa ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về QLNNL được vận dụng ở các tổ chức NTBD trong bối cảnh Việt Nam vận hành theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể. 2.2. Các nghiên cứu về quản lý nguồn nhân lực trong các tổ chức văn hóa nghệ thuật Trong cuốn Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế (2010), do Nguyễn Chí Bền chủ biên đã dành một phần trong nội dung cuốn sách nêu lên thực trạng của sân khấu Việt Nam, đánh giá những thành tựu và những khó khăn của các tổ chức NTBD hiện nay, đồng thời nội dung cũng đề cập về phát triển NNL con người Việt Nam nói chung và đề xuất những chính sách phát triển nghệ thuật, trong đó đề cập đến chính sách về tuyển dụng và đào tạo NNL trong các tổ chức NTBD ở nước ta hiện nay [6]. Hay cuốn Hợp tác quốc tế về văn hóa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, của tác giả Lê Thị Hoài Phương (2009), cũng đánh giá những mặt ưu điểm và hạn chế của mô hình quản lý hành chính trong lĩnh vực quản lý văn hóa, đồng thời cũng đề cập đến những bất cập cơ chế quản lý, công tác đào tạo, về quản lý con người như: đãi ngộ, chế độ dành cho đào tạo và bồi dưỡng nhân lực ở nước ngoài của trong các tổ chức văn hóa nghệ thuật [82]. 11 Thực tiễn quản lý cho thấy, không có phương pháp quản lý nào tối ưu cho tất cả các tổ chức nghệ thuật, nên việc áp dụng các phương pháp quản lý phải tùy vào từng loại hình và đặc thù của tổ chức NTBD. Những cuốn sách và các bài nghiên cứu về nghệ thuật: “Sân khấu ta, bao giờ cho đến ngày xưa”, Phạm Duy Khuê [56]; Sân khấu và tôi của tác giả Nguyễn Thị Minh Thái (2005) [96]; Về sân khấu Việt Nam - Tuyển tập Đình Quang, Đình Quang (2005) [84]; Giáo trình Phê bình tác phẩm văn học nghệ thuật trên báo chí, Nguyễn Thị Minh Thái (2005) [95]; Mấy vấn đề công chúng của nghệ thuật sân khấu, Phan Thọ (2009) [104]... là những công trình nghiên cứu đã phân tích những đặc thù của nghệ thuật sân khấu và chỉ ra những đặc điểm riêng của NNL trong các tổ chức nghệ thuật. QLNNL trong các tổ chức NTBD đang là vấn đề được quan tâm của các nhà nghiên cứu hiện nay. Một loạt các bài viết: “Về tình hình nghệ thuật sân khấu Việt Nam hôm nay”, Trần Trí Trắc (1991) [112]; “Xã hội hóa hoạt động sân khấu - thực trạng và giải pháp”, Nguyễn Thị Minh Thái (2005) [94]; “Nghệ thuật sân khấu thực trạng và tương lai”, Trọng Khôi (2009) [52]; “Diễn viên kịch hát dân tộc trước thềm hội diễn”, Trần Thị Minh Thu (2009) [105]; “Cải lương Bắc phải có sự điều chỉnh kịp thời để kéo khán giả trở lại”, Ngọc Anh (2010) [2]; “Các nhà hát đồng loạt… kêu khổ”, Thanh Tâm (2011) [90]; “Diễn viên kịch hát dân tộc nỗi niềm biết ngỏ cùng ai”, Thu Huyền (2014) [46] ... đã đề cập tới những khó khăn của các tổ chức NTBD khi thực hiện lộ trình tự chủ, trong đó: việc sử dụng NNL của các tổ chức nghệ thuật chưa hiệu quả, đội ngũ diễn viên kế cận còn hạn chế về kỹ thuật biểu diễn, về chính sách lương (ngạch, bậc) cho nghệ sĩ hiện nay còn nhiều bất cập... Bên cạnh đó, chế độ phụ cấp cho luyện tập và biểu diễn còn thấp nên khó có thể kích thích được người nghệ sĩ toàn tâm toàn ý cho công việc sáng tạo nghệ thuật của mình. Tác giả Nguyễn Quang Hưng trong bài “Quan tâm hơn đến đào tạo và đãi ngộ nghệ sĩ” đã tổng hợp ý kiến của các nghệ sĩ - nhà quản lý, trình bày quan điểm, kiến nghị về các vấn đề cơ chế chính sách đối với người làm công tác nghệ thuật đó là: không nên cố định tuổi về hưu của nghệ sĩ, khi tuyển dụng và đãi ngộ cần căn cứ vào đặc thù của bộ môn nghệ thuật… [47, tr.7]. 12 Những nhận xét nêu trên của các nhà nghiên cứu cũng là vấn đề đặt ra cho luận án cần phải giải quyết, phải chăng lương bổng và chế độ đãi ngộ thấp đã dẫn tới tình trạng người nghệ sĩ không chuyên tâm với nghề, không có động lực sáng tạo, kéo theo chất lượng vở diễn đi xuống. Đào tạo là công việc thiết yếu trong QLNNL, trong bài “Mấy suy nghĩ về chiến lược văn hóa” (1997), tác giả Phạm Duy Khuê nhấn mạnh: Đào tạo văn hóa nghệ thuật là loại đào tạo đặc biệt, phải ưu tiên cho tài năng, năng khiếu bẩm sinh.. [55, tr.43]; “Đề án Quy hoạch phát triển Nghệ thuật biểu diễn Việt Nam đến năm 2010”, Lê Ngọc Cường (2009) [23]; “Về chất lượng đào tạo tác giả kịch hát dân tộc”, Trần Trí Trắc (2006) [115]; “Vai trò thiết kế mỹ thuật sân khấu”, Doãn Châu (2009) [17]; “Hoá trang Việt Nam: nhiều vấn đề cấp thiết đang bị bỏ quên”, Mai Thế (2009) [99]; “Thực trạng đào tạo và trách nhiệm xây dựng đời sống âm nhạc ở nước ta hiện nay” Nguyễn Thiếu Hoa (2009) [39]; “Bàn về đào tạo tác giả Chèo”, Trần Trí Trắc (2013) [117]; “Lối đi nào trong đào tạo thanh nhạc”, Phạm Thị Nhung (2013) [76]; “Đầu tư cho vai diễn, bài toán nhìn từ chất lượng”, Quỳnh Nga (2013) [63] ... các bài viết đã phản ánh những tồn tại trong công tác đào tạo NNL của tổ chức NTBD. Tổng hợp lại những ý kiến của các nhà quản lý trong hội thảo “Nâng cao trình độ kỹ năng, kỹ xảo nghệ thuật xiếc Việt Nam”. Tác giả Ngọc Anh cho rằng: Hiện nay, đạo diễn và đội ngũ sáng tạo về nghệ thuật Xiếc còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tế, do đó cần đào tạo đội ngũ đạo diễn, biên đạo, tác giả kịch bản... bên cạnh đó là việc đổi mới về chính sách, chế độ cho NNL của bộ môn đặc thù này [1, tr.9]. Trong bài “Xã hội hóa hoạt động sân khấu - thực trạng và giải pháp”, tác giả Nguyễn Thị Minh Thái cũng đưa ra kiến nghị: Muốn có một sân khấu tử tế, là bộ mặt văn hóa, văn minh của một dân tộc, một quốc gia, thì bất cứ nhà nước nào cũng phải bảo trợ cho sân khấu. Tác giả đã dẫn lời của đạo diễn Nguyễn Đình Nghi: Đề nghị giữ chế độ bao cấp, nhất là bao cấp các đoàn sân khấu dân tộc: Chèo, Tuồng và đặc biệt là bao cấp người xem, làm sao có thể bù lỗ cho ghế ngồi của người xem như một số nước đã làm... [94, tr.87]. 13 Tóm lại: Các bài nghiên cứu trên đã nêu lên thực trạng của QLNNL trong tổ chức nghệ thuật. Vấn đề đặt ra là khi các tổ chức NTBD thực hiện lộ trình tự chủ với bộ máy cồng kềnh về nhân lực như hiện nay thì họ có phát huy tính tự chủ được không, đồng thời khi hạch toán thu chi, các chương trình nghệ thuật sẽ phải tính đến việc đảm bảo doanh thu, chạy theo xu hướng nghệ thuật thương mại nên chất lượng nghệ thuật có thể không được chú trọng. Trước thực trạng đó, các bài viết cũng đề cập tới những giải pháp cho tổ chức NTBD. Trong đó có các bài: “Góp bàn về xã hội hóa sân khấu hôm nay”, Trần Trí Trắc (1996) [114]; “Vài suy nghĩ về vấn đề xã hội hóa hoạt động văn hóa”, Phạm Duy Khuê (1997) [54]; “Thực trạng và giải pháp nhằm phát triển nghệ thuật biểu diễn”, Trọng Khôi (2006) [51]; “Những kiến nghị với Quốc hội về nghệ thuật biểu diễn”, Lê Tiến Thọ (2010) [101]; “Chế độ, chính sách trong hoạt động biểu diễn nghệ thuật cần phù hợp với tình hình thực tiễn”, Minh Mẫn (2011) [60]; “Một vài giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo và tìm nguồn cho xiếc đỉnh cao”, Vũ Ngoạn Hợp (2011) [41]; “Một số đề xuất về chính sách cấp bách trong nghệ thuật biểu diễn”, Đào Đăng Hoàn (2011) [40]; “Giới trẻ và nghề biên kịch sân khấu”, Quỳnh Nga (2013) [62] ... nội dung các bài viết đã đề xuất: Nên sớm có Bộ Luật cho hoạt động NTBD; Bên cạnh đó xây dựng một cơ chế chính sách phù hợp đối với đặc thù của hoạt động NTBD hiện nay, đặc biệt là các quy định về điều kiện tuyển dụng và chế độ đãi ngộ cho nghệ sĩ phù hợp với hoàn cảnh xã hội ở mỗi thời kỳ; Căn cứ nhiệm vụ, chức năng của tổ chức nghệ thuật, cần tạo môi trường và có chế độ ưu tiên cho các hoạt động biểu diễn đối với các tổ chức NTBD trực thuộc Bộ VHTTDL; Ngoài ra cần bồi dưỡng, đào tạo, nâng cao năng lực, trình độ quản lý của cán bộ là vô cùng cần thiết. Đặc biệt, đối với các tổ chức NTBD này có đặc thù riêng về lao động và môi trường hoạt động thì năng lực người quản lý lại càng quan trọng. Các công trình nghiên cứu về quản lý tổ chức nghệ thuật của các nhà nghiên cứu ở Phương Tây cũng là nguồn tài liệu tham khảo trong đề tài, những cuốn sách như: How to run a theatre (Làm thế nào để vận hành một nhà hát), Jim Volz (2004) 14 [130]; Theatre Management (Quản lý Nhà hát); David M.Conte (2007) [127]; Management and the Arts (Quản lý và nghệ thuật), Byrnes, J. W. (2009) [126]; Art management (Quản lý nghệ thuật), Chong, D. (2002) [128]; From Arts Management to Cutural Adminitration (Từ quản lý nghệ thuật đến quản trị văn hóa), Dewey, P. (2004) [129]; Leader ship and Arts Management (Lãnh đạo và quản lý nghệ thuật), Laurent Lapierre (2001) [131] … đều đề cập đến vai trò của công tác QLNNL, trong đó khẳng định NNL luôn đóng một vai trò quan trọng trong sự tồn tại phát triển của tổ chức, các nghiên cứu cũng nêu những khó khăn trong công tác QLNNL sáng tạo của các nhà hát, đồng thời luôn khẳng định các nhà hát luôn phải tự thích ứng với môi trường luôn biến động và các nhà quản lý luôn phải tìm hiểu các cách thức quản lý phù hợp trong tổ chức của mình như chính sách động viên, tạo ra môi trường và động cơ phù hợp cho từng tổ chức nghệ thuật. Trong bài “The Management of the Culture and Information Sector in VietNam: Present Situation and Solutions” (Việc quản lý lĩnh vực văn hóa thông tin ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp) của Nguyễn Chí Bền đăng trên tạp chí Asia Pacific Journal of Arts and Cultural Management, bài nghiên cứu phân tích hiện trạng quản lý văn hóa và thông tin ở Việt Nam, trong đó có đề cập đến công cụ quản lý, cấu trúc tổ chức và NNL trong ngành văn hóa thông tin. Tác giả đã phân tích những điểm mạnh điểm yếu trong hệ thống tổ chức do sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời tác giả đưa ra các đề xuất liên quan đến cải cách các công cụ quản lý, về cơ cấu tổ chức và NNL văn hóa trong bối cảnh đất nước hiện nay [125]. Tác giả Mike Hudson với bài “Quản lý nhân lực” [131] được trích trong cuốn Quản lý không lợi nhuận do Tập đoàn Penguin xuất bản đã nêu: một nhà quản lý giỏi là người phải nắm được điểm mạnh và điểm yếu của từng cá nhân trong tổ chức, khuyến khích mọi người trong tổ chức tham gia làm việc nhóm, người quản lý cần phải trao quyền cho mỗi người, đồng thời áp dụng nhiều phương pháp khuyến khích học hỏi để phát triển tiềm năng của con người trong tổ chức. Tác giả Laurent Lapierre với bài “Lãnh đạo và quản lý nghệ thuật” [131] đã đề cập Quản lý một tổ chức nghệ thuật không khác với quản lý một doanh nghiệp thương 15 mại. Tác giả cho rằng lãnh đạo các tổ chức nghệ thuật phụ thuộc vào các nghệ sĩ, có nghĩa quản lý là phục vụ và phụ thuộc vào nghệ thuật. Nhấn mạnh vai trò của NNL trong tổ chức, bài viết đề cập sự thành công của các tổ chức nghệ thuật nói chung phụ thuộc vào khả năng sẵn sàng của người nghệ sĩ cống hiến bản thân mình cho tác phẩm, bộ môn nghệ thuật hay cho một tiết mục. Với nội dung các bài viết nêu trên, đây là những quan điểm mới mà chúng tôi sẽ áp dụng nghiên cứu và phân tích về công tác quản lý và lãnh đạo trong tổ chức nghệ thuật, đặc biệt là QLNNL trong các tổ chức NTBD tại Việt Nam. Tóm lại: Các công trình nghiên cứu này đều có những đánh giá khách quan, khoa học về thành tựu cũng như khó khăn, hạn chế của công tác QLNNL trong các tổ chức NTBD hiện nay, đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn trong QLNNL NTBD hiện nay. Nghiên cứu của các công trình này là tài liệu có giá trị cho chúng tôi tham khảo và vận dụng khi giải quyết các nhiệm vụ của luận án. 3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là các vấn đề về QLNNL của tổ chức NTBD công lập trong bối cảnh thay đổi về cơ chế quản lý nói chung và các tổ chức NTBD nói riêng. 4. Phạm vi nghiên cứu - Không gian nghiên cứu của luận án: Luận án lựa chọn 08 tổ chức NTBD trong tổng số 12 tổ chức NTBD quốc gia. Đây là những tổ chức NTBD thuộc khu vực Nhà nước, trong đó mỗi tổ chức có một phong cách quản lý riêng tùy thuộc vào NNL đặc thù của mỗi tổ chức NTBD. Bên cạnh đó, tuy không phải là đối tượng nghiên cứu chính của luận án nhưng hoạt động QLNNL của một số tổ chức NTBD như: Nhà hát Chèo Hà Nội, Nhà hát Múa rối Thăng Long… cũng được đề cập để phân tích, so sánh nhằm làm rõ nội dung của luận án. - Thời gian khảo sát: 08 tổ chức NTBD trên được chúng tôi khảo sát trong 4 năm, từ năm 2012 đến năm 2015. Đây là giai đoạn các tổ chức NTBD công lập thực hiện lộ trình tự chủ do Nhà nước ban hành trong tổ chức, sắp xếp, sử dụng lao động và nguồn lực tài chính nhằm hoàn thành nhiệm vụ được giao và phát huy khả năng của tổ chức. 16 5. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở tổng kết thực tiễn hoạt động QLNNL của các tổ chức NTBD công lập trên địa bàn Hà Nội trong bối cảnh chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, luận án phân tích, đánh giá quá trình chuyển đổi về QLNNL trong các tổ chức này, đề xuất những giải pháp quản lý nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng NNL của các tổ chức NTBD công lập, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức NTBD công lập hiện nay trong bối cảnh hội nhập và hiện đại hóa. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu các vấn đề lý luận về QLNNL trong các tổ chức NTBD công lập, trên cơ sở đó xây dựng khung phân tích về QLNNL trong các tổ chức NTBD trên địa bàn Hà Nội; - Đánh giá thực trạng và hiệu quả về công tác QLNNL. Qua đó thấy rõ những thuận lợi và khó khăn trong công tác quản lý con người trong các tổ chức NTBD; - Xác định những định hướng, giải pháp nhằm duy trì, phát triển NNL trong các tổ chức NTBD công lập hiện nay. 7. Phương pháp nghiên cứu Từ góc độ lý thuyết tạo động lực cho người lao động trong tổ chức NTBD, trong đó nghiên cứu về quản lý con người trong tổ chức, luận án nghiên cứu dựa trên phương pháp tiếp cận liên ngành, trọng tâm là: khoa học quản lý, nghệ thuật học, văn hóa học và tâm lý học. Để triển khai hướng tiếp cận liên ngành trên, luận án đã sử dụng các phương pháp cụ thể sau: - Nghiên cứu trường hợp: chúng tôi lựa chọn nghiên cứu trường hợp 08 tổ chức NTBD trên địa bàn Hà Nội từ năm 2012 đến năm 2015 để thu thập tài liệu mang tính sơ cấp. 08 tổ chức NTBD này được phân loại theo loại hình như sau: loại hình sân khấu dân tộc (Nhà hát Cải lương Việt Nam); loại hình sân khấu truyền thống (Nhà hát Tuồng Việt Nam, Nhà hát Chèo Việt Nam, Nhà hát Múa rối Việt Nam); loại hình sân khấu hiện đại (Nhà hát Nghệ thuật đương đại Việt Nam, Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam, Liên đoàn Xiếc Việt Nam, Nhà hát Tuổi trẻ). Những tổ 17 chức NTBD này đều có những NNL sáng tạo đặc thù cho từng loại hình NTBD, do đó, phương thức QLNNL của các tổ chức này cũng khác nhau. Bên cạnh đó, các tổ chức NTBD này đang hoạt động trong bối cảnh chuyển đổi, bởi từ năm 2012, Bộ VHTTDL đã giao quyền tự chủ 100% cho 04 tổ chức, trong đó có 01 tổ chức NTBD đó là: Nhà hát Nghệ thuật đương đại Việt Nam. Năm 2015, Bộ VHTTDL tiếp tục chọn 04 tổ chức NTBD để tiếp tục triển khai. Trong đó Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam sẽ tự chủ 100%, 03 tổ chức NTBD gồm: Nhà hát Tuổi trẻ, Liên đoàn Xiếc Việt Nam, Nhà hát Múa rối Việt Nam sẽ cắt giảm kinh phí 30% do Bộ VHTTDL cấp, các tổ chức NTBD còn lại vẫn hoạt động theo chế độ bao cấp của Nhà nước. Các tổ chức NTBD này hiện nay đang rất lúng túng và gặp khó khăn trong công tác quản lý, đặc biệt là QLNNL; - Phân tích tài liệu: Trước khi tiến hành các cuộc phỏng vấn sâu, tác giả sử dụng phương pháp phân tích tài liệu, tham khảo các nghiên cứu trước đây liên quan đến con người, quản lý con người, các tài liệu liên quan về hoạt động của các tổ chức NTBD như: báo cáo tổng kết hàng năm của các tổ chức NTBD (do Phòng Tổng hợp - Cục Nghệ thuật Biểu diễn và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội cung cấp), các bài nghiên cứu về thực trạng QLNNL văn hóa nghệ thuật đăng trên tạp chí chuyên ngành và các bài báo viết về thực trạng của các tổ chức NTBD, về sân khấu Việt Nam. Luận án còn nghiên cứu và tổng hợp, phân tích phần lý thuyết QLNNL văn hóa nghệ thuật và những vấn đề liên quan tới luận án; - Phương pháp điều tra, khảo sát: Chúng tôi đã tiến hành cuộc phỏng vấn sâu dành cho nhiều đối tượng: Ban giám đốc tổ chức NTBD, cán bộ lãnh đạo các phòng ban như: phòng tổ chức biểu diễn, phòng nghệ thuật, phòng hành chính, các nghệ sĩ, đạo diễn, diễn viên… của các tổ chức NTBD với những câu hỏi liên quan đến NNL trong tổ chức nghệ thuật, về cách thức quản lý, cơ chế tuyển dụng, đãi ngộ. Thông tin thu được từ các cuộc phỏng vấn với những đối tượng trên là cơ sở để giải thích những khó khăn và tồn tại của công tác QLNNL trong tổ chức NTBD hiện nay. Bên cạnh đó, tác giả còn thực hiện phỏng vấn với một số người đã và đang công tác quản lý trong lĩnh vực sân khấu để tìm hiểu về sân khấu Việt Nam với góc nhìn mang tính 18 lịch đại và đồng đại. Đồng thời tiến hành quan sát: Thông qua quá trình mua vé tham dự chương trình biểu diễn của các tổ chức NTBD, tác giả còn có cơ hội quan sát các buổi tập, dàn dựng các vở của đội ngũ đạo diễn, diễn viên…. - Phương pháp dự báo: trên cơ sở phân tích, tổng hợp, tác giả sử dụng phương pháp dự báo nhằm đưa ra các giải pháp, xu hướng về công tác QLNNL trong các tổ chức NTBD công lập ở Hà Nội trong bối cảnh hiện nay. 8. Đóng góp của luận án - Góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong công tác QLNNL của các tổ chức NTBD nói riêng và văn hóa nghệ thuật nói chung; - Trên cơ sở phân tích được thực trạng (thành tựu, đánh giá thực trạng) QLNNL trong tổ chức NTBD công lập, qua đó để thấy được những thuận lợi, khó khăn và hạn chế trong công tác QLNNL của các tổ chức NTBD công lập; - Góp phần cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những quan điểm, cách tiếp cận, định hướng, phương pháp, nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả NNL trong các tổ chức NTBD hiện nay. Đồng thời, những đóng góp của luận án còn là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan quản lý Nhà nước, tổ chức nghệ thuật, các cơ sở đào tạo về quản lý văn hóa nghệ thuật. 9. Bố cục của luận án Ngoài phần mở đầu (14 trang), Kết luận (4 trang) Tài liệu tham khảo (10 trang), Phụ lục (50 trang), nội dung của luận án được chia gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý nguồn nhân lực trong các tổ chức nghệ thuật biểu diễn công lập ở Việt Nam (28 trang) Chương 2: Thực trạng quản lý nguồn nhân lực của các tổ chức nghệ thuật biểu diễn công lập trên địa bàn Hà Nội (52 trang) Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng quản lý nguồn nhân lực trong các tổ chức nghệ thuật biểu diễn công lập trên địa bàn Hà Nội (29 trang)
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan