Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ QUẢN LÝ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 25 NĂM QUA VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHO GI...

Tài liệu QUẢN LÝ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 25 NĂM QUA VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHO GIAI ĐOẠN MỚI

.DOCX
222
77
52

Mô tả:

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ KỶ YẾU HỘI NGHỊ 25 NĂM ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM NĂM 2013 1 MỤC LỤC STT Nội dung Đơn vị 1 Quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Vam 25 năm qua và định hướng cho giai đoạn mới Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 2 Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Vam: 25 năm thu hút và phát triển Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 3 Phân cấp quản lý fdi – lợi thế đối với thu hút FDI Tên/chức danh Đ/c Bùi Quang Vinh, UVTW Đảng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Thứ trưởng Đào Quang Thu Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư nước ngoài Chủ tịch GS.TSKH Nguyễn Mại 4 Đầu tư nước ngoài trong phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam Bộ Công thương Lãnh đạo Bộ 5 Chính sách thuế và ưu đãi đầu tư trong đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Bộ Tài chính Lãnh đạo Bộ 6 Chính sách đất đai đối với đầu tư nước ngoài ở Việt Nam Bộ Tài nguyên 7 Đầu tư nước ngoài với phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam Môi trường Bộ Giao thông Vận tải 8 Đầu tư nước ngoài trong hoạt động đổi mới và chuyển giao công nghệ ở Việt Nam Lãnh đạo Bộ Bộ Khoa học Công nghệ Lãnh đạo Bộ Lãnh đạo Bộ 9 Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn 10 Công tác cải cách thủ tục hành chính và thu hút đầu tư nước ngoài Văn phòng Chính phủ Lãnh đạo VPCP 11 Định hướng phát triển KCN, Bộ Kế hoạch và Vụ trưởng KKT để thu hút vốn đầu tư nước ngoài Đầu tư. Vụ Quản lý các KKT Lãnh đạo Bộ Vũ Đại Thắng 12 Cơ chế phối hợp trong công tác quản lý nhà nước về FDI UBND thành phố Hà Nội Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Văn Sửu 13 Thực hiện phân cấp quản lý về đầu tư nước ngoài tại tỉnh Đồng Nai 14 Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong phát triển kinh tế -xã hội và công tác quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới góc độ địa phương 15 Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong phát triển kinh tế - xã hội tại tỉnh Hải Dương UBND tỉnh Đồng Nam Lãnh đạo UBND tỉnh Đồng Nam UBND tỉnh Vĩnh Phúc Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc Phùng Quang Hùng Bắc Ninh nhìn lại 15 năm thu hút 16 đầu tư nước ngoài những điều chỉnh chính sách trong thời gian tới UBND tỉnh Hải Dương UBND tỉnh Bắc Ninh Lãnh đạo UBND tỉnh Hải Dương Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh Nguyễn Nhân Chiến 17 Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế xã hội tại Nghệ An UBND tỉnh Nghệ An Lãnh đạo UBND tỉnh Nghệ An 18 Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế xã hội tại tỉnh Hà Tĩnh UBND tỉnh Hà Tĩnh Lãnh đạo UBND tỉnh Hà Tĩnh 19 Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế xã hội tại Đà Nẵng UBND thành phố Đà Nẵng Chủ tịch UBND 20 Đầu tư nước ngoài với phát triển kinh tế xã hội tại tỉnh Phú Yên 21 Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong phát triển kinh tế -xã hội địa phương và công tác quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài dưới góc độ địa phương 22 Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế xã hội tại tỉnh Bình Dương Thách thức và kiến nghị cho việt Văn Hữu Chiến UBND tỉnh Phú Yên Lãnh đạo UBND tỉnh Phú Yên UBND tỉnh Ninh Thuận Lãnh đạo UBND tỉnh Ninh Thuận UBND tỉnh Bình Dương Lãnh đạo UBND tỉnh Bình Dương 23 nam trong việc thu hút FDI trong thời gian tới – EUROCHAM EUROCHAM 24 Phối hợp điều tra và đánh giá tình hình đầu tư trực tiếp từ nước ngoài của Việt Nam trong 25 năm qua AUSCHAM Môi trường đầu tư tại Việt nam 25 26 JETRO Môi trường đầu tư tại Việt nam JETRO Amcham Ông Mark Gillin, Phó Chủ tịch Amcham QUẢN LÝ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 25 NĂM QUA VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHO GIAI ĐOẠN MỚI Đ/c Bùi Quang Vinh Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Là một trong những dấu ấn đậm nét nhất của chính sách đổi mới kinh tế, Luật Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tại Việt Nam được ban hành lần đầu tiên vào tháng 12 năm 1987, trở thành khung khổ luật pháp cơ bản đầu tiên cụ thể hóa quan điểm của Đảng ta về mở cửa, hội nhập. Tuy có đôi lúc thăng trầm, song khu vực kinh tế có vốn ĐTNN nói riêng và các hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung đã thể hiện vai trò tích cực trong thành tựu tăng trưởng, phát triển của Việt Nam suốt 25 năm qua, và ngày càng khẳng định ảnh hưởng tích cực nhiều mặt đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời gian tới. Trong giai đoạn đầu mở cửa, ĐTNN là giải pháp hữu hiệu góp phần đưa Việt Nam ra khỏi tình thế khó khăn của tình trạng bị bao vây, cấm vận; khẳng định xu thế mở cửa và quan điểm “Việt Nam muốn là bạn của các nước trong cộng đồng thế giới”. Trong các giai đoạn tiếp theo, ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, góp phần đáng kể thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ, khai thông thị trường quốc tế, gia tăng kim ngạch xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, đóng góp ngân sách nhà nước, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và tạo thêm việc làm. Bên cạnh những đóng góp trực tiếp nêu trên, ĐTNN đã có tác động lan tỏa đến các thành phần kinh tế khác của nền kinh tế, trong đó có việc khơi dậy các nguồn lực đầu tư trong nước, tạo sức ép cạnh tranh, thúc đẩy đổi mới và chuyển giao công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất; phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, góp phần đưa Việt Nam từng bước tham gia chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu. Đến nay, Việt Nam đã trở thành điểm đến của nhiều tập đoàn hàng đầu trên thế giới trong nhiều lĩnh vực khác nhau như BP, Total, Toyota, Canon, Samsung, Intel, Unilever… với những sản phẩm chất lượng quốc tế, qua đó vừa vừa góp phần khẳng định vị thế của Việt Nam trên bản đồ khu vực và thế giới, vừa góp phần tạo động lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa. ĐTNN cũng đóng vai trò tích cực trong việc hỗ trợ cho quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích đổi mới thủ tục hành chính và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường. Mặc dù ĐTNN đã đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, song việc thu hút ĐTNN thời gian qua chưa đạt được một số mục tiêu như kỳ vọng. Đó là tỷ lệ dự án sử dụng công nghệ cao còn thấp, chưa thu hút được công nghệ nguồn, tỷ lệ việc làm mới chưa cao. Tình trạng cấp Giấy chứng nhận đầu tư không phù hợp với quy hoạch; chưa quan tâm đầy đủ đến vấn đề an ninh quốc gia; chưa chú ý đến hiệu quả sử dụng tài nguyên đất đai, khoáng sản... còn diễn ra ở nhiều địa phương. Nhiều dự án chưa được thẩm tra, xem xét kỹ các khía cạnh công nghệ, lao động, môi trường, lao động... dẫn đến chất lượng dự án chưa cao. Những hạn chế vốn có của hoạt động đầu tư tư nhân như chuyển giá; không đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động về giờ làm việc, tiền lương, phúc lợi, dẫn đến việc đình công, bãi công; vi phạm pháp luật về môi trường chậm được khắc phục. Trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư gián tiếp không còn ổn định do tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, ODA có xu hướng giảm dần do Việt Nam tham gia vào hàng ngũ nước có thu nhập trung bình, nguồn vốn trong nước còn hạn chế, thì ĐTNN càng trở thành là nguồn lực quan trọng cho mục tiêu phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hiện nay, Việt Nam đang bước vào thời kỳ chiến lược mới với mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa, thu hút ĐTNN trong giai đoạn tới cần quán triệt định hướng sau: Một là, cần tạo bước chuyển mạnh về thu hút ĐTNN từ chạy theo số lượng sang chọn lọc các dự án có chất lượng, công nghệ cao, thân thiện với môi trường và phù hợp với định hướng tái cấu trúc nền kinh tế của từng vùng, từng ngành và quốc gia. Hai là, đặc biệt quan tâm thu hút các dự án quy mô lớn, sản phẩm cạnh tranh cao tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn xuyên quốc gia, từ đó xây dựng, phát triển hệ thống các ngành, các doanh nghiệp phụ trợ. Ba là, quy hoạch thu hút ĐTNN theo ngành, lĩnh vực, đối tác phù hợp với lợi thế của từng vùng để phát huy hiệu quả đầu tư của từng địa phương, từng vùng và phù hợp tổng thể lợi ích quốc gia. Bốn là, chuyển dần thu hút ĐTNN với lợi thế giá nhân công rẻ sang cạnh tranh bằng nguồn lực chất lượng cao. Để thực hiện thành công các mục tiêu về thu hút và sử dụng ĐTNN thời gian tới theo định hướng nêu trên thì việc đề ra những giải pháp mang tính đột phá, có hiệu quả và có tính thực thi cao là yếu tố cực kỳ quan trọng. Ngoài các giải pháp chung như ổn định kinh tế vĩ mô, mở rộng thị trường nội địa để tạo ưu thế về quy mô thị trường, tập trung khắc phục các “nút thắt” về cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, phát triển hệ thống doanh nghiệp trong nước, trong đó có công nghiệp hỗ trợ nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, chúng ta cùng cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ. Trước hết, phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư nhằm tạo môi trường đầu tư đồng bộ, minh bạch, rõ ràng và có tính tiên liệu. Sửa đổi chính sách ưu đãi đầu tư phù hợp với định hướng thu hút ĐTNN giai đoạn tới, đồng thời đảm bảo tính hấp dẫn, cạnh tranh so với các nước trong khu vực. Cải tiến một cách căn bản phương thức xúc tiến đầu tư theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, theo từng ngành, lĩnh vực, khu vực và đối tác. Công tác quản lý doanh nghiệp có vốn ĐTNN cũng được chú trọng cải thiện hiệu quả, đặc biệt là tập trung chuyển đổi mạnh áp dụng chế độ hậu ưu đãi và hậu kiểm, kết hợp tăng cường chế độ báo cáo, thống kê và giám sát, thanh tra. Cuối cùng, trong thời gian tới, Chính phủ sẽ tập trung nâng cao hiệu lực chỉ đạo, điều hành gắn với đẩy mạnh cải cách hành chính giảm chi phí và thời gian thực hiện các thủ tục cho công dân và doanh nghiệp; kiên quyết đẩy mạnh hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí để tạo môi trường kinh tế xã hội thuận lợi, cạnh tranh thu hút mạnh mẽ hơn nữa vốn đầu tư FDI. Trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những diễn biến nhanh và phức tạp, mang lại không ít những cơ hội và thách thức cho việc thu hút đầu tư nước ngoài, cần có giải pháp đột phá, có hiệu quả và tính thực thi cao để cải thiện môi trường đầu tư, tiếp tục thu hút và phát huy tối đa hiệu quả của nguồn vốn ĐTNN. Sự gia tăng quy mô và chất lượng liên kết kinh tế quốc tế không những tăng cường nguồn lực phát triển nền kinh tế mà còn là động lực của việc tiếp tục đổi mới trong nước và giảm thiểu sức ép, rủi ro từ bên ngoài. Với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, sự điều hành của Chính phủ và những kinh nghiệm quý báu đã đúc kết được sau 25 năm phát triển, ĐTNN nói riêng và hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung sẽ tiếp tục đạt được những thành công và có những đóng góp xứng đáng vào tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển của đất nước. Thân ái ! Bùi Quang Vinh ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM: 25 NĂM THU HÚT VÀ PHÁT TRIỂN Đào Quang Thu Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Sau 25 năm thực hiện chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài với việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) ngày càng phát huy vai trò quan trọng và có những đóng góp đáng kể trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Việc thu hút, sử dụng ĐTNN thời gian qua cơ bản đã đáp ứng những mục tiêu đề ra về thu hút vốn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, tăng năng suất lao động, tiếp thu công nghệ và kinh nghiệm quản lý hiện đại. Điều này khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Thứ nhất, ĐTNN góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu tư trong nước Tính đến tháng 8 năm 2012, cả nước có 14.095 dự án ĐTNN còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đạt 206,8 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đã giải ngân được 97,4 tỷ USD (chiếm 47% vốn đăng ký). ĐTNN là khu vực phát triển năng động nhất với tốc độ tăng GDP cao hơn tốc độ tăng trưởng cả nước: năm 1995 GDP của khu vực ĐTNN tăng 14,98% trong khi GDP cả nước tăng 9,54%; tốc độ này tương ứng là 11,44% và 6,79% (2000), 13,22% và 8,44% (2005), 8,12% và 6,78% (2010). Tỷ trọng đóng góp của khu vực ĐTNN trong GDP tăng dần, từ 2% GDP (1992), lên 12,7% (2000), 16,98% (2006) và 18,97% (2011). Tác động của ĐTNN đối với tăng trưởng kinh tế thể hiện rõ hơn thông qua: Bổ sung cho tổng vốn đầu tư xã hội Vốn ĐTNN thực hiện tăng nhanh qua các thời kỳ, từ khoảng 20,67 tỷ USD, chiếm 24,32% tổng vốn đầu tư xã hội (1991 – 2000) lên 69,47tỷ USD, chiếm 22,75% tổng vốn đầu tư xã hội (2001 – 2011). Tỷ trọng khu vực ĐTNN trong cơ cấu kinh tế giai đoạn 2000 – 2011 tăng 5,4%. Góp phần quan trọng vào xuất khẩu Chủ trương khuyến khích ĐTNN hướng về xuất khẩu đã tạo thuận lợi cho Việt Nam trong việc nâng cao năng lực xuất khẩu, qua đó giúp chúng ta từng bước tham gia và cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu. Trước năm 2001, xuất khẩu của khu vực ĐTNN chỉ đạt 45,2% tổng kim ngạch, kể cả dầu thô. Từ năm 2003, xuất khẩu của khu vực này bắt đầu vượt khu vực trong nước và dần trở thành nhân tố chính thúc đẩy xuất khẩu, chiếm khoảng 64% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012. ĐTNN góp phần làm thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng giảm tỷ trọng sản phẩm khai khoáng, mặt hàng sơ cấp, tăng dần tỷ trọng hàng 1 chế tạo . ĐTNN tác động tích cực tới việc mở rộng thị trường xuất khẩu nhất là sang Hoa Kỳ, EU, làm thay đổi đáng kể cơ cấu xuất khẩu, đưa Hoa Kỳ trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. ĐTNN còn góp phần ổn định thị trường trong nước, hạn chế nhập siêu thông qua việc cung cấp cho thị trường nội địa các sản phẩm chất lượng cao do doanh nghiệp trong nước sản xuất thay vì phải nhập khẩu như trước đây. Đóng góp vào nguồn thu ngân sách Đóng góp của ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng, từ 1,8 tỷ USD (19942000) lên 14,2 tỷ USD (2001 – 2010). Năm 2012, nộp ngân sách của khu vực ĐTNN (không kể dầu thô) là 3,7 tỷ USD, chiếm 11,9% tổng thu ngân sách (18,7% tổng thu nội địa, trừ dầu thô). Thứ hai, ĐTNN thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNHHĐH Hiện nay, 58,4% vốn ĐTNN tập trung vào lĩnh vực công nghiệp - xây dựng với trình độ công nghệ cao hơn mặt bằng chung của cả nước. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp - xây dựng của khu vực ĐTNN đạt bình quân gần 18%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng toàn ngành. Đến nay, khu vực ĐTNN đã tạo ra gần 45% giá trị sản xuất công nghiệp, góp phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như viễn thông, khai thác, chế biến dầu khí, điện tử, công nghệ thông tin, thép, xi măng... ĐTNN đã góp phần nhất định vào việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị hàng hóa nông sản xuất khẩu và tiếp thu một số công nghệ tiên tiến, giống cây, giống con có năng suất, chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế, tạo ra một số phương thức mới, có hiệu quả cao, nhất là các dự án đầu tư vào phát triển nguồn nguyên liệu, góp phần cải thiện tập quán canh tác và điều kiện hạ tầng yếu kém, lạc hậu ở một số địa phương. Khu vực ĐTNN đã tạo nên bộ mặt mới trong lĩnh vực dịch vụ chất lượng cao như khách sạn, văn phòng căn hộ cho thuê,ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn luật, vận tải biển, lô-gi-stíc, siêu thị... Các dịch vụ này cũng góp phần tạo ra phương thức mới trong phân phối hàng hóa, tiêu dùng, kích thích hoạt động thương mại nội địa và góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa. 1 Trước năm 2003, dầu thô chiếm tới gần một nửa xuất khẩu của khu vực ĐTNN. Từ năm 2007, tỷ lệ dầu thô trong tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ còn khoảng 7%. Thứ ba, ĐTNN tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thay đổi cơ cấu lao động Hiện nay khu vực ĐTNN tạo ra trên 2 triệu lao động trực tiếp và khoảng 3 - 4 triệu lao động gián tiếp, có tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng CNH-HĐH. Doanh nghiệp ĐTNN được xem là tiên phong trong việc đào tạo tại chỗ và đào tạo bên ngoài, nâng cao trình độ của công nhân, kỹ thuật viên, cán bộ quản lý, trong đó một bộ phận đã có năng lực quản lý, trình độ khoa học, công nghệ đủ sức thay thế chuyên gia nước ngoài. Ngoài ra, ĐTNN đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng lao động thông qua hiệu ứng lan tỏa lao động, cập nhật kỹ năng cho bên cung ứng và bên mua hàng. Thứ tư, ĐTNN là kênh chuyển giao công nghệ quan trọng, góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế Khu vực ĐTNN sử dụng công nghệ cao hơn hoặc bằng công nghệ tiên tiến đã có trong nước và thuộc loại phổ cập trong khu vực. Từ năm 1993 đến nay, cả nước có 951 hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được phê duyệt/đăng ký, trong đó có 605 hợp đồng của doanh nghiệp ĐTNN, chiếm 63,6%. Thông qua hợp đồng chuyển giao công nghệ, khu vực ĐTNN đã góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, nâng cao năng lực công nghệ trong nhiều lĩnh vực. Xét về cấp độ chuyển giao công nghệ, công nghiệp chế biến, chế tạo đạt hiệu quả cao nhất. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, một số ngành đã thực hiện tốt chuyển giao công nghệ như dầu khí, điện tử, viễn thông, tin học, cơ khí chế tạo, ô tô, xe máy và dệt may, giày dép, trong đó viễn thông, dầu khí được đánh giá có hiệu quả nhất. Tác động lan tỏa công nghệ của khu vực ĐTNN được thực hiện thông qua mối liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp ĐTNN với doanh nghiệp trong nước, qua đó tạo điều kiện để doanh nghiệp trong nước tiếp cận hoạt động chuyển giao công nghệ. Nhìn chung, khu vực ĐTNN có tác động lan tỏa gián tiếp tới khu vực doanh nghiệp sản xuất trong nước cùng ngành và doanh nghiệp dịch vụ trong nước khác ngành. Bên cạnh đó, thông qua mối quan hệ với doanh nghiệp ĐTNN, doanh nghiệp trong nước ứng dụng công nghệ sản xuất tương tự để sản xuất sản phẩm/dịch vụ thay thế và sản phẩm/dịch vụ khác để tránh cạnh tranh. Đồng thời có tác động tạo ra các ngành sản xuất, dịch vụ khác trong nước để hỗ trợ cho hoạt động của các doanh nghiệp ĐTNN. Thứ năm, ĐTNN có tác động nâng cao năng lực cạnh tranh ở cả ba cấp độ quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm Nhiều sản phẩm xuất khẩu Việt Nam đủ sức cạnh tranh và có chỗ đứng vững chắc trên các thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Kết quả phân tích các chỉ tiêu về vốn, công nghệ, trình độ quản lý, khả năng tiếp cận thị trường (đầu vào và tiêu thụ sản phẩm) và năng lực tham gia mạng sản xuất toàn cầu cho thấy năng lực cạnh tranh của khu vực ĐTNN cao hơn so với khu vực trong nước. Đồng thời, khu vực ĐTNN đã và đang có tác động thúc đẩy cạnh tranh của khu vực trong nước nói riêng và của nền kinh tế nói chung thông qua thúc đẩy năng suất, tăng trưởng xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, nâng cao trình độ công nghệ, trình độ lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động. Thứ sáu, ĐTNN góp phần nâng cao năng lực quản lý kinh tế, quản trị doanh nghiệp, tạo thêm áp lực đối với việc cải thiện môi trường kinh doanh. Thực tiễn ĐTNN đã cho nhiều bài học, kinh nghiệm bổ ích về công tác quản lý kinh tế và doanh nghiệp, góp phần thay đổi tư duy quản lý, thúc đẩy quá trình hoàn thiện luật pháp, chính sách theo hướng bình đẳng, công khai, minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế; đào tạo được đội ngũ cán bộ quản lý phù hợp với xu thế hội nhập. Thứ bảy, ĐTNN đã góp phần quan trọng vào hội nhập quốc tế Hoạt động thu hút ĐTNN đã góp phần phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo thuận lợi để Việt Nam gia nhập ASEAN,ký Hiệp định khung với EU, Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 62 quốc gia/vùng lãnh thổ và Hiệp định đối tác kinh tế (EPA) với Nhật Bản và nhiều nước. MỘT SỐ HẠN CHẾ Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thời gian qua vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần phải khắc phục trong thời gian tới, đó là: Thứ nhất, hiệu quả tổng thể nguồn vốn ĐTNN chưa cao. Trong công nghiệp – xây dựng, các dự án ĐTNN chủ yếu tập trung vào lắp ráp, giá trị gia tăng thấp; có quá ít dự án về cơ sở hạ tầng; tỷ trọng dự án trong nông – lâm – ngư nghiệp rất thấp và có xu hướng giảm dần trong khi đây là những ngành Việt Nam có thế mạnh. Trong dịch vụ, các dự án bất động sản quy mô lớn còn cao song nhiều trong số dự án này chậm triển khai, gây lãng phí về đất đai, vay vốn trong nước. ĐTNN vào các dịch vụ trung gian, dịch vụ giá trị gia tăng cao, giáo dục đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe, môi trường… còn hạn chế. ĐTNN hiện tập trung chủ yếu tại địa bàn có điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, thị trường tiêu thụ sản phẩm gây mất cân đối vùng miền, không đạt được mục tiêu hướng ĐTNN vào địa bàn khó khăn. Các KKT, KCN, KCNC không tạo ra lợi thế khác biệt cho từng địa phương và vùng lãnh thổ. Đối tác đầu tư vào Việt Nam chủ yếu từ Châu Á, nhà đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ lệ cao. Hiện mới chỉ thu hút được trên 100 trong tổng số 500 tập đoàn xuyên quốc gia hàng đầu thế giới. Tỷ lệ vốn thực hiện thấp so với vốn đăng ký, chỉ khoảng 47,2%. Thứ hai, mục tiêu thu hút công nghệ (công nghệ cao và công nghệ nguồn), chuyển giao công nghệ chưa đạt được như kỳ vọng Trên 80% doanh nghiệp ĐTNN sử dụng công nghệ trung bình của thế giới, 5-6% sử dụng công nghệ cao, 14% ở mức thấp và lạc hậu, cá biệt có trường hợp sử dụng công nghệ lạc hậu. Chuyển giao công nghệ chủ yếu thực hiện theo chiều ngang – giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, ít có những biến đổi về trình độ và năng lực công nghệ. Do mặt bằng công nghệ sử dụng trong các dự án ĐTNN chưa cao nên hiệu quả chuyển giao công nghệ theo chiều ngang còn hạn chế. Không ít trường hợp nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng sơ hở của luật pháp, yếu kém trong quản lý nhà nước để nhập khẩu vào Việt Nam máy móc, thiết bị lạc hậu gây ô nhiễm môi trường, khai tăng giá trị nhập khẩu và giá trị chuyển giao công nghệ. Công nghệ thấp dẫn đến các doanh nghiệp tại Việt Nam chủ yếu thực hiện việc gia công, một số doanh nghiệp được coi là công nghệ cao nhưng những khâu sử dụng công nghệ cao lại không thực hiện ở Việt Nam. Hệ quả là doanh nghiệp Việt Nam tạo ra gia trị gia tăng thấp, khó tham gia vào mạng sản xuất toàn cầu. Thứ ba, số lượng việc làm tạo ra chưa tương xứng, đời sống người lao động chưa cao, tranh chấp và đình công có xu hướng gia tăng Tỷ lệ việc làm mới do khu vực ĐTNN tạo ra không tương xứng (chỉ chiếm 3,4% trong tổng số lao động có việc làm năm 2011). Thu nhập bình quân theo tháng của người lao động ở khu vực doanh nghiệp ĐTNN chỉ cao hơn khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước nhưng thấp hơn khu vực doanh nghiệp nhà nước. Nhu cầu về nhà ở, đời sống văn hóa ở các khu tập trung nhiều lao động đã trở nên bức xúc mà chưa đáp ứng được. Từ năm 1995 đến nay, cả nước đã xảy là 4.142 cuộc đình công, trong đó 75,4% (3.122 cuộc) của doanh nghiệp ĐTNN, chủ yếu xảy ra tại doanh nghiệp của Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản; tập trung ở ngành gia công, sử dụng nhiều lao động như dệt may, cơ khí, điện tử, da giày xuất phát từ yêu cầu về lợi ích của người lao động. Điều đáng nói là hầu hết các cuộc đình công không tuân thủ theo đúng trình tự quy định của pháp luật mặc dù 70% số cuộc đình công xảy ra ở doanh nghiệp có tổ chức công đoàn. Trên thực tế, tổ chức công đoàn cơ sở còn nhiều hạn chế trong việc bảo đảm các quyền lợi cho người lao động, đặc biệt là vấn đề thỏa thuận mức tiền lương và điều kiện lao động. Thứ tư, hiệu ứng lan tỏa của khu vực ĐTNN sang khu vực khác của nền kinh tế còn hạn chế, có dấu hiệu chèn lấn. Mặc dù doanh nghiệp trong nước được hưởng lợi từ ĐTNN chủ yếu thông qua tác động mở rộng thị trường, nhưng từ năm 2007 (Việt Nam chính thức tham gia WTO) đến nay, doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ trong nước ở một số lĩnh vực đã chịu tác động chèn lấn của doanh nghiệp ĐTNN. Thứ năm, một số dự án được cấp phép nhưng chưa bảo đảm tính bền vững, gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn năng lượng, tài nguyên, chưa chú ý đầy đủ tới an ninh quốc phòng. Quy định về môi trường của Việt Nam áp dụng chuẩn của các nước phát triển, song việc thẩm định chỉ mang tính hình thức, tập trung nhiều vào khâu tiền kiểm, dẫn đến nhiều dự án khi triển khai đã vi phạm nghiêm trọng quy định về môi trường, gây tác động lâu dài tới sức khỏe người dân và hệ sinh thái khu vực. Không ít dự án nhập khẩu máy móc, thiết bị lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường không được phát hiện kịp thời. Có chiều hướng dịch chuyển dòng ĐTNN tiêu tốn năng lượng và tài nguyên, nhân lực, không thân thiện với môi trường, vào Việt Nam nhưng nhiều địa phương không có cơ chế kiểm soát về môi trường. Một số dự án chiếm giữ đất lớn nhưng không triển khai gây lãng phí tài nguyên. Một số trường hợp thu hút đầu tư chưa tính đến hiệu quả tổng thể cả về an ninh quốc phòng, nhất là các dự án trồng rừng, khai thác khoáng sản, nuôi trồng thủy, hải sản ở vùng nhạy cảm về an ninh quốc phòng, một số dự án sử dụng nhiều lao động phổ thông nước ngoài. Thứ sáu, có hiện tượng chuyển giá, trốn thuế. Một số doanh nghiệp ĐTNN có biểu hiện áp dụng các thủ thuật chuyển giá tinh vi như nâng khống giá trị góp vốn (bằng máy móc, thiết bị, bản quyền…), giá trị mua bán nguyên vật liệu đầu vào, bán thành phẩm, thành phẩm, dịch vụ, phí quản lý, tiền bản quyền, chi phí bảo lãnh, cho vay, trả lương, đào tạo, quảng cáo, nhà thầu, chuyển nhượng vốn … tạo nên tình trạng lỗ giả, lãi thật, gây thất thu ngân sách, làm cho đa số bên Việt Nam phải rút khỏi liên doanh, doanh nghiệp trở thành 100% vốn nước ngoài. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ Thứ nhất, chưa chuẩn bị tốt tiền đề thu hút ĐTNN: Kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, hệ thống doanh nghiệp trong nước…chuẩn bị chưa tốt dẫn đến giảm khả năng hấp thụ, cũng như hiệu quả của ĐTNN. Thứ hai hệ thống luật pháp,chính sách liên quan đến đầu tư còn bất cập, chồng chéo, chưa đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước. Khi xây dựng khung pháp lý chung áp dụng cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, chưa tính hết tính đặc thù của ĐTNN. Một số đạo luật chuyên ngành (thuế, kinh doanh bất động sản, xây dựng, giáo dục…) quy định cả thủ tục đầu tư, gây chồng chéo và không thống nhất với Luật Đầu tư. Nhiều thủ tục quy định theo hướng đơn giản, nhưng chưa tính đến yêu cầu quản lý nhà nước; thiếu hàng rào kỹ thuật để sàng lọc dự án và nhà đầu tư khi Việt Nam tham gia WTO. Chính sách ưu đãi đầu tư chưa phù hợp, chưa đủ hấp dẫn nhà đầu tư đối với những ngành, lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư; chưa có tính đột phá; thiếu linh hoạt; tồn tại nhiều Danh mục lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư khác nhau, thiếu nhất quán. Chính sách về lao động, quan hệ lao động còn một số bất cập. Chính sách tiền lương hay thay đổi nhưng không có lộ trình. Quy định mức lương tối thiểu thấp là một trong những nguyên nhân dẫn đến đình công. Nhưng khi Nhà nước tăng mức lương tối thiểu phù hợp với điều kiện sinh hoạt thực tế của người lao động thì tạo áp lực tăng chi phí đầu vào cho nhà đầu tư. Thu hút và chuyển giao công nghệ chưa đạt được mục tiêu. Nguyên nhân chủ yếu là do Việt Nam chưa đủ hấp dẫn các nhà đầu tư có công nghệ cao, công nghệ nguồn. Bên cạnh đó, chính sách về thu hút công nghệ còn nhiều bất cập (chính sách ưu đãi chưa đủ sức hấp dẫn; quy định về Danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển và Danh mục sản phẩm công nghệ cao được khuyến khích phát triển khó thực hiện…). Ngoài ra, còn phải kể đến nguyên nhân khách quan là bí quyết kỹ thuật, công nghệ riêng thường không chuyển giao thông qua hình thức mua bán bản quyền mà thông qua nhượng quyền hoặc các hình thức khác. Hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập; quản lý nhà nước về môi trường thiên về tiền kiểm (nhà đầu tư phải thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường trước khi thực hiện quy trình đầu tư đối với các dự án thuộc diện phải đánh giá tác động môi trường), chưa chú trọng đến hậu kiểm; thiếu chế tài xử lý nghiêm minh. Thứ ba, quản lý nhà nước về ĐTNN chưa đạt yêu cầu Công tác quy hoạch còn bất cập, thể hiện ở việc thiếu một số quy hoạch ngành, quy hoạch sản phẩm; chất lượng quy hoạch chưa cao do thiếu tính dự báo dài hạn và thiếu tính liên kết vùng, liên kết ngành hàng; việc xây quy hoạch nhưng chưa tính đến năng lực sản xuất trong nước và của ĐTNN, dẫn đến các quy hoạch còn dàn trải, hiệu quả tương hỗ thấp. Thực hiện việc phân cấp đầu tư chưa phù hợp với tình hình thực tế, Phân cấp đầu tư “đại trà, dàn đều” chưa tính đầy đủ đến đặc thù của địa phương về năng lực quản lý, trình độ cán bộ, quy mô nền kinh tế địa phương… Tình trạng cạnh tranh trong thu hút ĐTNN dẫn đến một số địa phương cấp phép cho các dự án tiềm ẩn gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn năng lượng sử dụng và khai thác tài nguyên không hiệu quả, chưa chú ý đầy đủ tới an ninh quốc phòng, không tính đến chất lượng, lợi ích quốc gia. Phân cấp trong bối cảnh luật pháp chính sách còn chồng chéo, thiếu quy hoạch ngành, quy hoạch chi tiết, cụ thể và đồng bộ; thiếu nội dung phân cấp phù hợp với đặc thù của từng địa phương, vùng lãnh thổ. Chưa làm tốt cơ chế hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, cùng với việc quy kết trách nhiệm, chế tài xử lý nghiêm những vi phạm liên quan đến phân cấp; cơ chế báo cáo, trao đổi thông tin giữa trung ương – địa phương, giữa các bộ, ngành. Quản lý nhà nước về XTĐT còn hạn chế, phương thức XTĐT chưa được điều phối hiệu quả và thông suốt từ trung ương tới địa phương, có tình trạng nhiều đoàn XTĐT tại một địa bàn vào cùng khoảng thời gian gần nhau, gây lãng phí nguồn lực, làm ảnh hưởng không tốt đến hình ảnh quốc gia; trong quá trình XTĐT một số ngành, lĩnh vực mà ta có nhu cầu lại chưa được quan tâm (giáo dục – đào tạo, dạy nghề, y tế, dự án công nghệ cao...), cơ quan chuyên ngành chưa thực sự quan tâm, từ khâu xây dựng danh mục dự án đến khâu phối hợp tổ chức vận động XTĐT. Hình thức XTĐT tại chỗ (hỗ trợ các nhà đầu tư đang hoạt động), xây dựng trang web, tài liệu XTĐT chưa phát huy được hiệu quả tối đa. Nội dung các hoạt động XTĐT chưa mang tính trọng điểm, liên ngành, liên vùng. Công tác nghiên cứu về dòng ĐTNN, xu hướng của các đối tác, các tập đoàn xuyên quốc gia chưa được chú trọng. Kinh phí dành cho hoạt động XTĐT còn hạn chế. Hoạt động của các đại diện XTĐT tại nước ngoài mới được triển khai, còn gặp nhiều khó khăn (nhân lực, cơ sở vật chất, phương tiện, kinh phí...), nhiều địa bàn tiềm năng nhưng chưa có đại diện XTĐT (Anh, Nam Phi, Trung Quốc, Nga, Myanmar, Campuchia...). Quản lý nhà nước đối với ĐTNN còn nặng về khâu cấp phép. Khi số lượng dự án được cấp phép tăng, các vấn đề thực tiễn phát sinh ngày càng nhiều, đã dẫn đến tình trạng lúng túng trong quá trình xử lý vướng mắc. Một số bộ, ngành, địa phương chưa kịp thời ban hành các hướng dẫn, tiêu chí, hàng rào kỹ thuật hợp lý, phù hợp với thông lệ quốc tế trong từng ngành, lĩnh vực, đặc biệt là đối với một số ngành sau khi Việt Nam gia nhập WTO (trong đó có một số ngành nghề mới chưa có tại Việt Nam). Trong khi đó, chính sách thuế chưa được điều chỉnh kịp thời đã dẫn đến không kiểm soát được một số ngành (dịch vụ đơn giản, quy mô nhỏ…) do mở cửa, không giữ chân được các doanh nghiệp FDI thực hiện chức năng sản xuất (xu hướng doanh nghiệp chuyển từ chức năng sản xuất sang kinh doanh thương mại, dịch vụ) gây ảnh hưởng đến sản xuất và thị trường trong nước, cũng như khó khăn trong việc cấp GCNĐT và công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan. Bên cạnh đó, 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan