Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sư phạm Quan hệ anh – pháp về vấn đề thuộc địa ở đông nam á thế kỉ xix...

Tài liệu Quan hệ anh – pháp về vấn đề thuộc địa ở đông nam á thế kỉ xix

.PDF
86
1
102

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG KHOA: KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN HOÀNG THỊ VÂN ANH QUAN HỆ ANH – PHÁP VỀ VẤN ĐỀ THUỘC ĐỊA Ở ĐÔNG NAM Á THẾ KỈ XIX KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngành: Sư phạm Lịch Sử - GDCD Phú Thọ, 2018 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG KHOA: KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN HOÀNG THỊ VÂN ANH QUAN HỆ ANH – PHÁP VỀ VẤN ĐỀ THUỘC ĐỊA Ở ĐÔNG NAM Á THẾ KỈ XIX KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngành: Sư phạm Lịch Sử - GDCD Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Phương Mai Phú Thọ, 2018 1 MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Kể từ khi các cuộc cách mạng tư sản diễn ra ở Hà Lan, Anh, Pháp và nhiều nước châu Âu khác, chủ nghĩa tư bản với tư cách là một hình thái kinh tế xã hội mới đã xác lập và có những tác động to lớn đến đời sống chính trị và kinh tế thế giới. Nhờ có nền sản xuất phát triển và việc không ngừng ứng dụng thành tựu kĩ thuật tiên tiến, điển hình là cuộc cách mạng công nghiệp nửa cuối thế kỉ XVIII, các nước tư bản chủ nghĩa bước vào thời kì phát triển phồn thịnh. Nửa sau thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển dần từ tự do cạnh tranh lên thời kì chủ nghĩa tư bản độc quyền (chủ nghĩa đế quốc).Nhưng cũng chính vì thế, nó đã làm nảy sinh ở các quốc gia này yêu cầu ngày càng lớn về vốn, nhân công, nguyên liệu và thị trường tiêu thụ.Điều đó thúc đẩy các cường quốc phương Tây tăng cường tìm kiếm thị trường, xâm chiếm, tranh giành thuộc địa.Châu Á với lãnh thổ rộng lớn, đông dân, giàu tài nguyên là mảnh đất lí tưởng để thực dân châu Âu hiện thực hóa những tham vọng của mình. Ở châu Á, Đông Nam Á là nạn nhân đầu tiên của các cuộc xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây vì khu vực này được coi là viên kim cương có giá trị nhất, gây thèm khát nhất cho các nước đế quốc. Anh và Pháp – hai nước tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc sớm nhất, đã ráo riết chạy đua trong công cuộc xâm lược để giành lấy miếng mồi béo bở này. Thế kỉ XIX, với những biến đổi sâu sắc trong thế giới tư bản, đã mở đầu cho mối quan hệ lợi ích đầy phức tạp giữa Anh và Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Nam Á. Nhìn lại thời kì lịch sử đã qua, có thể nói quan hệ Anh – Pháp ở Đông Nam Á trong thế kỉ XIX là một mối quan hệ đặc biệt. Tính chất đặc biệt của nó không chỉ thể hiện ở những mâu thuẫn, xung đột về mặt lợi ích trong cuộc tranh giành thị trường thuộc địa mà nó còn được thể hiện ở tính quyết định cũng như tác động của mối quan hệ này đối với lịch sử các quốc gia khu vực Đông Nam Á và quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, một số vấn đề được đặt ra đó là: mâu thuẫn trong quan hệ Anh – Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Nam Áthế kỉ XIX được hình thành bởi 2 những nhân tố gì? Trong suốt quá trình giải quyết mâu thuẫn, quan hệ Anh Pháp có chịu sự tác động của nhân tố nào không? Diễn biến mối quan hệ Anh – Pháp ở Đông Nam Á ra sao? Nó có những đặc điểm và tác động như thế nào đến bản thân mỗi nước và khu vực Đông Nam Á? Giải quyết vấn đề trêncó ý nghĩa khoa học sâu sắc trong việc tìm hiểuvề chính sách xâm lược thuộc địa của Anh, Pháp thế kỉ XIX cũng như về lịch sử một số quốc gia Đông Nam Ávà quan hệ quốc tế quốc tế ở khu vực trong khoảng thời gian đầy biến động của nhân loại. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu quan hệ Anh – Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Nam Á còn có ý nghĩa sâu sắc về mặt thực tiễn. Đề tài hoàn thành sẽ là nguồn tham khảogiá trịtrong việc tiếp cận nội dung về quá trình xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây ở Đông Nam Á. Đồng thời là tài liệu có ích trong việc tìm hiểu lịch sử quan hệ quốc tế ở khu vực Đông Nam Á thế kỉ XIX cho sinh viên chuyên ngành sử cũng như một số ngành học khác. Chính bởi ý nghĩa khoa học và thực tiễn đó, tôi chọn vấn đề “Quan hệ Anh – Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Nam Á thế kỉ XIX” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Nghiên cứu về tiến trình xâm lược của thực dân phương Tây ở Đông Nam Á, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước. Trong đó, nội dung quan hệ Anh – Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Nam Á được các tác giả nghiên cứu ở nhiều mức độ khác nhau. Dưới đây là một số công trình tiêu biểu mà tác giả tiếp cận được: Trước tiên là cuốn Lịch sử các quốc gia Đông Nam Á: Từ thế kỉ XIX đến thập niên 90 của Huỳnh Văn Tòng, do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1994.Tác phẩm đã trình bày những nét căn bản về tình hình Đông Nam Á trước họa xâm lăng của chủ nghĩa tư bản phương Tây và quá trình xâm lược của thực dân Anh, Pháp từ thế kỉ XIX đến thập niên 90 của thế kỉ này. Tuy nhiên,nội dung quan hệ Anh – Pháp trong quá trình tranh giành ảnh hưởng và thôn tính thuộc địa ở Đông Nam Á thời gian này diễn biến cụ thể ra sao chưa được tác giả đề cập. 3 Tiếp theo là cuốn Lịch sử Đông Nam Á của tác giả D.G.E.Hall do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 1997. Đây là một công trình tổng hợp về lịch sử Đông Nam Á, trình bày toàn bộ lịch sử Đông Nam Á với tư cách là một khu vực địa lí – lịch sử - văn hóa qua từng thời kì phát triển, quá trình diễn biến lịch sử các nước Đông Nam Á trong mối bang giao khu vực và tiếp xúc quốc tế. Đặc biệt, ở phần III của cuốn sách – thời kì bành trướng của thực dân Âu – Mĩ vào Đông Nam Á, tác giả đã đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa các nước Đông Nam Á với thực dân phương Tây thế kỉ XIX, đồng thời đề cập đến quan hệ Anh – Pháp về vấn đề thuộc địa. Theo đó, từ chương 35 đến chương 37 của tác phẩm, D.G.Hall thuật lại quá trình thôn tính Miến Điện của Anh và mâu thuẫn Anh – Pháp tại đây; chương 40, chương 41 trình bày quá trình giải quyết mâu thuẫn Anh – Pháp về vấn đề Xiêm. Tuy nhiên, do bố cục của cuốn sách và mục đích nghiên cứu nên nội dung quan hệ Anh – Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Nam Á chưa được trình bày thành một vấn đề riêng, có hệ thống. Nhóm tác giả Phan Ngọc Liên (chủ biên), Nghiêm Đình Vỳ, Đinh Ngọc Bảo, Trần Thị Vinh trong cuốn Lược sử Đông Nam Ácủa Nhà xuất bản Giáo dục năm 1998, đã trình bày nội dung chủ yếu về lịch sử Đông Nam Á từ thời tiền sử đến thập niên 90 của thế kỉ XX. Song, vì là một công trình thông sử nên quan hệ Anh – Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Nam Á thế kỉ XIX chưa được tìm hiểu chi tiết. CuốnLịch sử thế giới cận đại của Vũ Dương Ninh (chủ biên) và Nguyễn Văn Hồng, do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành 2006, đã trình bày những nội dung cơ bản về sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc và hoàn cảnh lịch sử quyết định tác động đến chính sách bành trướng xâm lược của hai cường quốc thực dân Anh, Pháp thế kỉ XIX và kết quả của quá trình này. Tuy nhiên, những nội dung liên quan đến mâu thuẫn Anh – Pháp có tác động trực tiếp đến kết quả phân chia phạm vi ảnh hưởng và thuộc địa giữa hai cường quốc chưa được quan tâm nghiên cứu. Tiếp theo là một công trình của nhà nghiên cứu người Anh Marry Somers Heidhue (người dịch: Huỳnh Kim Oanh, Phạm Viêm Phương): Lịch sử phát 4 triển Đông Nam Á,do Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin ấn hành năm 2007. Cuốn sách gồm có 7 chương với hơn 250 trang. Nội dung cơ bản của tác phẩm này là khái quát lịch sử phát triển Đông Nam Á từ hình thành đến hiện đại. Trong chương 4 của cuốn sách này với tựa đề: Đông Nam Á như một ngã tư quốc tế, tác giả đã tái hiện quá trình xâm chiếm của thực dân phương Tây ở Đông Nam Á, đồng thời đưa raquan điểm cuộc chiến tranh Anh – Miến cuối thế kỉ XIX xảy ra chủ yếu để ngăn cản sự bành trướng của Pháp từ Đông Dương. Tác phẩmLịch sử Đông Nam Á của GS Sử học Lương Ninh (chủ biên), do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm 2008 là công trình nghiên cứu, biên soạn công phu và tâm huyết về Đông Nam Á. Tác phẩm làbức tranh tổng thể về văn hóa, lịch sử hình thành và phát triển của Đông Nam Á từ tiền sử đến năm 2005. Bước vào thời cận đại,trọng tâm tác phẩm đi vào thể hiện góc nhìn toàn cảnh về quá trình thực dân hóa ở khu vực, trong đó có nội dung đề cập đến quan hệ Anh – Pháp về vấn đề Xiêm. Tuy nhiên, vì phạm vi kiến thức mà cuốn sách đề cập khá rộng nên nội dung liên quan đến quan hệ Anh – Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Nam Á chỉ dừng ở mức độ hết sức sơ lược. Tiếp theo là cuốn Lịch sử chủ nghĩa tư bản từ 1500 đến 2000của GS người Pháp Michel Beaud (người dịch: Huyền Giang),do Nhà xuất bản Thế giới ấn hành năm 2009,đã trình bày những nét căn bản về quá trình hình thành, phát triển và vận hành của chủ nghĩa tư bản trong suốt 500 năm. Đặc biệt, tác giả đã chỉ ra và lý giải một cách khoa học và có hệ thống về nhu cầu bành trướng thuộc địa cùng những mâu thuẫn tất yếunảy sinh trong lịch sửphát triển của chủ nghĩa tư bản thời điểm thế kỉ XIX, bao gồm quan hệ Anh – Pháp. Tuy nhiên, mâu thuẫn Anh – Pháp biểu hiện cụ thể như thế nào, tác động đến bản thân mỗi nước ra sao vẫn chưa được tác giả làm rõ. Tác giả Nguyễn Văn Tận với công trình nghiên cứu Nhìn lại chính sách ngoại giao “đổi đất lấy hòa bình” của Xiêm trong quan hệ với Anh, Pháp từ sau những năm 50 của thế kỉ XIX đến những năm đầu thế kỉ XX, đăng trên Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, số 60, năm 2010; đã đưa ra một cách tiếp cận mang tính đặc trưng của triều đình phong kiến Xiêm thời cận đại, đó là việc thực 5 hiện chính sách ngoại giao đổi đất lấy hòa bình, một nội dung có liên quan mật thiết đến quan hệ Anh – Pháp ở khu vực này.Theo đó, nửa sau những năm 50 của thế kỉ XIX, lợi dụng mâu thuẫn giữa hai nước đế quốc Anh và Pháp, chính quyền Xiêm đã tạo ra một tam giác ngoại giao quan trọng Anh – Xiêm – Pháp. Với mục đích tìm kiếm lợi ích lớn nhất với sự hy sinh nhỏ nhất, Xiêm đã triển khai phương thức cân bằng lực lượng Anh – Pháp thông qua việc đổi đất để bảo toàn chủ quyền dân tộc. Nhờ chính sách ngoại giao thực dụng và mềm dẻo, kết hợp thủ tiêu các điều khoản bất bình đẳng, Xiêm trở thành nước duy nhất trong số các quốc gia Đông Nam Á duy trì đuy trì nền độc lập dân tộc. Tiếp đến là cuốnLịch sử Đông Nam Á (tập IV): Đông Nam Á trong thời kì thuộc địa và phong trào đấu tranh giành độc lập (từ thế kỉ XVI đến năm 1945),của Trần Khánh chủ biên, do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành năm 2012. Tác phẩm đã trình bày khá đầy đủ về quá trình xâm nhập, bành trướng, thiết lập chế độ cai trị và khai thác thuộc địa của chủ nghĩa thực dân phương Tây ở Đông Nam Á từ thế kỉ XVI đến năm 1945. Trong đó cónhững nội dung liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu của đề tài. Song, do mục đích của cuốn sách nên mâu thuẫn Anh – Pháp được phản ánh trong tác phẩm vẫn còn tản mạn, chưa được trình bày thành một vấn đề riêng. Đồng thời, đặc điểm của quan hệ Anh – Pháp ra sao, tác động đến bản thân mỗi nước và các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á như thế nào vẫn chưa được tác giả đề cập. Năm 2013,Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin đã cho xuất bản cuốn sáchLịch sử văn hóa Đông Nam ÁcủaGS. TS Phạm Đức Dương (chủ biên). Đây là một công trình dài 1538 trang, nghiên cứu về hai lĩnh vực lịch sử và văn hóa của các nước Đông Nam Á từ thời sơ sử cho đến hiện tại. Một trong những nội dung đượctác phẩm khắc họa là: sự xâm lược của chủ nghĩa thực dân cũ ở Đông Nam Á thế kỉ XIX, mà Anh và Pháp đóng vai trò là những diễn viên chính trong quá trình bành trướng này.Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu và phạm vi kiến thức mà cuốn sách đề cập khá rộng nên mâu thuẫn Anh – Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Nam Á chưa được phản ánh cụ thể. 6 Tiếp đến là cuốn Một số chuyên đề lịch sử thế giới (tập 3) của tác giả Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Kim do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội ấn hành năm 2015. Khác với các công trình xuất bản trước đây có nội dung trình bày theo phổ rộng, bao quát nhiều vấn đề của lịch sử thế giới, tập 3 được biên soạn tập trung vào không gian lịch sử, chính trị, văn hóa, xã hội Đông Nam Á tuân theo tiến trình lịch sử. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu rộng, nên những vấn đề trong quan hệ Anh – Pháp về thuộc địa Đông Nam Á thế kỉ XIX vẫn chưa được nghiên cứu cụ thể. Cuốn sáchĐông Nam Á lịch sử từ nguyên thủy đến ngày naycủa GS Lương Ninh chủ biên, do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật ấn hành năm 2016 là một ấn phẩm giá trị về lịch sử Đông Nam Á. Thông qua tác phẩm này, lịch sử Đông Nam Á được tái hiện một cách hệ thống, toàn diện, đầy đủ, song song với việc cập nhật những nghiên cứu mới, phát hiện mới khách quan, chính xác. Nhưng vì là một công trình thông sử nên nội dung về quá trình xâm chiếm Đông Nam Á của chủ nghĩa thực dân phương Tây cũng như mâu thuẫntrong quan hệ Anh – Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Nam Á chưa được tìm hiểu chi tiết. Cũng trong năm 2016, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm cho phát hành cuốnLịch sử quan hệ quốc tếcủa Vũ Dương Ninh chủ biên. Tác phẩm đã trình bày khá rõ nét về quá trình phát triển mối quan hệ giữa các quốc gia, những biến động lớn trong quan hệ quốc tế từ đầu thời cận đại đến năm 1945. Nội dung, quan hệ quốc tế trong quá trình xâm lược và tranh giành thuộc địa của các nước phương Tây được đề cập ở chương VI ở tác phẩm, trong đó có nhắc đến tranh chấp giữa hai đế quốc Anh và Pháp ở Xiêm. Tuy nhiên, do phạm trù nghiên cứu rộng, nên quan hệ Anh – Pháp được nói đến chỉ dừng ở mức độ khái quát, chứ không đi sâu vào nghiên cứu cụ thể. Gần đây, năm 2017, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh cho phát hành cuốn sáchChính sách “đóng cửa” và “mở cửa” ở một số quốc gia Đông Nam Á từ cuối thế kỉ XVIII đến cuối thế kỉ XIX của tác giả Đặng Văn Chương. Nội dung chủ đạo của tác phẩm bàn về khuynh hướng, các kiểu ứng xử 7 của các chủ thể chính trị Đông Nam Á trong quan hệ đối ngoại với các nước thực dân phương Tây từ cuối thế kỉ XVIII đến cuối thế kỉ XIX. Nhưng cũng chính từ ấy, tác phẩm này cũng đã phần nào phản ánh được thái độ chính trị và hành động của các nước đế quốc ở khu vực này, cụ thể là mối quan hệ giữa Anh và Pháp trong quá trình tranh giành thuộc địa ở Đông Nam Á, cũng như tác động của mâu thuẫn Anh – Pháp đến lịch sử các quốc gia trong khu vực. Ngoài ra còn có rất nhiều tác phẩm, bài viết, luận văn hay công trình nghiên cứu về quá trình bành trướng xâm lược của thực dân Anh, Pháp ở Đông Nam Á,đã chỉ ra được mâu thuẫntrong quan hệ giữa hai nước đế quốc về vấn đề thuộc địa và phản ánh quá trình giải quyết tranh chấp này ở nhiều khía cạnh, mức độ khác nhau. Thông qua những tư liệu trên, chúng tôi nhận thấy rằng: nhìn chung, các tác giả khi đề cập đến quan hệ Anh – Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Nam Á đều chỉ tập trung khai thác diễn biến quá trình thôn tính thuộc địa của hai cường quốc này một cách lẻ tẻ, rời rạc. Vì thế việc nghiên cứu vấn đề nàyvẫn còn những khoảng trống chưa được đề cập, đó là: Quan hệ Anh – Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Nam Á thế kỉ XIX được hình thành bởi những nhân tố nào? Mối quan hệ này đã từng bước được giải quyết ra sao? Đặc điểm và tác động của mối quan hệ này đối với bản thân mỗi nước, với lịch sử khu vực và quan hệ quốc tế như thế nào?Cho đến nay, vẫn chưa có một tác phẩm nào phản ánh được một cách đầy đủ và toàn diện quan hệ Anh – Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Nam Á thế kỉ XIX. Tuy nhiên, tất cả các công trình nghiên cứu trên sẽ là nguồn tư liệu hữu dụng để chúng tôi hệ thống, tổng kết, chắt lọc; đồng thời cố gắng tìm hiểu thêm một số khía cạnh trong phạm vi năng lực, nhằm làm sáng tỏ nhất có thể những mặt nội dung trong quan hệ Anh - Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Nam Á cũng nhưđặc điểm, tác động của mối quan hệ này đối vớibản thân mỗi nước và với khu vực Đông Nam Á. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu 8 Mục tiêu của đề tài là qua việc hệ thống một cách khoa học và toàn diện mối quan hệ Anh – Pháp trong quá trình bành trướng thuộc địa ở Đông Nam Á thế kỉ XIX, để trên cơ sở đó làm rõnhững đặc điểm và tác độngcủa mối quan hệ này đối với bản thân mỗi nước và khu vực Đông Nam Á. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục tiêu nghiên cứu như trên, nhiệm vụ của đề tài cần thực hiện là: - Phân tích những nhân tố khách quan và chủ quan tác động đến sự hình thành quan hệ Anh – Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Nam Á, để từ đó rút ra những đánh giá làm nền tảng cho quá trình nghiên cứu mối quan hệ giữa hai quốc gia này trong quá trình tranh giành ảnh hưởng và thôn tính thuộc địa ở Đông Nam Á thế kỉ XIX. - Hệ thốngquá trình giải quyết mâu thuẫn quan hệ Anh – Pháp từ lúc hình thành cho đến kết thúc và kết quả của quá trình này. - Trên cơ sở đó, nghiên cứu tính chất mâu thuẫn trong quan hệ Anh – Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Nam Á để rút ra những đặc điểm trong quan hệ hai nước, phân tích sâu sắc những tác động của mối quan hệ này tới bản thân hai nước Anh , Pháp và tới lịch sử các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Quan hệ Anh – Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Nam Á. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Nội dung: mâu thuẫn Anh - Pháp về Miến Điện, Xiêm, Lào, Campuchia. + Miến Điện là tên gọi cũ của Liên bang Myanmar trước năm 1989. + Xiêm (Siam), hay còn gọi là Xiêm La, là quốc hiệu chính thức của Thái Lan từ thời nhà Chakri được thành lập năm 1782 đến năm 1939. Trong khóa luận, lãnh thổ vương quốc Xiêm bao gồm hai tỉnh Battambang, Siam Riep của Campuchia và các tiểu vương quốc Chiang Mai, Vientiane và Luang Prabang của Lào. 9 - Thời gian: thế kỉ XIX, tập trung trong giai đoạn từ thập niên 50 đến năm 1896 – Anh và Pháp kí Hiệp định Luân Đôn, thống nhất phân chia khu vực ảnh hưởng ở Đông Nam Á. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp chuyên ngành: Phương pháp lịch sử, phương pháp logic là hai phương pháp chủ yếu. Trong đó: Phương pháp lịch sử: Qua việc vận dụng phương pháp này, đề tài muốn làm phục dựnghoàn cảnh lịch sử cụ thểđưa đến sự hình thành quan hệ Anh – Pháp, tiến trình giải quyết mâu thuẫn giữa hai nước về vấn đề thuộc địa ở khu vực Đông Nam Á trong thế kỉ XIX và kết quả của nó. Phương pháp logic: được sử dụng để lí giải chính sách xâm lược của Anh và Pháp ở Đông Nam Á, những thủ đoạn quân sự, ngoại giao tinh vi mà hai nước đế quốc sử dụng với đối phương, với các nước Đông Nam Á nhằm đạt được mục tiêu của mình. Trên cơ sở đó, rút ra những biện giải và đánh giá khách quan, chính xác về đặc điểm, tác động của mối quan hệ Anh - Pháp đến bản thân mỗi nước và lịch sử khu vực Đông Nam Á. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp liên ngành khác: phân tích,đánh giá, so sánh, tổng hợp, khái quát. Phương pháp phân tích, đánh giá: được sử dụng để làm rõ quá trình giải quyết mâu thuẫn Anh – Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Nam Á tại mỗi địa phận cụ thể, từ đó rút ra nhận xét về bản chất của vấn đề. Phương pháp so sánh: được sử dụng để so sánh chính sách xâm lược mà Anh và Pháp đã thực hiện ở Đông Nam Á. Phương pháp tổng hợp, khái quát: được dùng trong việc tổng hợp, khái quát các luận điểm mà đề tài đưa ra. 6. Bố cục của khóa luận 10 Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, khóa luậnđược triển khai thành 3 chương: Chương 1. Nhân tố tác động đến sự xuất hiện của quan hệ Anh – Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Nam Á thế kỉ XIX Chương 2. Diễn biến quan hệ Anh – Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Nam Á thế kỉ XIX Chương 3. Đặc điểm và tác động của quan hệ Anh – Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Nam Á thế kỉ XIX 11 NỘI DUNG Chương 1. NHÂN TỐTÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ XUẤT HIỆN CỦA QUAN HỆ ANH – PHÁP VỀ VẤN ĐỀ THUỘC ĐỊA Ở ĐÔNG NAM Á THẾ KỈ XIX 1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực 1.1.1. Bối cảnh quốc tế Cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX, thành công của cách mạng công nghiệp đã làm thay đổi bộ mặt của các nước tư bản, tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản thống trị toàn diện và trở thành hệ thống thế giới. Cùng với đó là sự phát triển nhanh chóng của nền sản xuất đã khiến cho nhu cầu mở rộng thị trường, tước đoạt tài nguyên thiên nhiên ở những vùng đất giàu có của phương Đông và Tây bán cầu cũng ngày càng trở nên bức thiết đối với các cường quốc châu Âu. Đến nửa sau thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển dần lên giai đoạn phát triển cao hơn – giai đoạn chủ nghĩa đế quốc.Bước ngoặt to lớn trong thế giới tư bản đã khiến cho chính quyền tư sản châu Âu từ thế kỉ XIX trở đi chẳng những cạnh tranh khốc liệt về thương mại mà còn ráo riết đua tranh trong công cuộc tìm kiếm và giành giật thị trường mới ở bên ngoài. Đối với chủ nghĩa đế quốc, thuộc địa là thị trường tiêu thụ hàng hóa, nguồn nguyên liệu phục vụ nền công nghiệp chính quốc, nguồn nhân lực rẻ mạt trong các cơ sở đầu tư tại chỗ và nguồn của cải vơ vét qua thuế khóa, cướp bóc. Hơn nữa, thuộc địa còn là nơi cung cấp binh lính cho chính quốc khi xảy ra chiến tranh, là cơ sở nâng cao vị thế đế quốc trên trường quốc tế. Do đó, cuộc chiến tranh giành giật thuộc địa giữa các nước đế quốc là điều không tránh khỏi. Nói cách khác, tham vọng của giới tư sản cầm quyền lúc này không dừng lại ở mục tiêu lợi nhuận nữa mà sâu xa hơn, là chúng còn muốn khuyếch trương ảnh hưởng, muốn có nhiều quyền lực để thống trị châu Âu và thế giới. Bởi vì thế, khi xem xét về giai đoạn này, nhà kinh tế học người Đức Werner Sombart đã từng đánh giá rằng: “Chủ nghĩa tư bản thống trị thế giới và 12 xui khiến các hoạt động nhà nước nhảy múa như những con rối trên sợi dây [2; 201]”. Sự bành trướng của châu Âu trên thế giới được thực hiện dưới hai hình thức thống trị thuộc địa và phát triển những trao đổi thương mại, sẽ cho phép các cường quốc tư bản chiếm được những của cải trên phạm vi rộng lớn của các nước bị trị. Chính điều đó là căn nguyên khiến nhu cầu thuộc địa đẩy lên tột bậc, dẫn đến mâu thuẫn, phân chia và sâu xé trong nội bộ các nước thực dân tư bản. Kể từ đây, thế giới đã từng bước tận mắt chứng kiến một sự phát triển mới và ghê gớm của chủ nghĩa đế quốc. Thống trị và bóc lột thuộc địa trở thành một nguồn làm giàu cơ bản đối với các nước đế quốc thực dân, là mối quan tâm chủ đạo và nguồn cơn của những bất đồng thường xuyên giữa các nước đế quốc. Trên thực tế, sự bành trướng của các chủ nghĩa tư bản quốc gia trên quy mô thế giới đã phát triển những cơn kịch phát thực dân hóa khác nhau của các quốc gia trong thời kì này. P. Leroy – Beaulieu, thành viên Viện Pháp quốc, giáo sư trường Đại học Pháp trong tác phẩm “Về sự thực dân hóa các dân tộc hiện đại” đã nêu bật câu nói này của Stuart Mill: “Có thể khẳng định rằng, trong tình trạng hiện thời, việc lập các thuộc địa là công việc tốt nhất có thể đưa tư bản của một nước già nua và giàu có tới đó”. Và ông viết:“Thực dân hóa là sức mạnh bành trướng của một dân tộc, đó là sức mạnh tái sinh sản của nó; đó là sự giãn nở và nhân lên của nó qua các không gian: đó là đặt vũ trụ hay một phần rộng lớn của vũ trụ vào sự tuân phục tiếng nói của nó, tư tưởng và luật pháp của nó. Một đế quốc làm công việc thực dân hóa là một dân tộc đặt những nền tảng vinh quang của nó vào tương lai và vào sự ưu thắng của nó trong tương lai (...). Không thể không coi (thực dân hóa) như một trong các nhiệm vụ được áp đặt cho những quốc gia văn minh”[2; 242]. Cho đến thời điểm cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX,thực dân châu Âu căn bản thôn tính hầu hết khu vực Mĩ Latinh; ở châu Phi, Pháp làm chủ các vùng Bắc Phi, 13 còn Anh đã chiếm được phần cực nam châu Phi và tiến hành mở rộng thuộc địa Cap của mình lên phía Bắc; công cuộc bành trướng của chủ nghĩa thực dân lan nhanh như bão táp, châu Á cũng không tránh khỏi tất yếu lịch sử đó. Ở châu Á, Đông Nam Á trở thành nạn nhân đầu tiên của các cuộc xâm lược của chủ nghĩa thực dân. Trước hết là các quốc gia hải đảo Malacca (1511), Philippin (1565), các tiểu quốc thuộc Indonesia ngày nay (1594), vì vùng hải đảo là một khu vực hấp dẫn và thuận lợi cho cuộc chinh phục của thực dân phương Tây. Ở Nam Á, thực dân Anh hoàn thành chinh phục Ấn Độ vào năm 1763. Các quốc gia ở Tây Nam Á (Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Tư (Iran)...) trở thành nước phụ thuộc. Đến đầu thế kỉ XIX, đặc biệt là từ thập niên 50 của thế kỉ này, thực dân phương Tây đẩy mạnh hơn việc xâm chiếm các vùng đất còn lại ở châu Á. Anh và Pháp chính là hai nước đi đầu trong lĩnh vực xâm chiếm thuộc địa, với mục tiêu“tới bất cứ nơi đâu lợi nhuận dẫn chúng ta đến, khắp mọi biển rộng, mọi bến bờ, vì tình yêu lợi nhuận, mọi cảng trên thế giới rộng lớn này chúng ta đều thăm dò [12; 144]”. Như vậy, sự thăng tiến mạnh mẽ trong nền kinh tế ở thế kỉ XIX, những toan tính về quyền lợi và khát vọng bá quyền đã thúc đẩy các cường quốc tư bản, điển hình là Anh, Pháp – hai cường quốc đang chiếm vị thế hàng đầu trong thế giới tư bản lúc bấy giờ, tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược vô cùng tàn bạo nhằm thôn tính thuộc địa trên quy mô toàn cầu, tô bản đồ chính trị thế giới bằng những màu sắc riêng của mình. 1.1.2. Bối cảnh khu vực * Vị trí và tiềm năng của khu vực Đông Nam Á Đông Nam Á là một khu vực khá rộng nằm ở phía Đông Nam lục địa Á Âu, bao gồm hai phần lục địa và hải đảovới diện tích khoảng 4,5 triệu km2. Nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đới gió mùa,hầu hết các quốc gia giáp biển cùng với mạng lưới sông ngòi rộng khắp, Đông Nam Á khởi nguyên đã có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sự sinh tụ, quần cư đông đúc của con người. Tuy 14 nhiên,điều ở Đông Nam Á được ca ngợi nhiều hơn cả chính là sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên. Từ xa xưa, khu vực Đông Nam Á vẫn được người Ấn Độ xưa mệnh danh là Suvarnabhumi(đất vàng) hay Suvarnadvipa(đảo vàng), nổi tiếng là vùng sở hữu rất nhiều mỏ kim loại, khoáng vật quý như vàng, bạc, đồng, thiếc, chì, sắt, than. Bên cạnh đó, Đông Nam Á là nơi có mạng lưới sông ngòi dày đặc, trữ lượng nước lớn, điều này giúp cho các vùng đồng bằng châu thổ ngày càng màu mỡ, phì nhiêu và mang lại giá trị kinh tế cao. Đồng thời, cũng chính bởi chịu ảnh hưởng của môi trường khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, mà hệ sinh thái tự nhiên trong khu vực đã sản sinh ra trầm, quế, các loại cây cho dầu, gỗ quý và nhiều loài động vật hiếm như voi, tê giác, gấu, hổ, hươu, cá sấu. Trong lịch sử, các loại sản vật này hay các chế phẩm từ chúng đều là những mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Đông Nam Á. Đây là một trong những yếu tố thu hút rất nhiều sự quan tâm của các nước phương Tây. Ngay từ thế kỉ XV, nhu cầu các mặt hàng xa xỉ của phương Đông khiến cho tất cả các cuộc phát kiến địa lý của người châu Âu đều mục đích hướng về châu Á, trong đó có Đông Nam Á, để tìm vàng bạc, châu báu và hương liệu quý. Do đó, khu vực này nhanh chóng lọt vào tầm mắt và mưu đồ thôn tính của thực dân phương Tây. Cùng với sự phong phú về tài nguyên thiên nhiên, Đông Nam Á còn là khu vực có vị trí chiến lược quan trọng. Từ lâu, đâyđã được coi nhưlà ngã tư đường, là hành lang, cầu nối và đầu mối giao thông thuận lợi từ Đông sang Tây, là nơi giao lưu của các con đường hàng hải quốc tế nối liền châu Á với các châu lục khác trên thế giới.Vì thế, không chỉ là điểm đến, khu vực Đông Nam Á còn đóng vai trò chủ thể trên các lộ trình thương mại và là nguồn cung cấp các mặt hàng trao đổi cho các khu vực lân cận. Thế kỉ XVII, ở châu Á – Thái Bình Dương có hai trục giao thương chính mà Đông Nam Á là cầu nối quan trọng: - Trục tuyến Bắc – Nam nối liền Nhật Bản qua các vùng bờ biển Trung Quốc, Đài Loan xuống Đại Việt và các nước Đông Nam Á khác. 15 - Trục tuyến Đông – Tây với trạm dừng chân là Ấn Độ. Từ đây, các tàu phương Tây qua eo Malacca, tới Indonesia, Xiêm, Đại Việt, Trung Quốc, Philippines và Nhật Bản. Hai trục giao thương Bắc – Nam và Đông – Tây đó đã tạo nên nhiều con đường trên biển, như: con đường tơ lụa, con đường gốm sứ, con đường truyền giáo [4; 24]. Thời điểm thế kỉ XIX, vị trí đó của Đông Nam Á càng trở nên quan trọngvới các nước phương Tây. Đường biển Đông Nam Á trở thành tuyến đường chủ yếu để giao thương với các nước trên thế giới, đồng thời cũng cung cấp nguồn tài nguyên dồi dào về hải sản, khoáng sản. Đặc biệt, Đông Nam Á có eo biển Malacca, được xem là điểm điều tiết giao thông quan trọng nhất ở châu Á, dưới góc độ kinh tế và chiến lược, ý nghĩa của eo biển Malacca sánh ngang với kênh đào Suez. Vì thế, Đông Nam Á trở thành mục tiêu chiến lược đặc biệt trong chính sách bành trướng của các nước đế quốc. * Tình hình chế độ phong kiến ở Đông Nam Á Cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX, khi các nước châu Âu và Bắc Mĩ đã căn bản hoàn thành cách mạng tư sản, đua nhau bành trướng thế lực, xâm chiếm thuộc địa thì ở hầu hết các quốc gia Đông Nam Á, chế độ phong kiến vẫn giữ địa vị thống trị và đều lâm vào tình trạng khủng hoảng triền miên về chính trị, kinh tế, xã hội. Về mặt chính trị: Có thể nói, bối cảnh chính trị và kết cấu quyền lực ở Đông Nam Á trước ngưỡng cửa thôn tính thuộc địa của phương Tây là khá đa dạng, nhiều biến động. Sự suy thoái ở các quốc gia diễn ra không đồng đều về mặt thời gian. Song, nhìn chung đây là thời kì các nhà nước phong kiến Đông Nam Á bước vào giai đoạn khủng hoảng, suy tàn. Mặc dù các quốc gia Đông Nam Á không ngừng củng cố tình hình nội trị nhưng đến lúc này chế độ phong kiến đã trở nên lỗi thời, không còn đủ sức đáp ứng những yêu cầu đổi thay của nền kinh tế - xã hội. Trong khi chủ nghĩa tư bản đã thắng thế và được xác lập trên nhiều lục địa 16 thì ở đây, chính quyền phong kiến chuyên chế chẳng những không chăm lo tới sự phát triển kinh tế của đất nước, mà chỉ tiêu hao sức người sức của vào những cuộc chiến tranh nhằm xác định lãnh thổ và củng cố vương quyền. Ví dụ như ở Miến Điện, từ giữa thế kỉ XVIII, đất nước này đã không còn giữ được thế ổn định như trước. Dưới sự trị vì của vương triều Konbaungset (1850 – 1885), Miến Điện ngày càng lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Nguyên nhân chính của thực trạng này bắt nguồn từ những cuộc chiến tranh xung đột kịch liệt giữa Miến Điện với các nước láng giềng, có thể kể đến như: cuộc chiến với Trung Quốc (1776 – 1770), Xiêm (1768 – 1776), và Ấn Độ (1794 – 1795) để tranh giành đất đai và quyền lực. Những cuộc chiến tranh này đã làm cho mâu thuẫn trong xã hội Miến Điện ngày càng trở nên sâu sắc, đẩy vương quốc Miến Điện tới chỗ suy thoái nhanh chóng hơn và bất lực trước cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Anh. Ở Lào, từ thế kỉ XVIII, nhà nước Lan Xang cũng đang trên đà suy yếu không chỉ bởi sự chia rẽ nội bộ giữa các Mường Lào mà còn bởi sự xâm chiếm lãnh thổ từ phía người Thái. Đến nửa sau thế kỉ XVIII, nước Lào không chỉ nhỏ hẹp lại về diện tích, tiếp tục chia rẽ giữa các bộ tộc, trở thành nước phụ thuộc vào Xiêm, mà còn có nguy cơ biến mất trên bản đồ chính trị thế giới bởi sự đồng hóa một cách có hệ thống của chính quyền Xiêm, nhất là từ triều đại Thonburi (1767 – 1782) và sau đó là vương triều dòng Chakri hay Rama (từ 1782). Những biến động lịch sử trên góp phần đưa đến sự xâm nhập và thôn tính nước Lào của người Pháp diễn ra một cách nhanh chóng ở những thập niên cuối của thế kỉ XIX. Đất nước Campuchia đã rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng kéo dài suốt từ năm 1434 đến năm 1863 – thời kì Hậu Ăngco. Trong những thế kỉ này, khi người Thái ngày càng tăng cường tấn công vào Campuchia, thì chính quyền phong kiến ở đây lại sa vào những vụ mưu sát, tranh giành địa vị lẫn nhau. Do đó, họ ngày càng tỏ ra bất lực trước sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản phương Tây. 17 Ở Việt Nam, từ cuối thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến nhà Nguyễn lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Trong nước, bộ máy chính quyền phong kiến Nguyễn từ trung ương mang nặng tính chất quan liêu, độc đoán và sâu mọt; đời sống nhân dân ta vô cùng khổ cực, lòng người ly tán vì bị đàn áp, bóc lột bần cùng. Bên ngoài, chính quyền này ra sức đẩy mạnh thủ đoạn xâm lược đối với các nước láng giềng như Lào, Campuchia, khiến cho tiềm lực quốc gia ngày càng khánh kiệt; thần phục nhà Thanh nhưng lại khước từ quan hệ với tư bản phương Tây. Việc một chính quyền được quân sự hóa ở mức cao nhất để bảo vệ thể chế nhà nước đang thoái hóa nhưng không chịu buông bỏ quyền lực, càng khiến cho mâu thuẫn trong lòng xã hội Việt Nam ngày càng chồng chất. Trong bối cảnh đó, sự xâm lược của Pháp vào Việt Nam là nhân tố cuối cùng, quyết định tới sự sụp đổ của nhà nước phong kiến Việt Nam độc lập. Chỉ có Xiêm, tuy trong thế kỉ XVIII có phần suy yếu bởi sự xâm lược của Miến Điện và nội bộ triều đình lục đục, nhưng Xiêm vẫn là một quốc gia hùng mạnh về kinh tế và quân sự ở Đông Nam Á. Thế kỉ XIX, nhất là từ thời Rama III (1824 – 1851), nhà nước trung ương tập quyền theo đuổi chính sách bành trướng lãnh thổ và đường lối Âu hóathúc đẩy quan hệ thương mại, ngoại giao với nước ngoài. Điều này là một trong những yếu tố chính làm cản trở sự xâm lược của thực dân phương Tây đối với Xiêm, thúc đẩy nước này tiến hành cải cách, mở cửa để tăng sức đề kháng dân tộc trước vòng xoáy của chủ nghĩa đế quốc. Về kinh tế: Có thể nói, Đông Nam Á trước ngưỡng cửa xâm nhập và thôn tính thuộc địa của phương Tây có bức tranh kinh tế - xã hội nhiều gam màu khác nhau, với đặc trưng bao trùm là xã hội nông nghiệp với nền sản xuất tiểu nông lạc hậu, khép kín. Mặc dù ở Đông Nam Á thế kỉ XV – XVI đã có những bước chuyển lớn trong sự hình thành các trung tâm kinh tế, đô thị thương nghiệp, thương mại quốc tế cũng đã trở thành ngành kinh tế mạnh của nhiều quốc gia song chưa đủ sức để lấn át hoạt động nông nghiệp vốn đã ăn sâu bén rễ vào trong tâm căn kinh tế của những xã hội trọng nông. 18 Đến thế kỉ XIX, kinh tế Đông Nam Á bộc lộ sự sa sút và suy thoái rõ rệt. Trong nông nghiệp, ruộng đất tập trung hết vào tay giới điền chủ, thiên tai, mất mùa đói kém xảy ra liên miên. Thêm vào đó, một số nhà nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam thi hành chính sách bế quan tỏa cảng, khiến cho nền kinh tế càng trở nên trì trệ. Ở Miến Điện, trước khi thực dân Anh xâm lược, nước này xuất hiện những mầm mống sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, bởi quan hệ sản xuất phong kiến kìm hãm nên những mầm mống này phát triển một cách chậm chạp. Đến thế kỉ XIX, Miến Điện vẫn là một xã hội nông nghiệp lạc hậu, ruộng đất chủ yếu tập trung vào tay tầng lớp quan lại, địa chủ, được duy trì bằng hình thức phát canh thu tô. Các cuộc chiến tranh liên miên (Miến – Môn, Miến – Xiêm) làm cho nền kinh tế vốn đã kém phát triển càng trở nên tiêu điều, kiệt quệ. Đầu thế kỉ XIX, nền kinh tế Việt Nam cũng ở trong tình trạng suy đốn trầm trọng về mọi mặt. Do chính sách phản động của triều Nguyễn, các yếu tố tư bản chủ nghĩa mới nảy sinh trong các khu vực kinh tế, đang trên đà phát triển tự nhiên và tiến bộ, phù hợp với yêu cầu phát triển xã hội hồi đó đều bị bóp nghẹt. Nếu giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX, được xem là thời điểm sa sút của nhiều nền kinh tế Đông Nam Á, thì trái lại, ở vương quốc Xiêm, đây lại là thời gian kinh tế nước này có nhiều chuyển biến tích cực. Giai đoạn Rama I, Rama II, Rama III trị vì, Xiêm từng bước đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, nhất là sản xuất lúa và đường, không chỉ đủ cung cấp cho nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu và số lượng xuất khẩu ngày càng tăng. Đây là một thành tựu vượt bậc so với các nước khác trong vùng. Trong công nghiệp, nhiều công trường thủ công được xây dựng như luyện gang, làm đường, khai mỏ thiếc, đóng tàu; họ đã đóng được những chiếc thuyền có trọng tải 800 tấn. Trong lĩnh vực thương mại, các vua Rama tăng cường đẩy mạnh hoạt động buôn bán, nhất là với Trung Quốc, kế đến là các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á như: các tiểu quốc ở bán đảo Malaya, quần đảo Indonesia, Singapore, Việt Nam. Nhờ vậy, trong khoảng 20 năm cuối của thế kỉ XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX, ngoại thương Xiêm phát triển hết sức mạnh mẽ, mang lại nguồn thu nhập lớn: “Theo
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng