Quan điểm toàn diện và việc vận dụng nó vào quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
I. QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN:
1. Lịch sử của quan điểm toàn diện:
Trong quá trình nhận thức, yêu cầu tính khách quan trong xem xét đòi hỏi
phải nắm sự vật như một hiện thực tồn tại độc lập ở bên ngoài và không phụ
thuộc vào ý thức của chủ thể, như một sự vật tự nó, trong những điều kiện tồn tại
tất yếu của nó. Nhưng những điều kiện tất yếu để sự vật tồn tại hiện thực là
những mối liên hệ đa dạng của nó với các sự vật khác, là một hệ thống nhất định
các mối quan hệ của nó với các sự vật khác. Qua đó, rõ ràng, sự vật ở dạng tự nó
cần được xem xét không phải tách rời các điều kiện tồn tại tất yếu của nó, mà
trong những mối liên hệ và quan hệ của nó.
Liên hệ trước đó là quan hệ giữa các sự vật và các hiện tượng của hiện thực.
Nhưng không phải quan hệ nào cũng là liên hệ. Liên hệ là quan hệ giữa hai hiện
tượng khi sự thay đổi hiện tượng này tất yếu phải có sự thay đổi nhất định của
hiện tượng kia. Ngược lại, sự tách biệt (riêng rẽ) là mối quan hệ giữa các hiện
tượng của hiện thực khi sự thay đổi của một hiện tượng không động chạm gì đến
các hiện tượng khác, không kèm theo những thay đổi nhất định của các hiện
tượng kia. Nhưng cũng có nhiều trường hợp có mối quan hệ qua lại có cả quan
hệ tách biệt, cũng như trong trường hợp tách biệt có cả mối quan hệ qua lại. Như
vậy, liên hệ và tách biệt (riêng rẽ) bao giờ cũng tồn tại cùng nhau, là những mặt
tất yếu của bất kỳ quan hệ cụ thể nào giữa các hiện tượng của hiện thực.
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại cho rằng các hiện tượng được quan sát trong
thế giới, với toàn bộ tính biệt lập về chất, tính riêng rẽ, tách biệt của chúng,
chúng vẫn nằm trong mối liên hệ hữu cơ với nhau, bởi lẽ tất cả các hiện tượng
đó đều xuất phát từ cùng một nguồn gốc, cơ sở ban đầu như nhau.
A-ri-xtốt xem mối liên hệ và riêng rẽ (tách biệt) là thuộc tính của tồn tại, mối
liên hệ giữa các vật thể khác nhau không chỉ như sự thống nhất được quy định
1
Quan điểm toàn diện và việc vận dụng nó vào quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
bởi nguồn gốc chung từ một cơ sở thống nhất, cơ sở đầu tiên (vật chất đầu tiên)
mà còn như sự phụ thuộc, quy định qua lại của các vật thể.
Theo Căn-tơ quan hệ tất yếu bao gồm cả liên hệ, cả riêng rẽ (tách biệt), các
khái niệm cũng đồng thời vừa liên hệ với nhau, vừa riêng rẽ, chúng ghi nhận cả
sự hiện diện, cả sự vắng mặt của liên hệ. Nhưng ông lại phủ nhận sự có mặt của
mối liên hệ qua lại mang tính quy luật phổ biến trong thực tại khách quan, mối
liên hệ qua lại đó được đưa vào thế giới hiện thực nhờ ý thức.
Còn Hê-ghen cho rằng sự liên hệ qua lại, sự thống nhất về bản chất về cơ bản
là đặc trưng cho thế giới hiện tượng, rằng chúng tồn tại một cách khách quan,
bên ngoài nhận thức con người, và là những hình thái tồn tại phổ biến của sự vật.
Ph.Bê-cơn cho rằng một khi đã phân chia sự vật thành những yếu tố riêng
biệt hình thành nên nó thì chúng ta không tránh khỏi sẽ thủ tiêu nó với tư cách là
một tạo thể xác định vật chất, và như vậy thì chỉ có thể nhận thức được các yếu
tố đó tạo nên khi nghiên cứu một cách toàn diện mối liên hệ và phụ thuộc qua lại
giữa các yếu tố đó.
Khác với các nhà siêu hình phủ nhận mối liên hệ qua lại giữa các hiện tượng
trong hiện thực, khác với những người theo chủ nghĩa duy tâm quy kết hoặc rút
ra mối liên hệ đó từ ý thức, từ tinh thần, chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận
sự tồn tại của mối liên hệ toàn diện giữa các hiện tượng và sự vật trong thế giới
vật chất, xuất phát từ chỗ cho rằng tất cả những gì tồn tại trong thế giới đều là
những khâu của một thực thể vật chất thống nhất, đều là những trạng thái và hình
thức tồn tại khác nhau của thực thể đó. V.I.Lê-nin nhấn mạnh “…Những quan hệ
của mỗi sự vật, hiện tượng không những là muôn vẻ, mà còn là phổ biến, toàn
diện. Mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều liên hệ với mỗi sự vật khác”.
Ngày nay, cách hiểu như vậy về tính phổ biến của liên hệ không những được
các nhà triết học tán thành và tuân thủ như một nguyên tắc xuất phát trong việc
2
Quan điểm toàn diện và việc vận dụng nó vào quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
vạch ra lý luận của phép biện chứng dựa vào sự khái quát các thành tựu của khoa
học tự nhiên hiện đại mà cả những đại biểu của các khoa học cụ thể cũng tính
đến quan điểm này khi xây dựng các lý luận của mình.
Nhưng nếu một sự vật nằm trong mối liên hệ qua lại hữu cơ với các sự vật
khác và mối liên hệ qua lại đó là điều kiện tất yếu và là hình thái tồn tại của nó,
nếu sự vật quy định sự bộc lộ các thuộc tính tương ứng của nó thì để nhận thức
được sự vật, để phát hiện được những thuộc tính đặc trưng, để xem xét nó một
cách tất thì phải xem xét trong mối liên hệ hữu cơ với các vật đó, tính đến toàn
bộ tổng hòa những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với những vật khác. V.I.Lênin đã nhận xét: “Muốn thực hiện sự hiểu biết sự vật, cần phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật
đó”.
2. Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện:
Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện là xuất phát từ nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Vì vậy, chúng ta phải nắm
vững nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến để có thể xây dựng quan điểm
toàn diện nhằm đẩy mạnh hoạt động nhận thức đúng đắn và hoạt động thực tiễn
hiệu quả.
2.1. Nội dung nguyên lý:
2.1.1. Định nghĩa về mối quan hệ:
+ Quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau
trong thế giới tồn tại cô lập, tách biệt nhau, cái này nằm cạnh cái kia, không có
sự liên hệ lẫn nhau; còn nếu có sự liên hệ thì đó là sự liên hệ ngẫu nhiên, hời hợt,
bề ngoài; và nếu có nhiều mối liên hệ thì bản thân từng mối liên hệ lại cô lập lẫn
nhau.
3
Quan điểm toàn diện và việc vận dụng nó vào quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
+ Quan điểm biện chứng cho rằng mối liên hệ là sự tác động qua lại, ràng
buộc lẫn nhau mà sự thay đổi cái này sẽ tất yếu kéo theo sự thay đổi cái kia. Đối
lập với sự liên hệ là sự tách biệt. Sự tách biệt cũng là sự tác động qua lại nhưng
sự thay đổi cái này sẽ không tất yếu kéo theo sự thay đổi các kia. Các sự vật,
hiện tượng, quá trình khác nhau trong thế giới vừa tách biệt nhau vừa liên hệ
ràng buộc, thâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau; thế giới là một hệ thống chỉnh thể
thống nhất mà mọi yếu tố, bộ phận của nó luôn tác động qua lại chuyễn hóa lẫn
nhau. Tuy nhiên, có hai loại quan điểm biện chứng.
- Quan điểm biện chứng duy tâm cố tìm cơ sở của sự liên hệ qua lại, ràng
buộc lẫn nhau đó ở trong các lực lượng siêu tư nhiên hay cảm giác, ý thức con
người.
- Quan điểm biện chứng duy vật luôn cho rằng cơ sở của sự liện hệ qua
lại, ràng buộc lẫn nhau đó ở trong vật chất và mối liên hệ mang tính khách quan tức tồn tại không phụ thuộc vào ý thức và nhận thức của con người, và mang tính
phổ biến - tức là tồn tại trong mọi sự vật, hiện tượng, trong mọi lĩnh vực hiện
tượng.
2.1.2. Phân loại mối liên hệ:
Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau trong thế giới rất
đa dạng. Chính tính đa dạng của tồn tại vật chất quy định tính đa dạng của mối
liên hệ; và các hình thức, kiểu liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự
vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Tùy theo cơ sở phân
chia mà mối liên hệ được chia thành:
+ Liên hệ trực tiếp và liên hệ gián tiếp.
+ Liên hệ bản chất và liên hệ không bản chất.
+ Liên hệ tất nhiên và liên hệ ngẫu nhiên.
+ Liên hệ đồng đại (không gian) và liên hệ lịch đại (thời gian), ...
4
Quan điểm toàn diện và việc vận dụng nó vào quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
Dù mọi cách phân chia đều tương đối nhưng phép biện chứng duy vật rất
quan tâm đến việc chia mối quan hệ dựa trên vai trò và phạm vi tác động của bản
thân chúng.
+ Nếu dựa trên vai trò tác động đối với sự vận động và phát triển của sự vật
thì liên hệ được chia thành mối liên hệ bên trong và mối liện hệ bên ngoài.
+ Nếu dựa trên phạm vi tác động đối với sự vận động và phát triển của sự vật
thì mối liên hệ được chia thành mối liên hệ chung, mối liên hệ riêng, mối liên hệ
phổ biến.
2.1.3. Tóm tắt nội dung nguyên lý:
Khi khái quát từ những biểu hiện cụ thể của mối liên hệ xảy ra trong các lĩnh
vực khác nhau của thế giới, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến được phát biểu
như sau:
Một là, mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới đều tồn tại trong
muôn vàn mối liên hệ ràng buộc qua lại lẫn nhau.
Hai là, trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của sự vật, hiện tượng,
quá trình trong thế giới có mối liên hệ phổ biến. Mối liên hệ phổ biến tồn tại
khách quan - phổ biến, nó chi phối một cách tổng quát sự vận động và phát triển
của mỗi sự vật, hiện tượng quá trình trong thế giới.
2.2. Ý nghĩa phương pháp luận - Quan điểm toàn diện:
Nếu nắm vững nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, chúng ta có thể
xây dựng quan điểm toàn diện để đẩy mạnh hoạt động nhận thức đúng đắn và
hoạt động thực tiễn hiệu quả.
Quan điểm toàn diện là cách đánh giá sự vật hiện tượng (tự nhiên, xã hội, con
người...) một cách bao quát nhiều mặt, nhiều khía cạnh... để dẫn đến quyết định
đúng.
5
Quan điểm toàn diện và việc vận dụng nó vào quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
Trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội IX của
Đảng đã nêu rõ: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước
ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại
đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự
của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính,
chí công, vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân…
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành
thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta".
3. Những yêu cầu cơ bản của quan điểm toàn diện:
Trong nhận thức và hành động thực tiễn đòi hỏi chủ thể phải có quan điểm
toàn diện trong việc xem xét giải quyết một vấn đề trong thực tiễn.
Trong hoạt động nhận thức, chủ thể cần phải khách quan. Quan điểm toàn
diện đòi hỏi phải tìm hiểu để phát hiện ra càng nhiều càng tốt những mối liên hệ
chi phối đối tượng nhận thức. Sau đó, phân loại để xác định trong các mối liên
hệ đã được phát hiện ra thì mối liên hệ nào là liên hệ bên trong, liên hệ cơ bản,
liên hệ tất nhiên, liên hệ ổn định… Và dựa vào các mối liên hệ đó để lý giải
được những mối liên hệ còn lại. Cuối cùng là nhìn thấy sự vật như là một chỉnh
6
Quan điểm toàn diện và việc vận dụng nó vào quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
thể của tất cả các mặt, các thuộc tính, các mối liên hệ trong bản thân sự vật, hiện
tượng và giữa sự vật hiện tượng đó với những sự vật hiện tượng khác, với môi
trường xung quanh… Thực chất của quan điểm toàn diện là trong khi chú ý xem
xét tất cả các mặt của sự vật, tư duy phải phát hiện được, phản ánh được những
mặt chủ yếu, bản chất, quan trọng nhất của sự vật một cách giãn bình quân,
không biết đâu là bản chất của sự vật. Từ việc nắm được bản chất của sự vật,
chúng ta cũng nhìn thấy các mặt khác của sự vật một cách sâu sắc trong chỉnh
thể của tất cả các mặt.
Từ quan điểm toàn diện trong sự xem xét chúng ta đi đến nguyên tắc đồng bộ
trong hoạt động thực tiễn: chú trọng đến mối liên hệ và đánh giá đúng vai trò, vị
trí của từng mối liên hệ đang chi phối đối tượng. Sau đó, thông qua hoạt động
thực tiễn sử dụng nhiều biện pháp, phương tiện thích hợp để biến đổi những mối
liên hệ đó, đặc biệt là những mối liên hệ bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan
trọng…Cuối cùng, nắm vững sự chuyển hóa của các mối liên hệ để kịp thời đưa
ra các biện pháp bổ sung nhằm phát huy hay hạn chế sự tác động của chúng, và
lèo lái sự vận động, phát triển của đối tượng đúng quy luật và hợp lợi ích của
chúng ta. Như vậy, để cải tạo một sự vật chúng ta phải áp dụng đồng bộ một hệ
thống những biện pháp nhất định. Tuy nhiên cũng như đã nói ở trên, đồng bộ
không có nghĩa là dàn đều, bình quân mà trong từng bước, từng giai đoạn phải
nắm đúng khâu then chốt.
4. Nếu không tuân thủ những đòi hỏi của quan điểm toàn diện thì chúng
ta sẽ mắc phải các sai lầm sau:
Thực hiện quan điểm toàn diện góp phần khắc phục bệnh phiến diện, một
chiều chỉ nhìn thấy một mặt, một khía cạnh, mà không thấy đầy đủ các mặt, các
khía cạnh khác của vấn đề hoặc có khi tuy có chú ý đến nhiều mặt nhưng không
7
Quan điểm toàn diện và việc vận dụng nó vào quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
nhìn thấy được mặt bản chất của sự vật. Quan điểm toàn diện cũng góp phần
khắc phục lối suy nghĩ giản đơn.
Quan điểm toàn diện còn có ý nghĩa trong việc chống chủ nghĩa chiết Trung
(hệ thống quan điểm máy móc pha trộn những yếu tố thuộc những quan điểm
triết học, lí luận chính trị khác nhau, đối lập nhau) mà đặc trưng của nó là nhân
danh quan điểm toàn diện để kết hợp một cách vô nguyên tắc những mặt khác
nhau mà thực chất là không thể kết hợp với nhau được.
II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VÀO QUẢN LÝ RỦI RO
TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM:
1. Thực trạng rủi ro tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam:
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng
và các tổ chức kinh tế, cá nhân theo nguyên tắc hoàn trả. Việc hoàn trả được nợ
gốc trong tín dụng có nghĩa là việc thực hiện được giá trị hàng hoá trên thị
trường, còn việc hoàn trả được lãi vay trong tín dụng là việc thực hiện được giá
trị thặng dư trên thị trường. Do đó, có thể xem rủi ro tín dụng cũng là rủi ro kinh
doanh nhưng được xem xét dưới góc độ của ngân hàng.
Chiếm tới 60-70% tài sản có của các ngân hàng thương mại là phần tài sản
sinh lời từ hoạt động cho vay, có nơi tỷ lệ này còn lên tới gần 90%. Tình trạng
độc canh tín dụng là vấn đề sống còn trong quản trị rủi ro của giới kinh doanh
ngân hàng. Số liệu này được công bố tại Hội thảo Nâng cao năng lực quản trị rủi
ro của các Ngân hàng thương mại Việt Nam diễn ra tại Hà Nội. Tỷ lệ nợ quá
hạn, nợ xấu trong tổng dư nợ của các Ngân hàng thương mại Việt Nam đang ở
mức cao hơn so với nhiều ngân hàng các nước trong khu vực và trên thế giới.
Việc cung cấp, khai thác và sử dụng thông tin tín dụng tại nhiều Ngân hàng
thương mại vẫn còn yếu, nên một khách hàng vay vốn tại nhiều Ngân hàng
thương mại nhưng không có sự kiểm tra, đánh giá về mức độ rủi ro.
8
Quan điểm toàn diện và việc vận dụng nó vào quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
"Lịch sử hoạt động ngành ngân hàng từng chứng kiến trong những năm 1990,
đã có không ít ngân hàng thương mại cổ phần bị rút giấy phép hoạt động hoặc
phải sáp nhập với đơn vị khác vì không chịu nổi tổn thất từ những rủi ro trong
hoạt động tín dụng".
2. Vận dụng nguyên tắc toàn diện vào việc quản lý rủi ro tín dụng của
các Ngân hàng thương mại Việt Nam:
Trong quan hệ tín dụng có hai đối tượng tham gia là ngân hàng cho vay và
người đi vay. Nhưng người đi vay sử dụng tiền vay trong một thời gian, không
gian cụ thể, tuân theo sự chi phối của những điều kiện cụ thể nhất định mà ta gọi
là môi trường kinh doanh, và đây là đối tượng thứ ba có mặt trong quan hệ tín
dụng. Rủi ro tín dụng xuất phát từ môi trường kinh doanh gọi là rủi ro do nguyên
nhân khách quan. Rủi ro xuất phát từ người vay và ngân hàng cho vay gọi là rủi
ro do nguyên nhân chủ quan.
2.1. Rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan:
2.1.1. Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định:
a. Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới:
Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp
và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên
liệu), dầu thô, may gia công,… vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế
giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu. Ngành dệt may
trong một số năm gần đây đã gặp nhiều khó khăn vì bị khống chế hạn ngạch.
Ngành thủy sản cũng gặp nhiều lao đao vì các vụ kiện bán phá giá vừa qua.
Không chỉ xuất khẩu, các mặt hàng nhập khẩu cũng dễ bị tổn thương không kém.
Mặt hàng sắt thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép thế giới. Việc tăng giá
phôi thép làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản
xuất do chi phí giá thành rất cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm.
9
Quan điểm toàn diện và việc vận dụng nó vào quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
b. Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế:
Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia
tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh
nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy
cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân
sự cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế trong môi
trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ thống
quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách
hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút.
c. Sự tấn công của hàng nhập lậu:
Cuộc chiến đấu với hàng lậu đã kéo dài dai dẳng từ rất nhiều năm nay mà kết
quả là hàng lậu vẫn tràn lan tại các thành phố lớn, làm điêu đứng các doanh
nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này. Các
mặt hàng kim khí điện máy, gạch men, đường cát, vải vóc, quần áo, mỹ phẩm,…
là những ví dụ tiêu biểu cho tình hình hàng lậu ở nước ta.
d. Thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng
hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành:
Nền kinh tế thị trường thị trường tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, các nhà kinh
doanh sẽ tìm kiếm ngành nào có lợi nhất để đầu tư và rời bỏ những ngành không
đem lại lợi nhuận và do đó có sự chuyển dịch vốn từ ngành này qua ngành khác.
Tuy nhiên ở nước ta thời gian qua, sự cạnh tranh đã phát triển một cách tự phát,
hoàn toàn không đi kèm với sự quy hoạch hợp lý, hợp tác, phân công lao động,
chuyên môn hoá lao động, sự bất lực trong vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp
và sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Điều này dẫn đến sự gia tăng quá đáng vốn
đầu tư vào một số ngành, dẫn đến khủng hoảng thừa, lãng phí tài nguyên quốc
gia.
10
Quan điểm toàn diện và việc vận dụng nó vào quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
2.1.2. Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi:
a. Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương:
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ,
Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật,văn bản
dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng.
Song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn
gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi
nợ.
b. Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng nhà nước:
Hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải
thiện căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng
được yêu cầu. Vai trò kiểm toán chưa được phát huy và hệ thống thông tin chưa
được tổ chức một cách hữu hiệu. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu,
khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu. Thanh
tra ngân hàng còn hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát
sinh, ít có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro và vi phạm. Mô hình tổ
chức còn nhiều bất cập. Do vậy mà có những sai phạm của các Ngân hàng
thương mại không được thanh tra Ngân hàng nhà nước cảnh báo, có biện pháp
ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả nặng nề đã xảy ra rồi mới can thiệp.
c. Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập:
Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh
nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của Ngân
hàng nhà nước đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc
cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là
cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông
tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật và ngoài ra việc kết nối thông tin với
11
Quan điểm toàn diện và việc vận dụng nó vào quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
trang Web CIC còn nhiều trục trặc, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu
thông tin.
2.2. Rủi ro tín dụng do nguyên nhân chủ quan:
2.2.1. Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay:
a. Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay:
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh
doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý
lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc
phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng
xấu đến các doanh nghiệp khác.
b. Khả năng quản lý kinh doanh kém:
Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa
phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh
dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài
chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với
tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh
đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
c. Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch:
Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm
chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy
đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân
thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn
luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống
rủi ro tín dụng.
2.2.2. Rủi ro do các nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay:
a. Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng:
12
Quan điểm toàn diện và việc vận dụng nó vào quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra Ngân hàng nhà nước ở tính thời
gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu xát
của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với
công việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội
bộ của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức.
b. Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ:
Một số vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ
Ngân hàng thương mại đều có sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với
khách hàng làm giả hồ sơ vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao
so với thực tế để rút tiền ngân hàng. Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố
tối quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng.
c. Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay:
Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm
định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau
khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý
một cách chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong
những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân
hàng nói chung. Tuy nhiên trong thời gian qua các Ngân hàng thương mại chưa
thực hiện tốt công tác này do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng
của cán bộ ngân hàng, và hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các
doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin
mà Ngân hàng thương mại yêu cầu.
2.2.3. Sự hợp tác giữa các Ngân hàng thương mại quá lỏng lẻo, vai trò của
CIC chưa thực sự hiệu quả:
Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói
cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là
13
Quan điểm toàn diện và việc vận dụng nó vào quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
không thể tránh khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm
hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một
khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Trong tình hình
cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương mại ngày càng gay gắt như hiện nay, vai
trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để
các ngân hàng có các quyết định cho vay hợp lý. Tuy nhiên hiện nay ngân hàng
dữ liệu của CIC chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa được cập nhật
và xử lý kịp thời.
Tóm lại, đánh giá một cách toàn diện rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất
nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Các biện pháp phòng chống rủi
ro có thể nằm trong tầm tay của các Ngân hàng thương mại nhưng cũng có
những biện pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng ngân hàng, liên quan đến
vấn đề nội tại của bản thân nền kinh tế đang chuyển đổi, đang định hướng mô
hình phát triển ở Việt Nam.
KẾT LUẬN
Trong thời gian qua, các Ngân hàng thương mại Việt Nam đã trải qua bao
thăng trầm và tưởng chừng có lúc không thể trụ vững được vào những năm 9697, khi mà hàng loạt các vụ án kinh tế có liên quan đến ngành ngân hàng, gây
tổn thất nghiêm trọng về tài sản hàng ngàn tỷ đồng, con người và đặc biệt là uy
tín của ngành ngân hàng trong nền kinh tế.
14
Quan điểm toàn diện và việc vận dụng nó vào quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
Qua việc phân tích những nguyên nhân dẫn tới rủi ro tín dụng cho các ngân
hàng thương mại bằng việc vận dụng “Quan điểm toàn diện” phần nào cũng cho
ta thấy được bản chất của vấn đề mặc dù phân tích ở trên chỉ mang tính khái
quát. Những rủi ro tín dụng xảy ra trong giai đoạn này cho dù có xuất phát từ
những nguyên nhân khách quan hay chủ quan đều phản ánh rõ nét những yếu
kém trong công tác quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại. Những
biện pháp nhằm ngăn ngừa, quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng chưa được
các ngân hàng đưa ra và thực hiện một cách đầy đủ, triệt để, toàn diện và đặc
biệt là các biện pháp liên quan đến yếu tố con người.
Trước những sự việc đáng tiếc đã xảy ra liên quan đến các ngân hàng thương
mại, Chính phủ, Ngân hàng nhà nước và ngay bản thân các Ngân hàng thương
mại nên nỗ lực đưa ra các biện pháp khắc phục hậu quả, đồng thời định hướng
phát triển cho ngành ngân hàng trong thời gian tới trên tinh thần: tăng trưởng tín
dụng với chất lượng cao và bền vững, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã
hội của cả nước. Cụ thể, hàng loạt các biện pháp đã được thực hiện từ cơ chế,
chính sách, các văn bản pháp quy đã được ban hành như “Quy chế cho vay của
Tổ chức tín dụng đối với khách hàng”; văn bản của Chính phủ về thủ tục chuyển
đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp bằng quyền sử dụng đất; Thông
tư về hướng dẫn thực hiện một số quy định về đảm bảo tiền vay của các Tổ chức
tín dụng; Thông tư liên tịch hướng dẫn việc xử lý tài sản đảm bảo tiền vay để thu
hồi nợ cho các Tổ chức tín dụng... Điều đó đã nói lên quyết tâm của Chính phủ,
Ngân hàng nhà nước, các cơ quan có liên quan trong việc khắc phục hậu quả và
tạo điều kiện thuận lợi hơn cho ngành ngân hàng phát triển theo hướng: giao
quyền chủ động kinh doanh cho các Ngân hàng thương mại và các Ngân hàng
thương mại hoàn toàn tự chịu trách nhiệm trước những hoạt động kinh doanh
của mình.
15
Quan điểm toàn diện và việc vận dụng nó vào quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
Bên cạnh đó công tác thanh tra, kiểm tra và báo cáo giám sát từ xa của Ngân
hàng nhà nước phải ngày càng được chú trọng và nâng cao về mặt chất lượng,
góp phần đưa hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại dần đi vào ổn
định, tổng dư nợ tăng trưởng khá và tỷ lệ nợ quá hạn giảm dần.
Về bản thân các Ngân hàng thương mại, sau những sự việc đáng tiếc xảy ra,
các Ngân hàng thương mại phải cố gắng khắc phục hậu quả, và đồng thời công
tác phòng chống, quản lý rủi ro tín dụng cũng phải được chú trọng hơn. Các
ngân hàng cần tập trung đưa ra những chiến lược kinh doanh phù hợp, đổi mới
quy trình và bộ máy cho vay sao cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn và đảm bảo
an toàn khi cho vay.
Ngoài ra, công tác tuyển chọn, đào tạo và đào tạo lại, nâng cao tư cách, phẩm
chất đạo đức của cán bộ tín dụng cũng phải được các ngân hàng đặc biệt quan
tâm và mang tính thường xuyên hơn. Các hoạt động khác như công tác kiểm soát
nội bộ cũng phải ngày càng được chú trọng nhằm phát hiện sớm các dấu hiệu rủi
ro cũng như các sai xót trong quá trình cho vay để có biện pháp xử lý kịp thời,
tránh việc gây những hậu quả đáng tiếc xảy ra. Thành lập phòng xử lý rủi ro tín
dụng hoặc các công ty khai thác tài sản... cũng góp phần đưa hoạt động tín dụng
của các Ngân hàng thương mại phát triển ổn định, chất lượng tín dụng cũng dần
được nâng cao, đảm bảo tín dụng tăng trưởng bền vững.
Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ hiện nay tại các Ngân hàng
thương mại trên địa bàn vẫn còn cao hơn mức quy định (5%). Nợ quá hạn còn
cao chủ yếu là do hậu quả của các năm trước để lại, chưa giải quyết dứt điểm,
song tại một số ngân hàng vẫn có tình trạng phát sinh mới về nợ quá hạn, cho
thấy rủi ro tín dụng luôn tiềm tàng trong hoạt động kinh doanh đòi hỏi các ngân
hàng phải chú trọng hơn nữa đến công tác phòng chống, quản lý rủi ro nhằm hạn
chế đến mức thấp nhất những thiệt hại xảy ra.
16
Quan điểm toàn diện và việc vận dụng nó vào quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
Tóm lại, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì nhu cầu vốn của các cá
nhân và doanh nghiệp ngày càng tăng, dẫn đến mức độ tăng trưởng tín dụng
cũng tăng lên tương ứng. Sự tăng trưởng tín dụng của các Ngân hàng thương mại
phù hợp với sự tăng trưởng của nền kinh tế cả nước nói chung. Tuy nhiên, sự
tăng trưởng tín dụng cũng kéo theo sự gia tăng rủi ro tín dụng, điều này làm ảnh
hưởng rất nhiều đến hiệu quả sử dụng vốn và làm hạn chế việc mở rộng tín dụng
của các Ngân hàng thương mại. Do đó việc phát triển tín dụng phải đi đôi với
chất lượng tín dụng.
Vì vậy, các giải pháp tốt trong quản lý rủi ro tín dụ
17
- Xem thêm -