HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HOÀNG THU THỦY
Qu¸ tr×nh thùc hiÖn chÝnh s¸ch d©n téc cña §¶ng
ë mét sè tØnh miÒn nói §«ng B¾c ViÖt Nam
tõ n¨m 1996 ®Õn n¨m 2010
Chuyên ngành: LÞch sö §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam
Mã số
: 62 22 56 01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2014
Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS Nguyễn Bình Ban
2. TS Nguyễn Danh Tiên
Phản biện 1:.........................................................
.........................................................
Phản biện 2:.........................................................
.........................................................
Phản biện 3:.........................................................
.........................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 2014
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và
Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là quốc gia đa tộc người, với 54 thành phần dân tộc, trong đó miền
núi - vùng dân tộc thiểu số Việt Nam chiếm hơn 3/4 lãnh thổ, có hơn 1/3 số dân với
hơn 23 triệu người. Trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm,
các dân tộc thiểu số đã gắn bó, đoàn kết, hòa nhập cùng dân tộc Kinh thành một kết
cấu thống nhất về mặt lãnh thổ, về mặt thể chế - hành chính, về mặt ý thức hệ quốc
gia - dân tộc, trong sự đa dạng về văn hóa tộc người. Nhận thức rõ vị trí, tầm quan
trọng của vấn đề dân tộc và chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc hoạch
định đường lối, chủ trương và chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương thực hiện
tốt chính sách dân tộc. Nhờ vậy, trong các giai đoạn cách mạng, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã tập hợp đông đảo các tầng lớp, giai cấp tham gia vào nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tạo nên sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, góp phần đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng dân
tộc, thống nhất Tổ quốc. Không chỉ giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành độc
lập dân tộc mà sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã tạo ra những thành
tựu quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Qua hơn 25 năm đổi mới đất nước, kinh tế - xã hội ở những địa bàn có nhiều
dân tộc thiểu số sinh sống đã phát triển tương đối nhanh. Kế thừa truyền thống quý
báu của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết
toàn dân, đó là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
(4/2001) khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí
chiến lược trong sự nghiệp cách mạng”. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội, phát triển sản xuất hàng hoá, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xoá
đói giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn, làm giàu, phát huy bản sắc văn hoá và
truyền thống tốt đẹp của các dân tộc.
Vùng Đông Bắc Việt Nam là một khu vực lịch sử - dân tộc học; gồm cả hệ
sinh thái rẻo cao, rẻo giữa và rẻo thấp; có nguồn tài nguyên thiên nhiên, đa dạng;
giàu bản sắc văn hoá, trong đó đóng vai trò chủ thể vùng là nhóm cư dân Tày Nùng. Thổ nhưỡng phục vụ cho phát triển nông - lâm nghiệp: rừng làm nguyên liệu
cho công nghiệp, là tấm lá chắn bảo vệ, che chở và nuôi dưỡng cho môi trường bền
vững. Thảm thực vật đa dạng phục vụ cho nghiên cứu và an ninh sinh kế tộc người.
Sông ngòi và tài nguyên nước phục vụ cho thuỷ điện; khoáng sản phục vụ cho phát
triển các ngành công nghiệp v.v... Do vậy, việc phát huy các thế mạnh của vùng
không chỉ có ý nghĩa kinh tế lớn, mà còn có ý nghĩa chính trị sâu sắc. Tuy nhiên,
những tiềm năng ấy chưa được khai thác hiệu quả, thiếu tính bền vững. Bên cạnh
2
đó, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng được đẩy tới thì các dân tộc thiểu
số sống ở khu vực này càng bị thua thiệt về cơ hội phát triển, họ ít có khả năng tham
gia vào quá trình đó.
Vùng Đông Bắc là địa bàn cư trú của hàng chục dân tộc thiểu số (Tày, Nùng,
Thái, Mường, Dao, Mông…). Phần lớn các dân tộc thiểu số ở đây lại có quan hệ
đồng tộc về mặt lịch sử và văn hoá với các tộc người của quốc gia láng giềng.
Chính vì vậy, các dân tộc trong vùng và các dân tộc bên kia biên giới bên cạnh sự
“sơn thuỷ tương liên” còn có mối quan hệ “văn hoá tương đồng”, thậm chí cả quan
hệ huyết thống. Các quan hệ đồng tộc xuyên biên giới (hôn nhân xuyên biên giới,
thăm thân xuyên biên giới, di chuyển lao động xuyên biên giới...) rất phổ biến.
Thậm chí, các học giả phương Tây gọi hiện tượng này là chủ nghĩa bản địa xuyên
quốc gia. Đông Bắc còn là khu vực có vị trí chiến lược quan trọng về an ninh, chính
trị, quốc phòng và quan hệ lân bang - khi vùng Đông Bắc có đường biên giới dài
hàng nghìn ki-lô-mét giáp với Trung Quốc cả trên đất liền, trên biển, trên không và
dưới lòng đất. Chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi, dân tộc biên
giới là cơ sở đảm bảo giữ vững an ninh, quốc phòng của đất nước. Vì vậy, việc xây
dựng chính sách quản lý và phát triển đối với vùng biên giới, đa tộc người trở nên
vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam với
Trung Quốc bên cạnh xu hướng tích cực (như: thúc đẩy giao thương kinh tế, giao
lưu văn hoá, tăng cường đối ngoại nhân dân, hình thành các khu kinh tế cửa khẩu...)
thì cũng nảy sinh hàng loạt vấn đề an ninh phi truyền thống phức tạp như: di dân
xuyên biên giới, buôn bán ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em, buôn lậu hàng hoá,
ứng phó với hiểm họa dịch bệnh lây lan nhanh (người, động vật, thực vật), thảm
họa thủy điện và tranh chấp nguồn nước, các tổ chức ngoài nhà nước hoạt động
xuyên biên giới...
Trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam
đã có nhiều chính sách ưu tiên đầu tư cho các tỉnh miền núi Đông Bắc Việt Nam.
Nhờ vậy, đời sống nhân dân và bộ mặt nông thôn miền núi có sự thay đổi. Tuy
nhiên, kết quả đạt được chưa tương xứng và chưa đáp ứng yêu cầu của nhân dân,
đặc biệt là các dân tộc thiểu số. Các tỉnh miền núi Đông Bắc vẫn là vùng chậm phát
triển; trình độ phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội còn một khoảng cách lớn so với
các khu vực khác trong cả nước. Sau một quá trình thực hiện thành công các
chương trình, dự án giảm nghèo cho vùng miền núi và dân tộc thiểu số nói chung,
đã đến lúc Đảng, Nhà nước phải có một hệ thống chính sách mới phù hợp với xu
thế và trình độ phát triển khi Việt Nam đã bước vào ngưỡng của nước thu nhập
trung bình thấp. Mặt khác, thực tiễn đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề cần được giải
quyết như: vấn đề quan hệ dân tộc - quốc gia, dân tộc - tộc người, di dân tự do, vấn
đề đói nghèo, vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá tộc người… đòi hỏi
chính sách dân tộc phải được xây dựng và vận hành nhằm mang lại quyền bình
đẳng thực sự cho các dân tộc. Muốn xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách
3
dân tộc, cần có một nghiên cứu quy mô và toàn diện về vùng dân tộc thiểu số nói
chung cũng như ở vùng miền núi Đông Bắc nói riêng. Qua đó, tổng kết, đánh giá
kết quả lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc của Đảng; đồng thời, nhận diện
những ưu điểm, hạn chế và đúc kết kinh nghiệm nhằm hoàn thiện chính sách dân
tộc nói chung cũng như các chủ trương, chính sách, giải pháp thực hiện chính sách
dân tộc ở khu vực các tỉnh miền núi Đông Bắc nước ta nói riêng.
Do đó, việc thực hiện đề tài “Quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng
ở một số tỉnh miền núi Đông Bắc Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2010” là vấn
đề khoa học có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Làm sáng tỏ nhận thức khoa học về chính sách dân tộc của Đảng và quá trình
tổ chức thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở một số tỉnh vùng Đông Bắc của
Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2010; Đánh giá những thành tựu, hạn chế của quá
trình tổ chức thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở một số tỉnh vùng Đông Bắc
Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2010; Tổng kết một số kinh nghiệm chủ yếu về tổ
chức thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở một số tỉnh vùng Đông Bắc từ năm
1996 đến năm 2010 - gợi ý cho tổng kết thực tiễn - lý luận 30 năm đổi mới.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ sau:
- Phân tích các công trình nghiên cứu trước đây để xác định những cơ sở
phương pháp luận cần vận dụng trong thực hiện luận án, những vấn đề đã được giải
quyết có thể kế thừa và phát triển, những khoảng trống cần phải bổ khuyết.
- Khái quát những đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội, tình hình dân tộc và dân
cư ở một số tỉnh miền núi Đông Bắc Việt Nam với ý nghĩa tạo nên đặc tính vùng.
- Nghiên cứu, hệ thống hoá quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt
Nam về chính sách dân tộc ở vùng miền núi Đông Bắc từ năm 1996 đến năm 2010
nhằm góp phần làm rõ sự phát triển về nhận thức và sự chỉ đạo thực tiễn của Đảng
về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc ở địa bàn này.
- Phân tích quá trình tổ chức thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở một số
tỉnh miền núi Đông Bắc Việt Nam trong những năm 1996 - 2010.
- Đánh giá thành tựu và hạn chế của Đảng trong lãnh đạo thực hiện chính
sách dân tộc tại một số tỉnh vùng Đông Bắc nước ta từ năm 1996 đến năm 2010.
- Đúc kết một số kinh nghiệm cơ bản trong quá trình thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng ở một số tỉnh miền núi Đông Bắc Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2010.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các quan điểm, chủ trương, định hướng hợp thành chính sách dân tộc (theo
nghĩa rộng) của Đảng; sự thể chế hóa về mặt nhà nước ở cấp vĩ mô, cấp vùng và
4
cấp địa phương; các biện pháp, hành động thực thi chính sách dân tộc ở một số tỉnh
vùng Đông Bắc từ năm 1996 đến năm 2010.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Luận án nghiên cứu giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2010
- Về không gian - địa bàn: Trong phạm vi luận án này, vùng Đông Bắc được
xác định là không gian địa lý - tộc người, lấy Thủ đô Hà Nội làm điểm nhìn để xác
định tọa độ cho phương vị "đông bắc", lấy phạm vi các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà
Giang, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Bắc Giang làm không gian chung cho
nghiên cứu cảnh quan cấp vùng, chọn các tỉnh biên giới Hà Giang, Cao Bằng, Lạng
Sơn, Quảng Ninh làm địa bàn khảo sát thực địa chủ yếu của luận án.
- Về nội dung:
+ Chính sách dân tộc có nội dung rất rộng, thể hiện trên tất cả các mặt chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh,... Tuy nhiên, luận án chỉ giới hạn
ở năm nhóm chính sách chủ yếu: chính sách kinh tế (xoá đói giảm nghèo, phát triển
kinh tế); chính sách chăm lo phát triển trí lực và thể lực (giáo dục - đào tạo, y tế,
nâng cao đời sống vật chất); chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá các
dân tộc; chính sách cán bộ dân tộc thiểu số; Xây dựng, củng cố nền quốc phòng
toàn dân và an ninh nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
+ Tổ chức thực hiện chính sách dân tộc của Đảng gồm cả cấp trung ương, địa
phương (tỉnh, huyện, xã), cộng đồng (làng/bản), hộ gia đình và cá nhân; cả hệ thống
chính trị, doanh nghiệp và nhân dân; luận án chỉ tập trung vào khâu trọng tâm là sự thể
chế hóa về mặt nhà nước; các biện pháp lớn trong triển khai các chương trình, dự án
trọng điểm; các phong trào và mô hình điển hình kết hợp giữa ý đảng với lòng dân.
4. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân tộc và chính sách dân tộc. Đặc biệt, luận án
bám sát đến các quan điểm biện chứng, khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể để
triển khai các ý tưởng nghiên cứu.
4.2. Nguồn tư liệu
- Tư liệu sơ cấp: Các số liệu, thông tin do tác giả thu thập thông qua các phương
pháp điều tra xã hội học, điền dã dân tộc học tại một số tỉnh miền núi Đông Bắc.
- Tư liệu thứ cấp: Những số liệu, tài liệu, công trình nghiên cứu, sách chuyên
khảo đã công bố của các nhà nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, kể cả các luận
văn, luận án.
- Tư liệu cấp ba: Các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII, IX, X, XI và các
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương từ khoá VIII đến khoá XI; các văn bản
pháp quy của Nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành; các báo
5
cáo tổng kết của Uỷ ban Dân tộc và Miền núi, niên giám thống kê của Trung ương
và địa phương, các tác phẩm kinh điển liên quan đến luận án.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử và phương pháp logíc là hai phương pháp chính được
vận dụng, kết hợp để nghiên cứu tổng thể luận án cũng như triển khai các nội dung
cụ thể ở từng chương, tiết. Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số phương pháp khác
như: phương pháp tổng kết thực tiễn; phương pháp thống kê; phương pháp so sánh;
phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp, tài liệu cấp ba; phương pháp tổng hợp;…
5. Đóng góp mới của luận án
- Về mặt tư liệu: Hệ thống hóa, phát hiện và giải mã một số tư liệu mới về dân
tộc và quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở một số tỉnh miền núi Đông
Bắc nước ta.
- Về mặt nhận thức: Phân tích khoa học về một số chính sách dân tộc và thực
thi chính sách dân tộc của Đảng áp dụng ở cấp độ vùng, mang đặc điểm vùng và địa
phương do chế định của yếu tố địa lý, bản sắc tộc người, quan hệ Việt - Trung trong
điều kiện hội nhập; Rút ra một số nhận xét, kết luận dựa trên tư liệu mới và thông
tin mới được phân tích, luận giải khoa học, đặc biệt là các nhận xét, kết luận về thực
hiện chính sách dân tộc gắn với nhóm cư dân Tày - Nùng, Mông - Dao gắn với đặc
thù các tỉnh biên giới; Tổng kết một số kinh nghiệm có ý nghĩa đóng góp vào tổng
kết thực tiễn - luận 30 năm đổi mới trên vấn đề dân tộc được xem xét ở cấp độ vùng
và địa phương các tỉnh Đông Bắc.
- Về mặt thực tiễn: Những kinh nghiệm được đúc kết giai đoạn 1996 - 2010
có ý nghĩa tham chiếu cho quá trình tiếp tục thực hiện chính sách dân tộc ở vùng
Đông Bắc trong giai đoạn hiện nay.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy về
chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam ở các trường đại học, cao đẳng.
6. Ý nghĩa của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ hơn vai trò lãnh đạo của
Đảng; đồng thời, khẳng định quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng tại
vùng miền núi Đông Bắc Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước có ý nghĩa quan trọng trong việc tổng kết một số kinh nghiệm lý
luận - thực tiễn 30 năm đổi mới trên vấn đề dân tộc được xem xét ở cấp độ vùng
và địa phương.
Luận án cung cấp thêm luận cứ khoa học và gợi mở một số suy nghĩ có thể
vận dụng vào thực tiễn thực hiện chính sách dân tộc ở vùng Đông Bắc trong giai
đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục, luận án được kết cấu gồm 3 chương, 6 tiết.
6
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến luận án
Nhóm 1: Các công trình nghiên cứu về dân tộc và chính sách dân tộc ở
miền núi nói chung
Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam của Đặng Nghiêm Vạn, Nxb Đại học
Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2003; Bảo đảm bình đẳng và tăng cường hợp
tác giữa các dân tộc trong phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay của
Hoàng Chí Bảo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009; Phan Hữu Dật với Mấy
vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay
(Sách tham khảo), Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2001; Nguyễn Quốc Phẩm, Trịnh
Quốc Tuấn với Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 1999; Phát triển nguồn nhân lực ở vùng
dân tộc thiểu số Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước (Sách chuyên khảo) của tác giả Nguyễn Đăng Thành, Nxb Chính trị
Quốc gia - Sự thật, HN, 2012.
Nhóm 2: Các công trình nghiên cứu về chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước ta
Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá (Viện nghiên cứu chính sách dân tộc và miền núi,
Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2002); Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở
nước ta hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, HN, 2006 của Phan Xuân Sơn - Lưu Văn
Quảng (Đồng chủ biên); Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở miền Trung,
Tây Nguyên trong thời kỳ đổi mới của Trương Minh Dục (Nxb Chính trị Quốc gia,
HN, 2009); Tác giả Đoàn Minh Huấn trong bài viết Những xu hướng tác động đến
quản lý phát triển xã hội các vùng dân tộc thiểu số nước ta, Tạp chí Lý luận Chính
trị số 8-2010; Luận án tiến sỹ Lịch sử của Nguyễn Thanh Thuỷ: Quá trình thực
hiện chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đồng bào Khmer ở
đồng bằng sông Cửu Long.
Nhóm 3: Các công trình, đề tài nghiên cứu về vấn đề dân tộc, chính sách
dân tộc ở các tỉnh trung du miền núi phía Bắc
Đàm Thị Uyên: Văn hoá dân tộc Nùng ở Cao Bằng (2011), Lô Quốc Toản
(2010): Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc
nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Phát triển bền vững văn hoá
tộc người trong quá trình hội nhập ở vùng Đông Bắc do Vương Xuân Tình Trần Hồng Hạnh (Đồng chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, HN, 2012; Di dân tự
do của đồng bào Tày, Nùng, H’mông, Dao từ Cao Bằng, Lạng Sơn vào ĐắkLắk
(1986 - 2000) của Nguyễn Bá Thuỷ (Nxb Lao động - Xã hội, HN, 2004) và Di cư
của người Hmông từ đổi mới đến nay của Đậu Tuấn Nam (Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2013).
7
Nhóm 4: Các nghiên cứu của người nước ngoài đề cập đến chính sách
dân tộc của Việt Nam nói chung và chính sách dân tộc đối với vùng Đông Bắc
nước ta nói riêng
Luận án tiến sĩ của Moto F: Chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt
Nam (Luận án Tiến sĩ) (1989), Nhóm tác giả: Donovan D., Rambo T.A, Fox J., Lê
Trọng Cúc, Trần Đức Viên với công trình ‘’Những xu hướng phát triển ở vùng núi
phía Bắc Việt Nam’’, Tập 1: Tổng quan và phân tích, Tập 2: Các nghiên cứu mẫu
và bài học từ châu Á. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; “Chính sách dân tộc
của Việt Nam và ảnh hưởng của chính sách đó đến khu vực dân tộc biên giới
Trung Quốc” của Chu Kiện - Lưu Đông Nhiệm (Theo tạp chí Nghiên cứu vấn đề
dân tộc, số 1, 2005); “Nghiên cứu so sánh chính sách dân tộc của Việt Nam và
Trung Quốc thời hiện đại” (2007) của Đằng Thành Đạt.
Nghiên cứu của các tác giả ở trong và ngoài nước đã cung cấp một số tư
liệu, thông tin, tri thức và cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu. Chúng là nguồn tư
liệu quý giá được kế thừa khi triển khai nghiên cứu luận án này. Tuy vậy, đến nay
vẫn chưa có công trình chuyên biệt nghiên cứu chính sách dân tộc và thực hiện
chính sách dân tộc ở vùng Đông Bắc. Mỗi công trình do xuất phát từ mục tiêu,
phương pháp tiếp cận và giới hạn phạm vi của nó nên chỉ giải quyết những nội
dung nhất định.
2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Một là: Vẫn chưa có một tổng kết đầy đủ, toàn diện về các bước phát triển
tư duy nhận thức của Đảng về thực hiện chính sách dân tộc ở cấp vùng, nhất là các
tư tưởng về "cùng phát triển" hay phát triển không loại trừ giữa các tộc người,…
Hai là: Các nghiên cứu chính sách dân tộc của Đảng dưới góc độ lịch đại
còn rất ít, nếu có cũng chỉ rất khái lược, không đủ cắt nghĩa bối cảnh phát sinh,
định hình, định dạng, phát triển và kết thúc chu trình của một chính sách...
Ba là: Trong điều kiện một đảng cầm quyền thì các quan điểm, chủ trương,
định hướng lớn của Đảng là một bộ phận cấu thành của chính sách công (theo
nghĩa rộng) để nhà nước thể chế hóa thành chính sách can thiệp (chính sách công
theo nghĩa hẹp). Điều đó dẫn tới phân tách một cách máy móc đường lối, chủ
trương của Đảng với chính sách công của Nhà nước, không nhận diện được biến
đổi về quan niệm chính sách công của Đảng trong tiến trình đổi mới, không làm
rõ được vai trò, vị trí của Đảng trong các tiến trình chính sách cũng như không tìm
được giải pháp nâng cao chất lượng hoạch định chính sách dân tộc và tổ chức thực
hiện chính sách dân tộc từ phía bản thân đảng cầm quyền.
Bốn là: Các nghiên cứu chính sách dân tộc của Đảng và thực hiện chính
sách dân tộc của Đảng ở cấp vùng và cấp địa phương vẫn là điểm yếu căn bản. Vì
8
vậy, các nghiên cứu, tổng kết, đánh giá chính sách ở cấp vùng và địa phương là
vấn đề rất khó khăn đối với các nhà nghiên cứu, càng khó khăn hơn đối với các địa
phương Đông Bắc.
Năm là: Việc thực hiện luận án này nhằm góp phần khỏa lấp một số
“khoảng trống” mà các nghiên cứu trước đây không hoặc chưa đề cập về tổ chức
thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở vùng miền núi Đông Bắc Việt Nam.
Chương 1
QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO VÀ TỔ CHỨC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG Ở MỘT SỐ
TỈNH MIỀN NÚI ĐÔNG BẮC VIỆT NAM (TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2000)
1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và chính sách dân tộc của Đảng
đối với vùng miền núi Đông Bắc Việt Nam
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
“Dân tộc” theo Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: 1. Dân tộc hay
quốc gia dân tộc là một cộng đồng chính trị - xã hội được chỉ đạo bởi một nhà nước,
thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, ban đầu được hình thành do sự tập hợp của
nhiều bộ lạc hay liên minh bộ lạc, sau này của nhiều cộng đồng tộc người. 2. Dân
tộc còn đồng nghĩa với cộng đồng mang tính tộc người. Cộng đồng này có thể là
một bộ phận chủ thể hay thiểu số của một dân tộc sinh sống ở nhiều quốc gia dân
tộc khác nhau được liên kết với nhau bằng những đặc điểm ngôn ngữ, văn hoá và ý
thức tự giác tộc người.
“Dân tộc thiểu số” nước ta là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc
đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
“Vùng dân tộc thiểu số” là địa bàn có đông các dân tộc thiểu số cùng sinh sống
ổn định thành cộng đồng trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vấn đề dân tộc là vấn đề nổi lên cần giải quyết trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội giữa các dân tộc nhằm thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Chính sách dân tộc là hệ thống chủ trương, biện pháp của Đảng và Nhà nước,
trên cơ sở căn cứ vào đường lối chính trị và tình hình thực tiễn của đất nước, tác
động vào tất cả các lĩnh vực của các dân tộc thiểu số, các vùng dân tộc và có thể đối
với từng tộc người nhằm thực hiện quyền bình bẳng giữa các dân tộc về chính trị,
kinh tế, văn hoá, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc, làm cho các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng
phát triển giữa các dân tộc; đảm bảo sự thống nhất của quốc gia và dân tộc; giao
lưu, hội nhập quốc tế.
9
1.1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội
* Điều kiện địa lý tự nhiên
Vị trí địa lý: Diện tích tự nhiên của vùng là 29.100,6 km², nằm ở vị trí địa lý
khoảng từ 21º đến 23º24 vĩ Bắc; và 102º đến 108º kinh Đông. Là vùng có vị trí địa chính trị đặc biệt quan trọng, có vai trò xung yếu về an ninh - quốc phòng, có đường
biên giới giáp với Trung Quốc dài 970,8 km (gồm 4 tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn,
Cao Bằng, Hà Giang).
Về khí hậu, thủy văn: Miền núi Đông Bắc Việt Nam nằm trong vùng khí hậu
nhiệt đới, gió mùa; là vùng có nhiều sông, suối; thường có mưa nhiều vào mùa hè,
lượng mưa trung bình trong năm từ 1200 đến 1800 mm.
Về thổ nhưỡng: Đất feralit đỏ vàng chiếm tỷ lệ lớn về diện tích, thích hợp cho
việc trồng rừng và cây công nghiệp.
Về tài nguyên khoáng sản: Đông Bắc Việt Nam là vùng đa dạng về tài
nguyên (mỏ than, mỏ thiếc, mỏ đồng, mỏ apatit...) với trữ lượng tương đối lớn.
Về giao thông: Vùng Đông Bắc có hệ thống đường giao thông gồm: đường
bộ, đường sắt, đường thuỷ khá thuận tiện.
* Đặc điểm và hiện trạng kinh tế
Tình hình kinh tế - xã hội của vùng miền núi Đông Bắc đã có những bước
phát triển và đạt được một số thành tựu quan trọng: kinh tế tăng trưởng tương đối
cao và ổn định. Tuy nhiên, trong các tỉnh miền núi Đông Bắc, vẫn còn tỉnh có tỷ lệ
xã đặc biệt khó khăn rất cao: Cao Bằng: 82%, Hà Giang: 83,9%.
Xác định miền núi Đông Bắc có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, Đảng và
Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh
tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Do đó, các tỉnh miền núi
Đông Bắc, những năm 1991 - 1995, GDP tăng bình quân hàng năm từ 6 - 7% trở lên.
Đời sống nhân dân trong vùng ngày càng được cải thiện và nâng cao. Thu nhập
bình quân đầu người/tháng tăng từ 173,8 nghìn đồng năm 1996 lên 210 nghìn đồng
năm 1999 (tăng 6,3%).
* Đặc điểm dân cư và hiện trạng xã hội
Bốn tỉnh miền núi Đông Bắc có dân số 3.109.223 người, trong đó, dân tộc
thiểu số là 1.847.838 người, chiếm 59,43% dân số toàn vùng.
Đặc điểm về sự phân bố dân cư: Các dân tộc thiểu số ở đây cư trú theo hình
thái xen cài, không phân khu thành lãnh thổ tộc người.
Đặc điểm về ngôn ngữ dân tộc: Ngôn ngữ của tất cả các dân tộc ở vùng Đông
Bắc thuộc về hai ngữ hệ Nam Á và Hán Tạng.
10
* Đặc điểm và hiện trạng văn hoá, giáo dục, y tế
Trong 10 năm (1986 - 1996), sự nghiệp giáo dục đào tạo của vùng đã có
nhiều tiến bộ; Công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng được quan tâm; Đời
sống văn hoá tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số ngày càng được nâng lên.
* Đặc điểm địa - chính trị - quốc phòng
Tại vùng Đông Bắc, bốn tỉnh có đường biên giới giáp với nước Cộng hoà
dân chủ nhân dân Trung Hoa, gồm cả biên giới trên đất liền, biên giới trên
không, biên giới trên biển và biên giới dưới lòng đất, đó là: Quảng Ninh, Lạng
Sơn, Cao Bằng, Hà Giang. Vì vậy, đảng bộ và chính quyền các địa phương đã có
sự chỉ đạo sát sao nhằm giữ vững trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chủ quyền, an
ninh biên giới.
1.1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân tộc và chính sách
đối với các dân tộc vùng Đông Bắc trong những năm đầu đổi mới
Thực hiện các nghị quyết, quyết định của Đảng và Nhà nước, đặc biệt Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), lần thứ VII (1991), Nghị quyết 22NQ/TW của Bộ Chính trị về Một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế xã hội miền núi và Quyết định 72-QĐ/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 13-31990 về Một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế- xã hội miền núi,
kinh tế, xã hội vùng dân tộc, miền núi Đông Bắc Việt Nam đã có bước phát triển
vững chắc; bộ mặt vùng dân tộc, miền núi có nhiều thay đổi; nền kinh tế tự nhiên,
tự cung, tự cấp từng bước chuyển sang nền kinh tế hàng hoá; đời sống văn hoá của
đồng bào được nâng cao; các giá trị văn hoá của đồng bào các dân tộc được bảo tồn
và phát huy; an ninh, chính trị ổn định; đời sống vật chất và tinh thần của người dân
từng bước được cải thiện.
1.1.4. Những chuyển biến tư duy nhận thức của Đảng về thực hiện chính
sách dân tộc ở một số tỉnh miền núi Đông Bắc
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, về vấn đề dân tộc,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6/1996) của Đảng khẳng định: Bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Đồng thời, Đại hội đã phát triển thêm 3 vấn đề về phương diện lý
luận, tạo cơ sở cho đổi mới nội dung và tiến trình chính sách. Trong phương hướng,
nhiệm vụ của 5 năm (1996 - 2000) đã xác định rõ mục tiêu, biện pháp phát triển các
vùng lãnh thổ, các chương trình trình kinh tế - xã hội. Điều đó giúp cho các vùng
lãnh thổ đều có cơ hội phát triển trên cơ sở khai thác thế mạnh và tiềm năng vùng
và thúc đẩy hợp tác mang tính liên vùng trong quá trình liên hợp hóa lãnh thổ. Bên
11
cạnh đó, Đại hội VIII còn xác định Chương trình phát triển kinh tế - xã hội miền núi
và vùng đồng bào dân tộc.
1.2. Tổ chức thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở một số tỉnh miền
núi Đông Bắc
1.2.1. Phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện đời sống vật chất
đồng bào các dân tộc thiểu số
Phát triển kinh tế: cơ cấu kinh tế miền núi Đông Bắc có sự chuyển biến tích
cực theo hướng tăng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp - dịch vụ, giảm dần tỷ trọng
nông, lâm, ngư nghiệp
Về xây dựng cơ sở hạ tầng: Được sự quan tâm, đầu tư của Nhà nước qua các
chương trình dự án với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, Nhà nước
tạo công trình, nhân dân đóng góp công sức và có việc làm, cơ sở hạ tầng nông thôn
vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã được xây dựng tăng nhanh.
1.2.2. Phát triển văn hoá, giáo dục, y tế
Về văn hoá: Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII, Chỉ thị 39CT/TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong những năm 1996-2000, công tác sưu tầm,
bảo tồn, giới thiệu vốn văn hoá, nghệ thuật dân gian được các cấp, các ngành và
nhân dân các tỉnh miền núi Đông Bắc quan tâm.
Về giáo dục - đào tạo và công tác cán bộ: Tháng 12 năm 1996, tại Hội nghị
lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Khoá VIII đã ra Nghị quyết về Định hướng
chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000. Thực hiện chủ trương của Đảng, Đảng bộ,
chính quyền và ngành giáo dục các địa phương khu vực miền núi Đông Bắc đã tập
trung phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo.
Về y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân: Trong những năm 1996 - 2000, công
tác khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân các tỉnh miền núi
Đông Bắc có bước tiến bộ nhất định. Các cơ sở khám chữa bệnh được củng cố một
bước về cơ sở vật chất, trang thiết bị khám, chữa bệnh.
1.2.3. Thực hiện chính sách xoá đói, giảm nghèo
Để hoàn thành mục tiêu xoá đói giảm nghèo, các tỉnh miền núi Đông Bắc đã
đề ra các giải pháp: hỗ trợ vốn trực tiếp cho hộ đói nghèo; lồng ghép các chương
trình kinh tế - xã hội.
Cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, những năm 1996 2000, các tỉnh miền núi Đông Bắc đã nỗ lực trong công tác xoá đói, giảm nghèo và
đạt được một số chuyển biến tích cực.
12
Song song với chương trình xoá đói giảm nghèo, cuộc vận động định canh
định cư tại vùng miền núi Đông Bắc cũng được thực hiện có hiệu quả.
1.2.4. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân
vững mạnh
Ngày 23 tháng 9 năm 1994, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị số
45-CT/TW về một số công tác của người Mông để đấu tranh với những luận điệu
xuyên tạc của các thế lực thù địch. Các Đảng bộ địa phương đã cụ thể hoá Chỉ thị số
45-CT/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng góp phần thúc đẩy giải quyết tốt
công tác ở vùng dân tộc Mông.
Trước tình hình biên giới có nhiều diễn biến phức tạp, hoạt động của các loại
tội phạm có chiều hướng gia tăng, đời sống mọi mặt của nhân dân biên giới thiếu
thốn, cơ sở hạ tầng thấp kém, các cấp uỷ Đảng đã tăng cường chỉ đạo, chính quyền
các địa phương đã phát huy được vai trò nòng cốt của bộ đội biên phòng, dân quân
các xã biên giới, lực lượng dự bị động viên và phong trào của quần chúng nhân dân
trong quản lý bảo vệ biên giới.
Tiểu kết chương 1
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới,
diện mạo miền núi Đông Bắc nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đó là
kết quả của quá trình đổi mới tư duy về hoạch định chính sách dân tộc của
Đảng với gắn kết giữa phát triển tộc người với phát triển vùng. Thông qua việc
thực hiện các chương trình, dự án kinh tế - xã hội miền núi, đời sống của đồng
bào các dân tộc thiểu số đã được nâng lên, kết cấu hạ tầng được đầu tư, xây
mới; văn hoá, giáo dục, y tế được quan tâm; an ninh quốc phòng được giữ
vững. Những kết quả đạt được một mặt thể hiện bản chất của Đảng, Nhà nước
và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng tại khu
vực miền núi Đông Bắc vẫn còn một số hạn chế, khó khăn, như thực hiện các
chính sách xoá đói giảm nghèo, thực hiện chính sách phát triển nguồn cán bộ dân
tộc thiểu số, việc giải quyết các vấn đề dân tộc và tôn giáo tại địa bàn.
Đây là một thách thức đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân các dân tộc miền
núi Đông Bắc, yêu cầu cần phải có một hệ thống các giải pháp cụ thể, sát hợp
với khu vực và từng dân tộc trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh
quốc phòng.
13
Chương 2
CHỦ TRƯƠNG VÀ QUÁ TRÌNH TỔ CHỨC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG Ở
MỘT SỐ TỈNH MIỀN NÚI ĐÔNG BẮC VIỆT NAM
(TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010)
2.1. Chính sách dân tộc của Đảng trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở vùng miền núi Đông Bắc
2.1.1. Cơ hội và thách thức đối với việc thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng ở vùng miền núi Đông Bắc Việt Nam trong thập niên đầu thế kỷ XXI
* Cơ hội
Hòa bình, hợp tác trở thành xu hướng lớn trong quan hệ khu vực và quốc tế
tạo điều kiện cho các tỉnh biên giới có cơ hội thúc đẩy giao thương kinh tế, giao lưu
văn hóa, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cách mạng khoa học và công nghệ và việc ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ đã góp phần quan trọng đảm bảo thực hiện thắng lợi chính sách dân tộc
của Đảng.
Đất nước sau 15 năm đổi mới đã có bước phát triển vượt bậc, nhờ đó có điều
kiện giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa thúc đẩy tăng cường kinh tế với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, trong đó thực hiện chính sách dân tộc là một bộ phận
cấu thành của mục tiêu phát triển.
Vùng Đông Bắc sau 15 năm đổi mới, 10 năm bình thường hóa quan hệ Việt Trung, 5 năm thực hiện đường lối đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đã đạt
được những thành tựu vượt bậc trên nhiều lĩnh vực để vừa có thể hấp thu tốt hơn
nguồn lực ưu tiên đầu tư của nhà nước, vừa có tích lũy từ nội bộ để tái đầu tư cho
phát triển.
* Thách thức
Sự trỗi dậy của Trung Quốc luôn mang tính hai mặt, bên cạnh tạo động lực
thúc đẩy kinh tế toàn cầu, khu vực, thì cũng tạo ra những áp lực đối với các nước
giáng liềng, đặc biệt các nước có điều kiện bất đối xứng về quyền lực, trong đó
vùng biên giới luôn chịu áp lực trực tiếp.
Các thế lực thù địch ra sức lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá,
gây chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, cổ vũ cho chủ nghĩa ly khai.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, khoảng cách phát triển giữa các vùng, các
tộc người tiếp tục bị đẩy ra xa thêm, bất bình đẳng tộc người và bất công xã hội
ngày càng hiện hữu rõ rệt.
14
2.1.2. Chủ trương mới về chính sách dân tộc tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) đã tổng kết 5 năm
thực hiện đường lối Đại hội VIII, đồng thời bổ sung trên một số nhận thức mới về
vấn đề dân tộc: Nếu như văn kiện Đảng trước đây thường nhấn mạnh đến yêu cầu
rút ngắn khoảng cách phát triển giữa miền núi với miền xuôi, giữa dân tộc đa số với
dân tộc thiểu số, thì Đại hội IX đã nhìn trên quan điểm biện chứng hơn khi đưa ra
luận điểm "cùng phát triển"; Gắn phát triển tộc người với phát triển vùng (vùng
miền núi, vùng căn cứ kháng chiến, vùng khó khăn, vùng biên giới) là một quan
điểm mới; Xác định vấn đề con người - nguồn nhân lực là một trong những chính
sách rất quan trọng đảm bảo cho phát triển bền vững, bao gồm cả nguồn nhân lực
được đào tạo mới và phát huy "người tiêu biểu, có uy tín" trong các dân tộc; Nhấn
mạnh đến yêu cầu xây dựng đúng đắn ý thức hệ dân tộc trên hai mặt: chống tư
tưởng dân tộc lớn và chống dân tộc tự ti, hẹp hòi.
Đại hội IX đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 2010) và Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2006 đối với
vùng miền núi phía Bắc, trong đó có vùng Đông Bắc.
2.1.3. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa
IX (2003) và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) của Đảng về chính
sách dân tộc
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá IX khẳng
định: “Vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc, công tác dân tộc và tôn giáo đều là
những vấn đề chính trị lớn, có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của
nước ta…”. Hội nghị đã chỉ ra 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo công tác dân tộc trong
thời kỳ mới; đồng thời, đề ra một số phương hướng, nhiệm vụ.
Cụ thể hóa đường lối Đại hội IX của Đảng, ngày 01 tháng 07 năm 2004,
Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 37/NQ-TW Về phương hướng phát triển
kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc
Bộ đến 2010.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006) tiếp tục khẳng định
và phát triển những quan điểm, tư tưởng đã định hình về chính sách dân tộc; Đại
hội X đã đề ra Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006 - 2010) chỉ
rõ định hướng phát triển vùng miền núi phía Bắc.
Các quan điểm, chủ trương về chính sách dân tộc trên đây là cơ sở để nhà
nước thể chế hóa thành chính sách can thiệp cụ thể và hệ thống chính trị các địa
phương tổ chức thực hiện.
15
2.2. Tổ chức thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở một số tỉnh miền
núi Đông Bắc
2.2.1. Thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về chính sách
dân tộc thành chương trình, dự án hỗ trợ và đầu tư phát triển vùng miền núi
Đông Bắc
Trong hệ thống các văn bản pháp luật của Nhà nước, chính sách dân tộc
được thể chế hoá trong Hiến pháp, các đạo luật, đặc biệt là nghị quyết, nghị định,
quyết định của Chính phủ. Trong đó, đáng chú ý là thể chế hóa thành các chương
trình hỗ trợ phát triển hoặc đầu tư phát triển. Trọng điểm từ năm 2001 đến 2010 là
các chương trình sau đây:
Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân
tộc thiểu số (còn gọi là Chương trình 135); Ngày 07-12-2001, Chính phủ ban hành
Quyết định số 186/2001/QĐ-TTg Về việc phát triển kinh tế - xã hội 6 tỉnh đặc biệt
khó khăn miền núi phía Bắc, thời kỳ 2001- 2005; Ngày 05-02-2008, Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 27/2008/QĐ-TTg Về việc ban hành một số cơ
chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với các tỉnh vùng Trung du và
miền núi Bắc Bộ đến năm 2010; Ngày 27-12-2008, Chính phủ ra Nghị quyết số
30a/2008/NQ-CP về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với
61 huyện nghèo v.v..
Các nỗ lực thể chế hóa trên đây của Nhà nước, đặc biệt là Chính phủ, là cơ
sở để từng bước hiện thực hóa chính sách dân tộc của Đảng ở vùng Đông Bắc.
2.2.2. Phát triển kinh tế, cải thiện đời sống các dân tộc thiểu số
* Phát triển kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa
Thế mạnh của miền núi Đông Bắc là nông - lâm nghiệp và thương mại, dịch
vụ du lịch, kinh tế cửa khẩu được quan tâm trong các chiến lược và chính sách
phát triển.
* Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu gắn với chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, tổ chức lại xã hội ở vùng Đông Bắc
Đến năm 2010, kết thúc giai đoạn II của chương trình 135, với sự nỗ lực của
các địa phương, khu vực miền núi Đông Bắc có 6 xã đã hoàn thành chương trình
135, đạt 1,92%.
2.2.3. Đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm
Để thực hiện quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân về xoá đói giảm nghèo,
Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 02/1998/QĐ-TTg ngày 06-01-1998 về
việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Bắc giai
16
đoạn từ nay đến năm 2010; phê duyệt Chương trình Mục tiêu Quốc gia về xoá đói
giảm nghèo, đề ra mục tiêu cụ thể đến năm 2010.
Trên cơ sở mục tiêu chung, Đảng bộ các địa phương đã ra các Nghị quyết
nhằm tăng cường sự chỉ đạo đối với công tác xoá đói giảm nghèo.
Cùng với sự phát triển toàn diện về kinh tế- xã hội của các địa phương,
chương trình, dự án giảm nghèo, giải quyết việc làm giai đoạn 2001 - 2010 được
tổ chức thực hiện có hiệu quả. Toàn vùng có 68,1% số hộ dân tộc thiểu số được
hưởng lợi từ dự án, chính sách giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo chung của toàn vùng
đã giảm từ 28,5% năm 2002 xuống còn 19,03% năm 2010.
Thực hiện các chính sách vay vốn ưu đãi, trợ giá, trợ cước và hỗ trợ trực
tiếp cho người dân
Trong giai đoạn 2006 - 2010, ngày 07-8-2009, Thủ tướng Chính phủ ra
Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân
thuộc hộ nghèo ở vùng khó khăn. Đây là chính sách chuyển đổi từ trợ giá, trợ
cước vận chuyển sang hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo ở vùng
khó khăn.
Ngày 05-03-2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
32/2007/QĐ-TTg về việc cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân
tộc thiểu số đặc biệt khó khăn. Trong giai đoạn 2007 - 2010, tổng số hộ dân tộc
thiểu số đặc biệt khó khăn thuộc diện được thụ hưởng chính sách được vay vốn
phát triển sản xuất là 11.669 hộ với tổng số vốn 57.222 triệu đồng.
Chính sách hỗ trợ nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số.
Chương trình hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ
đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn (chương trình 134)
Cụ thể hoá chủ trương của Đảng, ngày 20-7-2004, Thủ tướng Chính phủ ra
Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở,
nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện chủ trương
trên, từ năm 2004 đến năm 2008, 2477 hộ dân được hỗ trợ đất ở, 38.391 hộ dân
được hỗ trợ nhà ở, 20.136 hộ dân được hỗ trợ đất sản xuất, 23.958 hộ dân được hỗ
trợ xây bể nước hoặc mua téc nước, 862 công trình nước tập trung được xây dựng.
Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo
(Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ ngày 27 tháng 12 năm 2008)
Miền núi Đông Bắc có 2 tỉnh là Cao Bằng, Hà Giang với 11 huyện có tỷ lệ
hộ nghèo trên 50% được thụ hưởng Chương trình 30a.
17
Nghị quyết 30a ra đời, các cấp, các ngành từ tỉnh đến huyện của các địa
phương đã tập trung triển khai các bước tiến hành theo đúng chỉ đạo của Trung
ương. Tính đến năm 2011, còn 6 huyện có số hộ nghèo trên 50% là Mèo Vạc,
Đồng Văn, Xí Mần (Hà Giang), Bảo Lâm, Bảo Lạc, Thông Nông (Cao Bằng).
Đẩy mạnh công tác quy hoạch, bố trí dân cư
Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 24-8-2006, Thủ tướng Chính phủ ra
Quyết định số 193/QĐ-TTg về phê duyệt chương trình bố trí dân cư các vùng:
thiên tai, đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, di cư tự do, xung yếu và rất xung
yếu của rừng phòng hộ, khu bảo vệ nghiêm ngặt của rừng đặc dụng giai đoạn
2006 - 2010 và định hướng đến năm 2015. Tiếp đó, ngày 05-03-2007, Thủ tướng
Chính phủ ra Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ di dân thực
hiện định canh định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2007 - 2010.
Thực hiện Quyết định 33/2007/QĐ-TTg, các địa phương đã tiến hành xây dựng
các Dự án nhằm ổn định đời sống dân cư.
2.2.4. Nâng cao dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc,
chăm sóc sức khoẻ nhân dân
Phát triển giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí
Số trường ở 4 tỉnh miền núi Đông Bắc tăng từ 1.598 trường phổ thông với
26.472 lớp năm 2006, đến năm 2010 đã tăng lên 1744 trường phổ thông với
25.309 lớp học; Cùng với hệ thống các trường công lập là hệ thống mạng lưới các
trường dân tộc nội trú được phát triển. Bên cạnh đó, mô hình trường nội trú dân
nuôi cũng được hình thành và phát triển ở các địa phương.
Công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào các dân tộc thiểu số:
Thực hiện Quyết định 139/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
chính sách chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo và người dân tộc thiểu số, các địa
phương đã tiến hành cấp sổ khám, chữa bệnh và thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho
các đối tượng nghèo và người dân tộc thiểu số và nhân dân các xã 135. Công tác
tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện vệ sinh, phòng chống dịch bệnh được
đẩy mạnh.
Công tác bảo tồn và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số miền núi
Đông Bắc
Thực hiện các nghị quyết của Đảng, vấn đề bảo tồn và phát huy những giá
trị văn hoá trong các lễ hội dân gian của đồng bào các dân tộc thiểu số Đông Bắc
được đặt ra nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của các địa phương.
Về phương diện ngôn ngữ dân tộc: bên cạnh việc đẩy mạnh tuyên truyền
ý thức bảo tồn, lưu giữ, phát triển ngôn ngữ dân tộc, các địa phương đã có các
18
biện pháp như: Dạy song ngữ (tiếng Việt và tiếng dân tộc địa phương); đài phát
thanh, truyền hình các tỉnh phát các chương trình bằng các thứ tiếng Tày, Nùng,
Dao, Mông…
Về chính sách hưởng thụ văn hoá: công tác văn hoá thông tin được tăng
cường. Bên cạnh đó, thư viện được xây dựng và trang bị cơ sở vật chất để hoạt
động. Đến năm 2010, trên toàn vùng miền núi Đông Bắc có 52 thư viện, với 747
nghìn đầu sách.
2.2.5. Xây dựng và củng cố hệ thống chính trị tại cơ sở, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số
Sau khi Nghị quyết số 17-NQ/TW về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ
thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn của Ban Chấp hành Trung ương khóa
IX ra đời, Đảng bộ, chính quyền các địa phương vùng Đông Bắc đã tổ chức các
hội nghị để phổ biến nội dung nghị quyết. Vì vậy, hệ thống chính trị cấp xã vùng
đồng bào dân tộc thiểu số miền núi từng bước được kiện toàn về tổ chức và bước
đầu đạt hiệu quả trong hoạt động.
Công tác cử tuyển học sinh người dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa cũng
luôn được Nhà nước quan tâm. Song song với công tác tạo nguồn cán bộ, các địa
phương luôn tạo điều kiện để đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên đối với đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số.
2.2.6. Xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân
vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Một trong những thủ đoạn của các thế lực thù địch trong chiến lược “diễn
biến hoà bình” đó chính là truyền đạo trái phép bằng mọi con đường vào vùng
đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta. Trước tình hình đó, các địa phương đã chỉ
đạo các cấp, các ngành phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, thực hiện bám dân, bám địa
bàn trọng điểm, nắm chắc tình hình cơ sở, thực hiện “ba cùng” với đồng bào. Tổ
chức tập huấn, tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân hiểu về quan điểm,
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về tín
ngưỡng, tôn giáo và đấu tranh chống các hoạt động sai trái...
Công tác phòng chống đấu tranh chống các loại tội phạm, bảo vệ chủ quyền
an ninh biên giới được đẩy mạnh và thu được nhiều kết quả tích cực.
Tiểu kết chương 2
Nhờ các chính sách hỗ trợ, đầu tư của Trung ương và địa phương cùng sự
nỗ lực phấn đấu của bà con các dân tộc nên vùng đồng bào dân tộc thiểu số có
nhiều đổi thay rõ nét.
- Xem thêm -