Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cấp trung ương ở cộng...

Tài liệu Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cấp trung ương ở cộng hòa dân chủ nhân dân lào hiện nay

.PDF
181
1070
120

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LĂM PHUN ĐUÔN SỤ VĂN PHô N÷ THAM GIA L·NH §¹O, QU¶N Lý TRONG HÖ THèNG CHÝNH TRÞ CÊP TRUNG ¦¥NG ë CéNG HßA D¢N CHñ NH¢N D¢N LµO HIÖN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA Xà HỘI KHOA HỌC HÀ NỘI - 2017 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LĂM PHUN ĐUÔN SỤ VĂN PHô N÷ THAM GIA L·NH §¹O, QU¶N Lý TRONG HÖ THèNG CHÝNH TRÞ CÊP TRUNG ¦¥NG ë CéNG HßA D¢N CHñ NH¢N D¢N LµO HIÖN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA Xà HỘI KHOA HỌC Mã số: 62 22 03 08 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐỖ THỊ THẠCH HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Lăm Phun Đuôn Sụ Văn MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận án 1.2. Những giá trị của các công trình nghiên cứu và định hướng nghiên cứu của luận án Chương 2: PHỤ NỮ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP TRUNG ƯƠNG - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG 2.1. Lãnh đạo, quản lý và phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cấp trung ương 2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Đảng và Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào về phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý 2.3. Các yếu tố tác động đến phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cấp trung ương ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay Chương 3: PHỤ NỮ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP TRUNG ƯƠNG Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 3.1. Thực trạng phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cấp trung ương ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay 3.2. Một số vấn đề đặt ra đối với phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cấp trung ương ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG PHỤ NỮ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP TRUNG ƯƠNG Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY 4.1. Quan điểm cơ bản nhằm tăng cường phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cấp trung ương ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay 4.2. Một số giải pháp chủ yếu và kiến nghị nhằm tăng cường phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cấp trung ương ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay KẾT LUẬN DANH MỤC LỤC CÔNG TRÌNH TÁC GIẢ Đà CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 7 7 31 35 35 48 60 69 69 92 108 108 118 148 151 152 163 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN BCHTW : Ban Chấp hành Trung ương BCT : Bộ Chính trị CHDCND : Cộng hòa Dân chủ Nhân dân CNXH : Chủ nghĩa xã hội GDP : Tổng sản phẩm quốc nội HLHPN : Hội Liên hiệp Phụ nữ HTCT : Hệ thống chính trị LĐ, QL : Lãnh đạo, quản lý NDCM : Nhân dân Cách mạng UNDP : United Nations Development Programme UNIFEM : United Nations Development Fun Women XHCN : Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN Trang Bảng 2.1: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người 62 Bảng 3.1: Phụ nữ tham gia trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào 70 Bảng 3.2: Phụ nữ tham gia trong đại biểu Quốc hội 74 Bảng 3.3: Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quả lý cấp Vụ trưởng ở các bộ 76 Bảng 3.4: Trình độ chuyên môn của phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong các ban đảng 83 Bảng 3.5: Trình độ chuyên môn của nữ đại biểu Quốc hội khóa VIII (nhiệm kỳ 2016-2021) 84 Bảng 3.6: Trình độ chuyên môn của phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong các bộ của Chính phủ 86 Bảng 3.7: Trình độ chuyên môn của phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội cấp trung ương 87 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong lịch sử các nền chính trị từ xưa đến nay, phụ nữ nói chung ít có điều kiện và cơ hội tham gia lãnh đạo, quản lý đất nước. Tuy nhiên, trong lịch sử cũng đã xuất hiện những phụ nữ vĩ đại, xuất chúng như: Nữ hoàng Cleopat (Ai Cập), Nữ hoàng Victoria (Anh), Võ Tắc Thiên, Từ Hy Thái hậu (Trung Quốc), Hai Bà Trưng, Nguyên phi Ỷ Lan (Việt Nam), v.v... Những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, với tư duy chính trị mới (chính trị bình đẳng giới) trên chính trường quốc tế đã xuất hiện những nữ chính khách sắc sảo, tài ba, nắm giữ những cương vị quan trọng của quốc gia như: Indira Gandhi (nguyên chủ tịch Đảng Quốc đại Ấn Độ), Margaret Thatcher (Nguyên thủ tướng Anh), Ngô Nghi (Phó thủ tướng Quốc vụ viện kiêm Bộ trưởng Bộ Y tế Trung Quốc), Megawati Sukarnoputi (Nguyên Tổng thống Inđônêxia), Angela Dorther Merkel (Thủ tướng đương nhiệm của Đức), Jinh Lắc Xin Nạ Vắt (Nguyên Thủ tướng Thái Lan), Nguyễn Thị Kim Ngân (Chủ tịch Quốc hội Việt Nam), Pa Ny Ya Tho Tú (Chủ tịch Quốc hội Lào),… Phong trào giải phóng phụ nữ cũng như sự tham gia vào đời sống chính trị của phụ nữ phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ XIX đấu tranh đòi quyền bình đẳng giới, bao gồm bình đẳng về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa nhằm hướng tới mục tiêu: phụ nữ và nam giới cùng được hưởng các quyền, đồng thời chia sẻ lợi ích, trách nhiệm và hưởng thụ các giá trị chân, thiện, mỹ. Ngày nay, vấn đề giải phóng phụ nữ, tăng cường sự tham gia chính trị của phụ nữ đã và đang gắn liền với vấn đề bình đẳng giới và được thực hiện bằng hành động thực tiễn chứ không chỉ dừng lại ở những khái niệm, ý tưởng trừu tượng hay những tuyên bố pháp lý. Nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng người Pháp, S.Phurie (XIX) cho rằng: Giải phóng phụ nữ là thước đo trình độ phát triển của xã hội. Tư tưởng này đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin tiếp tục phát triển lên trình độ mới trong lý luận cũng như trong chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) 2 trên thực tế. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:… Nếu không giải phóng phụ nữ thì xây dựng CNXH mới một nửa. Ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, từ khi Đảng Nhân dân Cách mạng (NDCM) Lào được thành lập, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến công tác phụ nữ, vấn đề bình đẳng giới, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý (LĐ, QL) đất nước, quản lý xã hội. Điều đó được khẳng định và thể hiện nhất quán trong các cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt, trong giai đoạn thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng và Nhà nước nhấn mạnh đến việc thực hiện quyền bình đẳng giới, chú trọng công tác cán bộ nữ, coi trọng tăng tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; nâng cao trình độ học vấn cho phụ nữ là tạo điều kiện quan trọng để thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ cho phụ nữ, phát huy vai trò và nâng cao địa vị cho phụ nữ. Đại hội lần thứ IV (1986) của Đảng NDCM Lào đã chỉ rõ: Đảng và Chính phủ cố gắng tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc giải phóng phụ nữ một cách thật sự. Mặt khác, Hội Liên hiệp Phụ nữ (HLHPN) có nhiệm vụ giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nữ, vận động, tổ chức, tập hợp các tầng lớp phụ nữ Lào, khắc phục tư tưởng tự ti, ỷ lại, tính thụ động trong phấn đấu vươn lên của phụ nữ, làm cho họ tích cực tham gia vào phong trào thi đua từ việc xây dựng gia đình văn hóa mới đến việc tham gia quản lý kinh tế - xã hội [83, tr.142]. Nhờ đó, ngày càng có nhiều phụ nữ trở thành những người LĐ, QL năng động và giữ những chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị (HTCT), nhất là HTCT cấp trung ương, cấp cao nhất cả về quyền lực chính trị, cả về trình độ tổ chức, có vai trò lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành quản lý toàn bộ các hoạt động của đất nước. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn tồn tại khoảng cách khá lớn về sự tham gia LĐ, QL giữa nam và nữ ở tất cả các cấp trong HTCT, trước hết là ở cấp trung ương. Tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các vị trí ra quyết định vẫn còn hạn chế nhất định cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay, phụ nữ Lào tham gia vào Bộ Chính trị (BCT) là 9,1% (nam: 90,9%); trong số các Ủy viên Ban Chấp hành 3 Trung ương (BCHTW) Đảng, nữ chỉ chiếm 13,0% (nam: 87,0%); ở cấp Bộ trưởng và tương đương, nữ chiếm 12,5% (nam: 87,5%, v.v.. [125, tr.34]. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, trong đó có việc nhận thức về giới và bình đẳng giới trong HTCT chưa đầy đủ và sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn; cơ chế, chính sách tạo nguồn, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ nữ chưa có tính chiến lược lâu dài, thiếu tính đột phá. Việc thực hiện chính sách, quy hoạch công tác cán bộ nữ chưa hiệu quả. Định kiến giới, thiếu tin tưởng vào năng lực LĐ, QL của phụ nữ còn nặng nề. Sự tự ti, an phận cùng với gánh nặng công việc gia đình mà người phụ nữ phải đảm nhận càng làm trầm trọng thêm khoảng cách giới trong lĩnh vực LĐ, QL hiện nay. Hạn chế phụ nữ tham gia LĐ, QL nhất là ở cấp cao. Đây là rào cản lớn không chỉ ngăn cản sự tiến bộ của một nửa nhân loại, mà còn cản trở sự phát triển bền vững của xã hội, ảnh hưởng không chỉ đến phụ nữ mà còn đến cộng đồng, xã hội. Vì như vậy, các chính sách vĩ mô ra đời thiếu lòng ghép giới, thiếu quan điểm giới, thiếu đóng góp của phụ nữ sẽ đem lại hiệu quả phát triển kém bền vững. Với những lý do phân tích trên, nghiên cứu về: Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cấp trung ương ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay vừa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, vừa mang tính thời sự cấp bách, nhằm góp phần thực hiện chủ trương, chính sách bình đẳng giới, nâng cao địa vị người phụ nữ để đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của đất nước. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn về phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương, luận án đề xuất một số quan điểm cơ bản, giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường số lượng, chất lượng phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND Lào đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế. 4 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trình bày tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận án. Hệ thống, khái quát cơ sở lý luận và các yếu tố tác động đến phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương. Phân tích thực trạng và một số vấn đề đặt ra đối với phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND Lào hiện nay. Đề xuất quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu và kiến nghị nhằm tăng cường phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND Lào hiện nay. 3. Đối tượng, giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án Đối tượng nghiên cứu của luận án là phụ nữ tham gia LĐ, QL từ cấp Phó Vụ trưởng và tương đương trở lên ở các cơ quan trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND Lào. 3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án Về lĩnh vực: Luận án nghiên cứu phụ nữ tham gia LĐ, QL: (1) Cơ quan đảng; (2) cơ quan nhà nước; (3) Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp trung ương. Về không gian: Luận án chỉ tập trung nghiên cứu phụ nữ tham gia LĐ, QL cấp trung ương ở CHDCND Lào. Về thời gian: đề tài tập trung nghiên cứu và sử dụng số liệu từ Đại hội lần thứ IX của Đảng NDCM Lào (2011) đến nay. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng NDCM Lào về phụ nữ tham gia LĐ, QL, phụ nữ và bình đẳng giới, có tham khảo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng 5 sản Việt Nam về vấn đề nghiên cứu. Luận án cũng sử dụng lý thuyết phân tích giới để nghiên cứu các vấn đề phụ nữ, bình đẳng giới. Cơ sở thực tiễn của luận án là thực trạng phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương ở Lào đã xác định ở phạm vi nghiên cứu. Luận án kế thừa các tài liệu, các công trình của các nhà nghiên cứu, hoạt động thực tiễn ở Lào, Việt Nam cũng như các tổ chức quốc tế liên quan đến đề tài. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành, cụ thể như kết hợp phương pháp lôgic với lịch sử, diễn giải và quy nạp, điều tra xã hội học, trong đó gồm: các cuộc phỏng vấn sau được kết hợp trong quá trình nghiên cứu, khảo sát, với đối tượng là cán bộ LĐ, QL của một số cơ quan cấp trung ương. Bảng hỏi: gồm 9 câu hỏi, với dung lượng mẫu là 300 phiếu, đối tượng hỏi là cán bộ LĐ, QL tại một số bộ, ban, mặt trận và tổ chức chính trị - xã hội đại diện trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND Lào (nhấn mạnh về cơ cấu giới tính, tuổi đời, trình độ chuyên môn, lý luận, lĩnh vực, chức vụ) [Phụ lục 3, Phần 1]. Mục đích điều tra xã hội học lấy thêm thông tin để kiểm chứng so với kết quả nghiên cứu khác về phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND Lào hiện nay. Cách thức tiến hành điều tra xã hội học là phát phiếu trực tiếp với các đối tượng trong phạm vi nghiên cứu, sau đó thu về và sử lý bằng phương pháp SPSS. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án góp phần làm rõ thực trạng phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND Lào hiện nay; chỉ ra những hạn chế, thách thức đối với phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương phải đối mặt và nguyên nhân. 6 Luận án đề xuất những quan điểm, giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND Lào hiện nay, góp phần tạo lập căn cứ cho việc hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách đối với phụ nữ. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND Lào hiện nay. Luận án góp phần cung cấp thêm những luận cứ cho việc hoạch định, thực hiện chính sách về phụ nữ, bình đẳng giới, đặc biệt là chính sách cán bộ nữ trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND Lào. Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy những chuyên đề liên quan đến vấn đề phụ nữ trong LĐ, QL, bình đẳng giới... của chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học và các ngành khác có liên quan. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục lục công trình tác giả đã công bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 9 tiết. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI CỦA LUẬN ÁN 1.1.1. Các công trình nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài Trong nội dung này, luận án sẽ trình bày tổng quát các công trình nghiên cứu tiêu biểu ở Việt Nam, một số nước và tổ chức quốc tế đã được nghiên cứu liên quan đến vấn đề phụ nữ và bình đẳng giới nói chung, phụ nữ tham gia tham gia LĐ, QL nói riêng. Liên quan đến đề tài có một số công trình sau đây: Thứ nhất: Những nghiên cứu về phụ nữ và bình đẳng giới Lê Thi “Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt nam hiện nay” [46]. Công trình này chính là kết quả bước đầu của sự vận dụng quan điểm của Đảng và Nhà nước, cũng như quan điểm tiếp cận giới vào việc xem xét các vấn đề có liên quan đến bình đẳng giới, kết hợp với các hình thức thu nhập thông tin qua các cuộc khảo sát đời sống phụ nữ công nhân, trí thức trong quá trình đổi mới đất nước. Từ đó đã nêu lên vấn đề đáng quan tâm và đề xuất ý kiến về một số chính sách xã hội cần thiết, nhằm xây dựng bình đẳng giới trong tình hình mới. Dương Thị Minh “Gia đình Việt Nam và vai trò người phụ nữ hiện nay” [34]. Luận án trình bày một số quan niệm chung về gia đình và vai trò của người phụ nữ trong gia đình, các nhân tố tác động đến vai trò người phụ nữ trong gia đình. Đồng thời, tác giả luận án làm rõ đặc điểm cơ bản của gia đình Việt Nam, vai trò người phụ nữ trong quá trình xã hội hóa một số chức năng trong gia đình và xu hướng biến đổi vai trò người phụ nữ trong giai đoạn hiện nay, qua đó chỉ ra gia đình và người phụ nữ phát huy được vai trò to lớn đối với tiến trình phát triển đất nước qua những thời kỳ lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, gia đình và người phụ nữ cũng chịu nhiều tác động khách quan và chủ quan, đó là tác động ảnh 8 hưởng của những yếu tố lịch sử, yếu tố thời đại - toàn cầu hóa và thực tiễn của nền kinh tế - xã hội nước nhà trong chuyển đổi từ truyền thống sang hiện đại. Trên cơ sở làm rõ thực trạng, luận án đã mạnh dạn nêu ra những phương hướng, những quan điểm chỉ đạo và những giải pháp nhằm xây dựng thành công gia đình mới và phát huy hơn nữa vai trò người phụ nữ đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cộng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay. Đỗ Thị Thạch, “Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [42]. Tác giả đã làm rõ quan niệm về trí thức, trí thức nữ, trên cơ sở đó, đi sâu phân tích sự hình thành, đặc điểm của nguồn lực trí thức nữ Việt Nam và những đóng góp của họ đối với sự phát triển của gia đình và xã hội...; đề xuất một số giải pháp phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ đó góp phần quan trọng trong việc xoá bỏ định kiến giới, khẳng định vai trò to lớn của họ đối với sự phát triển của đất nước. Công trình đã nghiên cứu vấn đề trí thức nữ dưới một góc nhìn mới, góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ định kiến giới, khẳng định vai trò to lớn của người phụ nữ đối với sự phát triển của xã hội, nhất là lĩnh vực khoa học và lĩnh vực LĐ, QL nhằm thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. Phan Thanh Khôi, Đỗ Thị Thạch, “Những vấn đề giới - từ lịch sử đến hiện đại” [20]. Đây là công trình của tập thể các nhà khoa học của Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Các tác giả của công trình đã nghiên cứu các vấn đề về giới từ tiếp cận trong các tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh để đi đến khẳng định những tư tưởng, quan điểm của các nhà mácxít nêu trên là cơ sở lý luận, phương pháp luận quan trọng để nhận thức và thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. Vấn đề giới trong đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng được các tác giả đi sâu phân tích thấy được đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam, được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá là rất tiến bộ và tích cực trên phương diện bình đẳng giới. 9 Trịnh Quốc Tuấn, Đỗ Thị Thạch, “Khoa học giới - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” [50]. Các tác giả của công trình đã cung cấp một bức tranh về lịch sử phát triển của khoa học giới; đồng thời nghiên cứu vấn đề giới dựa trên cách tiếp cận các lĩnh vực của đời sống gia đình và xã hội. Vấn đề giới trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý được các tác giả phân tích với các nội dung cụ thể như: Mối liên hệ giữa bình đẳng giới với công tác LĐ, QL; thực trạng tham gia LĐ, QL của nam giới và nữ giới - thành tựu, hạn chế và nguyên nhân và một số giải pháp nhằm khắc phục tình trạng bất bình đẳng giới trong LĐ, QL. Trần Thị Vân Anh, Nguyễn Hữu Minh (Chủ biên), “Bình đẳng giới ở Việt Nam” [2]. Đây là kết quả điều tra cơ bản về bình đẳng giới, các tác giả xác định thực trạng bình đẳng giới về cơ hội và khả năng nắm bắt cơ hội của phụ nữ, của nam giới; tương quan giữa hai giới trên lĩnh vực lao động - việc làm, giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe và địa vị trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Công trình nghiên cứu này giúp cho tác giả luận án thấy được vai trò của phụ nữ trong giải quyết các vấn đề của xã hội nói chung và LĐ, QL nói riêng. Đỗ Thị Thạch, “Tác động của toàn cầu hoá đối với thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay” [43]. Trên cơ sở tiếp cận quá trình toàn cầu hóa như là một tất yếu khách quan tác động đến mọi quốc gia trên các mặt và đời sống xã hội, tác giả đã phân tích khá rõ cả tác động tích cực và tiêu cực của toàn cầu hóa đến việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. Các lĩnh vực mà quá trình toàn cầu hóa tác động đến là: gia đình, lao động việc làm và thu nhập, văn hóa xã hội. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp để phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của toàn cầu hóa tới thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. Vũ Thị Lan Anh, “Quyền phụ nữ các nước ASEAN dưới góc độ so sánh luật” [4]. Qua nghiên cứu pháp luật các nước ASEAN về quyền của phụ nữ, tác giả bài báo cho biết: quyền của phụ nữ được ghi nhận ở các văn bản pháp luật ở tầm quốc tế, khu vực và quốc gia. Đặc biệt là quyền tham chính: “Quyền chính trị cũng là quyền quan trọng của phụ nữ ở các nước ASEAN. Điều 7 Công ước CEDAW chỉ rõ phụ nữ được đảm bảo quyền bầu cử, quyền tham gia lãnh đạo 10 trong các cơ quan nhà nước và quyền thực thi các trách nhiệm xã hội của mình…” [4, tr.6]. Phụ nữ cũng như nam giới đều có thể được đề cử giữ các chức vụ lãnh đạo trong các cơ quan quyền lực nhà nước. Trừ ngoại lệ là Myanmar và Brunei, phụ nữ các nước ASEAN đều được pháp luật đảm bảo quyền tham gia chính trường. Pháp luật các nước ASEAN nhìn chung đều quy định về quyền phụ nữ và vấn đề bảo vệ người phụ nữ nói chung, tham gia chính trị nói riêng, nhưng ở các mức độ khác nhau; mặc dù được pháp luật bảo vệ nhưng trên thực tế ở khu vực ASEAN, quyền của phụ nữ có tính thực thi chưa cao. Chính vì thế, cho tới thời điểm này, việc đảm bảo các quyền công dân, đặc biệt là quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực tham chính vẫn còn là vấn đề nổi cộm của nhiều quốc gia trong khu vực ASEAN. Giải quyết vấn đề này không chỉ đơn giản về mặt pháp lý mà còn phụ thuộc nhiều vào ý thức xã hội và ý thức công dân. Vì vậy, thiết nghĩ, người phụ nữ cần có sự quan tâm nhiều hơn nữa từ phía nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân, cho dù họ ở bất cứ cương vị nào trong xã hội. Lê Minh Tiến, “Chính sách và pháp luật của ASEAN về các vấn đề liên quan đến phụ nữ” [49]. Tác giả của bài viết đã chỉ rõ, ngay từ khi mới thành lập, ASEAN và các quốc gia thành viên đã nhận thức rõ vai trò cũng như những đóng góp của phụ nữ trong quá trình phát triển của khu vực, đồng thời, đã có những nỗ lực thúc đẩy vị thế của người phụ nữ, có những hoạt động thiết thực vì sự tiến bộ của phụ nữ trong khu vực nói riêng và trên trường quốc tế nói chung. Chính sách này đã được thể hiện nhất quán, xuyên suốt và ngày càng cụ thể hơn qua các văn kiện pháp lý cơ bản của ASEAN. Bài viết, bao gồm 2 nội dung chính, một là, những nỗ lực của ASEAN trong hoạt động xây dựng chính sách và pháp luật về các vấn đề liên quan đến phụ nữ; hai là, tuyên bố ASEAN vì sự tiến bộ của phụ nữ và tuyên bố xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ khu vực ASEAN những văn kiện pháp lý chuyên ngành cơ bản về các vấn đề liên quan đến phụ nữ. Lê Quý Đức, “Phẩm chất phụ nữ Việt Nam truyền thống và hiện đại” [11]. Trong cuốn sách này, tác giả đã trình bày và khẳng định rằng, xuyên suốt lịch sử giữ nước và dựng nước và xây dựng đất nước, người phụ nữ Việt Nam có 11 vai trò hết sức quan trọng. Dù trong hoàn cảnh nào, thời đại nào, người phụ nữ cũng luôn vừa là hậu phương, vừa là tiền tuyến vô cùng vững chắc. Ngày nay, đất nước đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, lại tiếp tục không thể thiếu vắng vai trò của người phụ nữ, đứng trước những thời kỳ và thách thức mới của thời đại, phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam càng thêm được thử thách và phát huy những giá trị tốt đẹp vốn có. Phụ nữ Việt Nam hiện đại thể hiện tinh thần yêu nước thông qua những hành động cụ thể, gắn kết bản thân, gia đình và Tổ quốc, ra sức đóng góp vào thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Võ Thị Mai, “Đánh giá chính sách bình đẳng giới dựa trên bằng chứng” [33]. Cuốn sách này được hình thành từ kết quả nghiên cứu của đề tài “Đánh giá chính sách về bình đẳng giới dựa trên bằng chứng thực địa”, có bổ sung một số nguồn tài liệu sẵn có, đặc biệt là nguồn số liệu thống kê quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội nói chung, thực hiện bình đẳng giới nói riêng trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Nội dung của cuốn sách đã nêu rõ cơ sở lý luận và cách tiếp cận nghiên cứu chính sách về bình đẳng giới, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách về bình đẳng giới; đồng thời đưa ra các giải pháp tăng cường chính sách về bình đẳng giới để thực hiện bình đẳng giới tốt hơn nữa trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Lê Thị Quý, “Bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay” [39]. Tác giả đã phân tích quan niệm về bình đẳng giới và nhấn mạnh:“Thực tế cuộc sống Việt Nam cho thấy, có sự khác biệt về bình đẳng giới thực chất và bình đẳng giới hình thức” [39, tr.76]. Bài viết đã chỉ ra quá trình phát triển nhận thức giới ở Việt Nam và nhận định: Phụ nữ ngày nay đã được độc lập về kinh tế, được tham gia và thừa nhận trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, gia đình, thậm chí ở nhiều nơi, họ còn đứng ở vị trí lãnh đạo cao cấp. Đây là những biểu hiện của bình đẳng giới thực chất ở Việt Nam. Về luật pháp và chính sách 12 bình đẳng giới, Việt Nam đã có những tiến bộ về giới, công nhận quyền bình đẳng nam và nữ ở trong xã hội và gia đình. Tác giả đã bước đầu chỉ ra những thách thức hay bình đẳng giới hình thức ở Việt Nam như: luật thì có nhưng không được thực hiện, sự vất vả của phụ nữ trong vai trò “kép”, nhất là chính sách quy định độ tuổi về hưu của phụ nữ là 55 tuổi, nam giới là 60 tuổi, chính sách này đã hạn chế các đóng góp và đề bạt đối với phụ nữ trí thức, nhất là khi tỷ lệ phụ nữ tham gia LĐ, QL vốn đã nhỏ bé, chênh lệch so với nam giới, do đó, họ lại càng không có điều kiện thuận lợi hơn để phát triển. Các công trình nghiêu cứu nêu trên đã có những đóng góp như sau: Một là, các công trình, bài viết của các tác giả đã gợi mở ra tính cấp thiết của việc nghiên cứu vấn đề phụ nữ, vấn đề giới và bình đẳng giới. Hai là, các công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới; quan niệm về giới và bình đẳng giới, việc thực thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực LĐ, QL. Ba là, một số công trình đã phân tích vị trí, vai trò của phụ nữ trong lịch sử cũng như hiện tại, họ khẳng định rằng: “Dù trong hoàn cảnh nào, thời đại nào, người phụ nữ cũng luôn vừa là hậu phương, vừa là tiền tuyến vô cùng vững chắc. Ngày nay, đất nước đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, càng không thể thiếu vắng vai trò của phụ nữ...”. Các tác giả còn phân tích sâu về vị trí, vai trò của phụ nữ trong thời kỳ đổi mới kinh tế - xã hội gắn với vấn đề việc làm, thu nhập, sức khỏe, học vấn chuyên môn; phụ nữ quản lý kinh tế - xã hội; phụ nữ và gia đình. Bốn là, các công trình nghiên cứu đã hệ thống hóa các chính sách và pháp luật liên quan đến quyền của phụ nữ và bình đẳng giới ở Việt Nam và một số quốc gia, khu vực. Dựa trên cơ sở đó, các công trình nghiên cứu cũng đưa ra quan điểm và giải pháp nhằm từng bước khắc phục những tồn tại và hạn chế để đảm bảo thực hiện quyền bình đẳng nam nữ về mọi mặt, đặc biệt là trong lĩnh vực tham chính. 13 Thứ hai: Nghiên cứu chung về hệ thống chính trị và phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý nói chung, trong HTCT nói riêng Nguyễn Văn Huyên, “Hệ thống chính trị Anh, Pháp, Mỹ (Mô hình tổ chức và hoạt động)” [18]. Tác giả của cuốn sách đã tập trung nghiên cứu: Quá trình hình thành, mô hình tổ chức và hoạt động của HTCT Anh, Pháp, Mỹ; đồng thời, đánh giá ưu, nhược điểm, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của HTCT Anh, Pháp, Mỹ; sau đó, phân tích và nêu ra những giá trị tham khảo cho việc đổi mới và hoành thiện HTCT Việt Nam. Lê Minh Thông, “Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” [47]. Tác giả cuốn sách này cho rằng: Trong hơn 20 năm đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều chủ trương, giải pháp từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động của Đảng và Nhà nước, của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, tích cực khắc phục sự không tương thích giữa đổi mới kinh tế và đổi mới HTCT. Do vậy, HTCT Việt Nam đã đáp ứng ngày càng tốt hơn nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN); nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân và hội nhập kinh tế quốc tế. Cuốn sách cung cấp một số vấn đề lý luận và thực tiễn của HTCT Việt Nam, qua đó nêu bật bước chuyển từ tư duy lý luận về chuyên chính vô sản và hệ thống chuyên chính vô sản sang tư duy về dân chủ XHCN và HTCT, chuyển từ tư duy lý luận về nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Trần Đình Hoan, “Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam giai đoạn 2005-2020” [17]. Trong cuốn sách này, tác giả tiếp cận nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với tổng kết thực tiễn đổi mới ở Việt Nam trong hơn hai mươi năm qua, tác giả đã tập trung phân tích làm rõ tính tất yếu khách quan của việc đổi mới HTCT ở Việt Nam hiện nay, nêu ra các mục tiêu, quan điểm và nguyên tắc đổi mới HTCT, đồng thời đề xuất phương hướng và giải pháp đổi mới HTCT ở Việt Nam giai đoạn 2005-2020. 14 Nguyễn Hữu Đồng, “Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay” [10]. Nội dung cuốn sách bước đầu nghiên cứu làm rõ đúng vị trí, vai trò, nhiệm vụ của Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong HTCT; làm rõ thực trạng hoạt động của Đảng và tổ chức chính trị - xã hội hiện nay; những vấn đề đang đặt ra trong tổ chức và hoạt động của Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đồng thời cuốn sách còn đề cặp đến vấn đề đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, nhằm đổi mới HTCT, thực hiện tốt dân chủ hóa XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Phạm Ngọc Trâm, “Quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam (1986-2011)” [54]. Cuốn sách này nhằm phản ánh những thành tựu và hạn chế trong quá trình đổi mới HTCT ở Việt Nam giai đoạn 1986-2011; thông qua quá trình lịch sử vạch ra mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới HTCT với toàn bộ công cuộc đổi mới đất nước, nhất là đổi mới về kinh tế; trên cơ sở chọn lọc những vấn đề, những sự kiện lịch sử tiêu biểu, đề tài phản ánh quá trình chuyển biến tích cực, những mối quan hệ phụ thuộc, tác động lẫn nhau cũng như những mặt hạn chế, bất cập của quá trình đổi mới cả HTCT và từng bộ phận của HTCT. Đồng thời làm rõ những đặc điểm cơ bản và những vấn đề có tính quy luật của quá trình đổi mới HTCT ở Việt Nam giai đoạn 1986-2011. Trần Thị Tuy Hòa, “Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý” [16]. Cuốn sách này là ấn phẩm đầu tiên về đề tài phụ nữ tham gia lãnh đạo và quản lý. Tác giả cuốn sách đã tiếp cận vấn đề nghiên cứu dựa trên sự tham gia LĐ, QL của phụ nữ, trình bày một số vấn đề phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo và quản lý, đưa ra những vấn đề cơ bản của lãnh đạo và quản lý, những yêu cầu của công tác lãnh đạo và quản lý, sự cần thiết và ưu thế của phụ nữ trong công tác quản lý và lãnh đạo, vài nét về sự tham gia quản lý và lãnh đạo của phụ nữ trên thế giới; phân tích thực trạng phụ nữ tham gia lãnh đạo và quản lý trong lịch sử Việt Nam, khả năng của phụ nữ tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới. Qua đó, tác giả đưa ra quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan